Lễ Thánh Gia Thất Năm B
Bài Ðọc
I: Hc 3, 3-7. 14-17a
"Ai
kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ".
Trích sách
Huấn Ca.
Thiên Chúa
suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con.
Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người
thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái,
khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu
dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm
con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống.
Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ
đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu
cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở
theo đường lối của Người (x. c. 1).
Xướng: 1)
Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người!
Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền
thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn
như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc
dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. - Ðáp.
3) Nguyện
xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của
Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu
đoàn con! - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Cl 3, 12-21
"Về
đời sống gia đình trong Chúa".
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em
thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và
được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung,
ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có
chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng
hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là
dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong
lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể.
Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh
em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng
những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân,
để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong
lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh
Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Hỡi các bà
vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy
yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ
trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ
với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia:
Cl 3, 15a. 16a
Alleluia,
alleluia! - Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện
cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. - Alleluia.
Phúc Âm:
Lc 2, 22-40 (bài dài)
"Con
trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ
ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem
để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai
đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật
cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu
con.
Và đây ở
Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa,
và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel.
Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không
chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền
thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ
của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy
Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu
soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người
đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và
nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều
người trong Israel
phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối.
Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được
biểu lộ!"
Lúc ấy,
cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn
thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã
tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng
sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu
cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai
ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình
là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên
Chúa ở cùng Người.
Ðó là lời
Chúa.
Hoặc đọc
bài vắn này: Lc 2, 22. 39-40
"Con
trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ
ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem
để hiến dâng cho Chúa. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở
lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và Con Trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy
khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Với lòng
thành tín của người cha nuôi, Thánh Giuse đã chẳng quản ngại trời đông giá rét,
đêm tối đường xa. Người vội vã đem Hài Nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập.
Hình ảnh
người cha hiền, người chồng trung tín luôn yêu thương bảo vệ gia đình của Thánh
Giuse phản ánh tính tuyệt vời của Thiên Chúa, của Ðức Giêsu đối với Giáo Hội, đối
với nhân loại.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, qua bài Tin Mừng hôm nay, mẫu gương của Thánh Giuse dạy cho chúng con: Tất
cả vì hạnh phúc gia đình, và tuân hành ý Chúa. Xin cho các bậc gia trưởng, các
vị hiền mẫu và những người con luôn chu toàn vai trò của mình. Gia đình hạnh
phúc, Thiên Chúa được vinh danh, xã hội luôn an bình. Amen.
Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất
Chúng ta đọc: Huấn ca 3,3-7.14-17a
Thư Côlôsê 3,12-21;
Tin Mừng Luca 2,22-40 hoặc 2,22-29.39-40
Lễ
Thánh Gia thất tương đối mới. Nó được thiết lập vào cuối thế kỷ 19. Ðức Giáo
Hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại
đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ.
Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến
tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào "gia đình công giáo" có từ
thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh Gia thất. Ðức Giáo Hoàng
Lêô XIII cũng nhưn các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ
Thánh Gia Thất được thiết lập trong bối cảnh ấy.
Dĩ
nhiên đời sống gia đình hiện nay có nhiều vấn đề khác với hồi cuối thế kỷ 19.
Và ngày lễ Thánh Gia Thất hôm nay là dịp để chúng ta suy nghĩ về đời sống cụ thể
của các gia đình chúng ta. Những vấn đề kế hoạch hóa gia đình và giáo dục gia
đình mới là những đề tài chắc chắn rất hợp thời, nếu chưa muốn nói là khẩn
trương. Nhưng trong Thánh lễ chúng ta không thể suy nghĩ rộng rãi. Chúng ta chỉ
có thể lắng nghe Lời Chúa theo Phụng vụ để được tâm hồn đạo đức, giúp chúng ta
sau đó suy nghĩ cụ thể hơn.
1. Vâng Phục Thiên Chúa
Tư
cách đạo đức, mà các gia đình phải có, được ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay nhấn
mạnh. Bài sách Huấn ca có vẻ không sâu sắc và giống như nhiều bài "gia huấn
ca", khuyên con cái phải thờ kính cha mẹ. Tuy nhiên nền tảng của những lời
khuyên ở đây lại rất sâu. Con cái phải kính yêu cha mẹ vì Chúa; phải coi các
người như Chúa, đến nỗi bỏ bê cha là lộng ngôn phạm thượng và khinh dể mẹ là chọc
giận Thượng đế. Thứ đạo đức này có lỗi thời không? Rõ ràng thư Phaolô cũng có một
lập trường như vậy. Thánh Tông đồ viết: con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi
sự vì là điều đẹp lòng Chúa. Dĩ nhiên Người cũng đã nói luôn: cha mẹ đừng để
con cái trở thành khiếp đảm! Nhưng theo người, thái độ của con cái vẫn là phải
vâng phục. Và ở điểm này, người đã theo sát đường lối của Phúc Âm.
Quả
vậy, một trong những câu điệp khúc của các bài tường thuật cuộc đời niên thiếu
của Chúa Yêsu là Người đã trở về Nadarét nơi cha mẹ Người cư trú; và Người đã lớn
lên đầy khôn ngoan và ân sủng; Người đã phục tùng cha mẹ Người. Khi viết đi viết
lại điệp khúc đó, Luca làm vọng lại nhiều lời Cựu Ước, đặc biệt những câu về
Samson và Samuel (Tp 13,24-25; 1S 2,19.21.26). Người cũng viết về Yoan Tẩy giả
một cách tương tự (1,80). Tất cả khiến chúng ta nghĩ rằng: trong khi đề cao thần
tính của trẻ Yêsu, tác giả các sách Phúc Âm vẫn nhấn mạnh việc Người vâng phục
cha mẹ, để nêu gương sáng cho hàng con cái trong các gia đình.
Những
người này cũng hãy yên tâm. Sách Huấn ca đòi con cái đối với cha mẹ phải như nô
đối với chủ (3,7); nhưng bài Tin Mừng dường như đòi bậc cha mẹ nhiều hơn. Các
người phải vâng lời luật Chúa như cha mẹ Yêsu... Ðến ngày phải làm lễ thanh tẩy
theo luật Môsê, cha mẹ Người đã đem trẻ Yêsu lên dâng trong Ðền thờ. Chúng ta
không hiểu việc thi hành luật pháp đã đòi các người phải hy sinh thế nào. Nhưng
chúng ta có thể đoán được những đau đớn tinh thần Maria phải chịu theo lời
Simêon hôm nay tiên báo.
Ông
và bà tiên tri Anna thuộc loại người đạo đức trong dân Israel, sống chờ đợi
ngày Chúa an ủi dân Người, tức là trông mong thời đại Thiên Sai Cứu Thế. Khi được
Thánh Thần cho biết trẻ Yêsu đây chính là Ðấng muôn dân trông đợi, cả hai đều
sung sướng cảm tạ Thiên Chúa đã cho mình được phúc nhìn thấy ánh sáng muôn dân.
Nhưng nghĩ đến trách nhiệm của những người sống trong thời đại ấy, Simêon đã lặp
đi lặp lại tư tưởng của Kinh thánh, đặc biệt nhiều đoạn Isaia, trong đó Ðấng
Thiên Sai không những được ca tụng như ánh sáng của muôn dân (60,1-3; 52,7-10),
nhưng đồng thời cũng là tảng đá vấp ngã cho nhà Israel (8,12-15). Tâm tư mọi
người sẽ phải lộ ra (Lc 2,35). Ðấu tranh, dằn vặt sẽ xảy ra nơi lòng mọi người,
bó buộc người ta phải lựa chọn hoặc chấp nhận hay phủ nhận đường lối của Người.
Maria
cũng không thoát được luật chung đó. Những lời của Chúa luôn luôn làm Người phải
đem lòng mà suy nghĩ. Chính lúc ấy một mũi gươm đâm thâu lòng Người. Mũi gươm
này không phải chỉ là lưỡi đòng khi đâm vào cạnh sườn Chúa chịu treo trên Thập
giá thì cũng như chọc vào trái tim Người. Mũi gươm mà Simêon gợi lên hôm nay là
mũi gươm "Lời Chúa" sống động và linh hoạt, sắc bén hơn mọi thứ gươm
hai lưỡi, và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách, gân cốt và tủy não cùng biện
phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ (Hr 4,12).
Vậy,
nếu Lời Chúa đối với Ðức Maria còn sắc bén như vậy và còn đòi hỏi Người phải hy
sinh đau đớn để luôn luôn đi sâu hơn vào mầu nhiệm đức tin, thì huống nữa là đối
với chúng ta hết thảy! Con cái phải vâng lời cha mẹ. Nhưng cha mẹ cũng phải
vâng lời Thiên Chúa. Thi hành chỉ thị này của cha mẹ đòi hy sinh. Nhưng những
hy sinh của bậc cha mẹ để giữ Lời Chúa còn to lớn hơn nhiều. Và có hy sinh như
thế mới là đạo đức.
Thật
ra đạo đức gia đình không phải chỉ đơn sơ như vậy. Nó không phải chỉ đòi con
cái vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa. Ngay bài sách Huấn ca đã giục
con cái tìm cách làm đẹp lòng Chúa khi vâng lời cha mẹ; và bài Tin Mừng cho thấy
Ðức Maria phải khổ vì thánh ý Chúa nơi chính trẻ Yêsu. Ðạo đức gia đình không
nguyên chỉ lên thẳng từ con cái đến cha mẹ rồi tới Thiên Chúa. Nền đạo đức thật
đã tỏ hiện khi chính Thiên Chúa xuống với con người như chúng ta đã suy niệm
nhiều trong mùa Giáng sinh này (1Tm 3,16). Và như vậy lý do cuối cùng của nền đạo
đức gia đình cũng phải sát nhập vào chiều hướng đi xuống. Nói cách khác đạo đức
gia đình đòi con cái phải vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa; nhưng nó
chỉ thực hiện được nếu mọi người trong gia đình biết nhận lấy lòng đạo đức mà
Chúa đã ban xuống cho trần gian trong mầu nhiệm Giáng sinh, để tựa vào đó mà đi
lên.
Ðó
là điều mà bài thư Phaolô hôm nay muốn nói với chúng ta.
2. Hãy Mặc Lấy Ðức Mến
Thánh
Tông đồ không hài lòng khi nhìn thấy nhiều người không hiểu rõ lòng đạo đức
Kitô giáo. Họ tưởng đây cũng là một trong nhiều lý tưởng đạo đức. Các lời
khuyên Phúc Âm về đời sống gia đình chẳng hạn bị coi như là một thứ gia huấn
ca. Ðạo nào cũng dạy thờ cha kính mẹ và cha mẹ thì phải vâng mệnh trời mà sửa dạy
con cái. Người ta không thấy rõ nét độc đáo và mới lạ của nền đạo đức Phúc Âm.
Thế nên thánh Phaolô phải mạnh mẽ lên tiếng. Người gọi tín hữu bằng những từ ngữ
chọn lọc nhất của Kinh Thánh. Họ là các thánh, là những người được tuyển chọn
và là những người được Thiên Chúa yêu mến. Các danh xưng này nằm trong sách Thứ
luật (7,6). Chúng là tên riêng của dân Chúa. Họ thánh không phải vì họ tốt
lành, nhưng chỉ vì Ðấng thánh đã tuyển chọn và đang thánh hóa họ. Và Người làm
như vậy chỉ vì yêu mến.
Họ
là những người được yêu. Nhưng họ lại không sống trong tình yêu. Kinh nghiệm
lưu đày đã mở mắt cho họ thấy cuộc đời bất trung bất nghĩa của họ như thế nào,
đến nỗi từ ngữ dân thánh của Chúa từ nay sẽ dành để nói về dân ở thời đại thiên
sai (Is 4,3). Và như vậy các tín hữu tiên khởi của Hội Thánh Chúa Kitô tự xưng
là "thánh hữu" thì thật hợp lý. Nhưng khi xử dụng từ ngữ này, họ vẫn
biết mình chưa thánh. Sự thánh thiện mới tỏ hiện nơi họ thôi vì Ðức Kitô đã đem
sự sống sung mãn của Thiên Chúa vào thế gian. Và bổn phận của họ bây giờ là phải
đón nhận lấy sự thánh thiện ấy.
Việc
đón nhận này được thánh Phaolô mô tả như là một việc "mặc lấy". Người
nói: anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn biết chạnh thương, đức nhân hậu khiêm nhu,
hiền từ và đại lượng. Nghe đọc thì tưởng đó là một mới những nhân đức, ít nhiều
liên hệ với nhau. Nhưng dò lại thì sẽ thấy chúng gợi lên những lời sách Xuất
hành (34,6) nói đến Thiên Chúa là Ðấng "chạnh thương, huệ ái, bao dung, và
đầy nhân nghĩa, tín thành". Và như vậy, thánh Phaolô muốn nói chúng ta phải
mặc lấy chính những tâm tình của Chúa. Lòng đạo đức của chúng ta phải là lòng đạo
đức của Người. Nếu không, nói chỉ là lòng đạo đức của loài người chứ không phải
của Kitô giáo. Người tín hữu của Chúa Kitô trước khi sống, tức là hành động, đã
phải cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới là chính sự thánh thiện của
Thiên Chúa, để từ đó cư xử như Thiên Chúa.
Người
đã bày tỏ lòng "đạo đức" của Người khi đặt ra và thi hành kế hoạch cứu
thế, ban Con Một Người cho nhân loại để làm giá tha thứ và hòa giải loài người
tội lỗi trở về với mình... Ðó chính là lòng "bác ái" của Thiên Chúa,
mà thánh Phaolô bảo chúng ta phải mặc lấy. Nếu không, chúng ta không được tha
thứ, không được thánh thiện, không được đạo đức. Nhưng nếu chúng ta mặc lấy
lòng bác ái tha thứ, thì có lẽ nào chúng ta lại không biết tha thứ và chịu đựng
lẫn nhau, để sống hòa hợp như trong một thân thể?
Thế
là thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta thấy đâu là cơ sở và nền tảng của nền đạo đức
Kitô giáo. Thiên Chúa đã đổ nó từ trời xuống trên chúng ta khi ban Con Một Người
làm hy tế tha thứ, giao hòa và bình an. Chúng ta đón nhận lòng đạo đức ấy thì
cũng phải sống tha thứ hòa hợp và hợp nhất như trong một cơ thể.
Những
điều này thật hợp để nói về đời sống gia đình. Và bây giờ chúng ta thấy rõ đạo
đức gia đình đối với chúng ta phải được xây dựng trên nền tảng đức mến trọn
lành của Thiên Chúa. Những gia đình nào sống như vậy mới thật là những gia đình
Kitô hữu và mới giống như Thánh Gia Thất Chúa Yêsu, Ðức Maria và Thánh Yuse. Nếp
sống của họ bây giờ sẽ được như lời thư Phaolô viết tiếp: tất cả những gì họ
nói và làm đều vì Danh Chúa Yêsu và vợ chồng, cha mẹ, con cái đều giúp đỡ nhau
nên thánh thiện. Họ có nếp sống gia đình tuyệt hảo, vì lời Ðức Kitô, tức là ân
sủng của Người đã ngự nơi họ dồi dào phong phú.
Thế
thì hôm nay muốn thánh hóa gia đình theo gương Thánh Gia Thất, chúng ta hãy
nghe lời thánh Phaolô sốt sắng cử hành Thánh lễ này. Ở đây Thiên Chúa bày tỏ
lòng bác ái từ tâm đối với hết thảy chúng ta khi ban thịt máu Con của Người làm
giá cứu chuộc và cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận lấy như tinh thần và sự sống
mới mà chúng ta phải mặc lấy, để như Chúa đã yêu thương chúng ta thì vợ chồng,
cha mẹ, con cái, được tình bác ái của Người thúc đẩy sẽ xây dựng, phát triển đời
sống gia đình như Thánh Gia Thất.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lễ Thánh Gia
Mt 2,13-15.19-23
*******
VÌ TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ SỐNG
Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, báo mộng cho
ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ
tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” (Mt 2,19-20)
Suy niệm: Đức Giêsu, Con Thiên
Chúa làm người, ngay từ lúc mới là một mầm sống thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ
Maria đã phải đối mặt với biết bao nhiêu nguy cơ chết yểu. Thánh cả Giuse và Đức
Maria đã làm tất cả những gì có thể làm để bảo vệ sự sống quí giá ấy dù phải trả
giá rất đắt: đem Hài Nhi trốn sang Ai Cập chỉ vì Hài Nhi bị tìm giết, đem Hài
Nhi trở về cũng vì “kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” Gia đình thánh gia chính
là tổ ấm yêu thương nuôi dưỡng và bảo vệ cho mầm sống Giêsu lớn lên, hiến thân
mình để trở nên nguồn sống vĩnh cửu cho muôn người.
Mời Bạn: Từ hình ảnh một thai nhi
bị phá với hai bàn tay chắp lại, nhà thơ Xuân Vũ Trần Đình Ngọc viết lên những
vần thơ chan hoà nước mắt:
“Con nằm đây, hai tay chắp, khẩn cầu
… lạy Mẹ Cha trăm ngàn lạy nữa
Hãy để con… cho con được sinh ra!
Gia đình ngày nay lắm khi không còn là nơi vun đắp tình thương và
bảo vệ sự sống; những sinh mạng con người vô tội bị truy lùng ngay từ khi còn
trong trứng nước, và bị lôi ra khỏi lòng mẹ để bị tiêu diệt với sự đồng ý của
chính những người là cha mẹ mình. Xin bạn đừng vô cảm, nhưng hãy dũng cảm gọi
đó là một trong những tội ác lớn nhất mà con người đã từng phạm. Và mời bạn làm
những gì tốt đẹp nhất để các gia đình, bắt đầu từ gia đình bạn, trở thành nơi của
tình thương và sự sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con ước ao dâng hiến chính mình con để đền tạ biết
bao tội ác con người đã làm xúc phạm đến sự sống.
(5 Phút Lời Chúa)
*****************************************
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 30 - 12
Ngày VI Trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh; Thánh Gia:Chúa
Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse; Hc 3, 3-7. 14-17a; Cl 3, 12-21; Tin Mừng theo
Thánh Lc 2, 22-40.
LỜI SUY NIỆM:
Bài ca “An
bình ra đi”: Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được
an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn
dân. Đó là ánh sáng soi đừng cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân
Ngài.” (Lc 2,29-32).
Khi chiêm
ngắm hình ảnh cụ già Ximêon ẵm Chúa Hài Đồng Giêsu trên tay, và ông cất tiếng
ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Ông đã thỏa mãn khi nhìn thấy ơn cứu độ Chúa dành
sẵn cho muôn dân. Ông xin Chúa cho ông được ra đi trong an bình. Trong đời sống
của mỗi chúng ta có khi nào cảm nghiệm được như Tiên tri Ximêon chưa? Điều này
nhắc nhở chúng ta phải luôn biết chuẩn bị tâm hồn cho phần rỗi. Vì ngày giờ ra
đi của mỗi người trong chúng ta sẽ không biết trước được, nó sẽ bất ngờ, không
lệ thuộc tuổi tác hay là sức khỏe. Nhưng nếu chúng ta đã sẵn sàng rồi thì sự ra
đi của chúng ta sẽ là sự ra đi trong an bình, và là một sự khát khao thật sự của
mỗi chúng ta.
Mạnh Phương
*****************************************
30 Tháng Mười Hai
Sự Chọn Lựa Của Chúa
Vào dạo tháng 12 năm 1987, Ðức Hồng Y Jean Marie
Lustiger, đương kiêm Tổng Giám Mục Paris, Pháp Quốc, đã cho xuất bản một quyển
sách mang tựa đề " Sự chọn lựa của Thiên Chúa". Qua tựa đề này, ai
cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình Ðức Tin của
ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông
ngoại là một thầy Rabbi uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Ðức
Tin Công Giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie dĩ nhiên đi ngược lại
với xác tín của gia đình, nhất là mẹ cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở đi qua trại
tập trung Ðức Quốc Xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: "Các con hãy giữ
mình, chớ theo đạo Công Giáo. Ðây là một cơn bệnh hiểm nghèo".
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của
người mẹ. Cũng giống như thi sĩ Paul Claudel khi ngắm nhìn ánh nến lung linh
trên bàn thờ, bỗng nhận ra tiếng gọi của Chúa, Jean Marie Lustiger cũng đã nghe
được tiếng gọi thầm kín ấy một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà
thờ chính tòa Orleáns. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng
ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng... Nhưng chính trong nỗi
trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng
gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Ðức Hồng Y Jean
Marie Lustiger tuyên xưng rằng: "ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Ðấng
Cứu Thế trong nhân loại là một Mầu Nhiệm của lòng thương xót". Thiên Chúa
yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo
đường của con người. Do đó, theo Ðức Hồng Y Lustiger, Hy Vọng, chính là tin rằng
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.
Tin Mừng được loan báo như một vết dầu loang.
Chính nhờ trung gian của nhiều người khác nhau mà Thiên Chúa ngỏ lời với con
người. Nói như thi sĩ Pau Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong.
Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết
để ngỏ với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi một biến cố
xảy đến, mỗi một cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung
gian của những biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô
sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ
say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh
như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt,
trong đau khổ của bệnh tật, mất mát: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội
trong lòng người.
Chúng ta cũng biết rằng cuộc đời của mỗi người
chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Mỗi người chúng ta không phải là một con số
trong năm tỷ người đang sống trên mặt đất, nhưng là một lịch sử các biệt trong
Tình Thương của Chúa. Tiếng Chúa gọi chỉ ngỏ với từng người mà thôi. Tên gọi của
từng người chúng ta có một âm vang đặc biệt trong tiếng gọi của Chúa. Mỗi người
chúng ta chỉ có thể nói: Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi...
Trong muôn nghìn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời
tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: "Thiên Chúa là Tình Yêu", Ngài
đang yêu thương tôi.
(Lẽ Sống)
*****************************************
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Gia, Năm ABC
Bài đọc: Sir 3:2-6, 12-14; Col
3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
1/ Bài đọc I: 2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ
vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. 3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, 4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng
vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.
6 Ai tôn vinh cha sẽ được
trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.
12 Con ơi, hãy săn sóc cha
con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. 13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm
thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.
14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với
cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.
2/ Bài đọc II: 12 Anh em là những người được Thiên Chúa
tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm,
nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu
trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho
anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có
lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều
khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến
hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. 16 Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em
thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn
ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những
bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm
hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. 18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như
thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng
cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi
sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con
cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
3/ Phúc Âm:
Năm A:
13 Khi các nhà chiêm tinh
đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: "Này ông,
dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại,
vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! "
14 Ông Giu-se liền trỗi dậy,
và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.
15 Ông ở đó cho đến khi vua
Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi
con Ta ra khỏi Ai-cập.
19 Sau khi vua Hê-rô-đê
băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập,
20 báo mộng cho ông rằng:
"Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết
Hài Nhi đã chết rồi."
21 Ông liền trỗi dậy đưa
Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en.
22 Nhưng vì nghe biết
Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không
dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê,
23 và đến ở tại một thành
kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người
sẽ được gọi là người Na-da-rét.
Năm B:
22 Khi đã đến ngày lễ thanh
tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên
Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng:
"Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa,"24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa
truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người
tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm
an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết
là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền
liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và
chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ
đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài." 33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những
lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà,
và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm
duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu
cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm
nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
36 Lại cũng có một nữ ngôn
sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ
khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi.
Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên
Chúa.
38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến
lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ
ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem. 39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc
như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững
mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Năm C:
41 Hằng năm, cha mẹ Đức
Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia
đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu
bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.
44 Ông bà cứ tưởng là cậu về
chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con
và người quen thuộc.
45 Không thấy con đâu, hai
ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46 Sau ba ngày, hai ông bà
mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt
câu hỏi.
47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc
nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.
48 Khi thấy con, hai ông bà
sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ
như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
49 Người đáp: "Sao cha
mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con
sao?" 50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa
nói.
51 Sau đó, Người đi xuống
cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người
thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn
ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bí quyết để có một gia đình Thánh
Mọi
người trong chúng ta đều đã nhìn thấy và cảm nghiệm được sự khủng hỏang của gia
đình hôm nay. Chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu những vấn nạn liên quan đến
gia đình như: săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, cho vào viện dưỡng lão, giết người
già bằng cái chết êm dịu; ly dị, ly thân, và độc thân; hạn chế sinh sản và phá
thai; con cái bỏ học, bỏ nhà, và bỏ đạo.
Gia
đình Thánh cũng có những vấn đề như gia đình chúng ta: Thánh Giuse cũng toan bỏ
Đức Mẹ cách kín đáo để bảo tòan sự công chính; Đức Mẹ cũng có những quyết định
riêng cho đời mình bằng cuộc sống độc thân để phục vụ Chúa trong Đền Thờ; Chúa
Giêsu cũng để cho cha mẹ vất vả mệt nhọc đi tìm kiếm mình, khi cha mẹ tìm thấy
trong Đền Thờ lại còn hỏi: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết con phải
lo việc của Cha con sao?” Nhưng làm sao Gia Đình Thánh có thể vượt qua những trở
ngại trong đời sống gia đình? Câu trả lời đơn giản là họ biết lắng nghe và làm
theo ý Thiên Chúa.
Các
vấn nạn xảy ra khi con người quá ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và đánh mất tính
tương giao với người khác. Họ không biết định giá, cám ơn, và trả ơn những gì
Thiên Chúa và những người khác đã làm cho họ. Họ không biết kiên nhẫn và tha thứ
cho người khác như Thiên Chúa và những người khác vẫn tha thứ cho họ. Họ quên
đi rằng nếu Thiên Chúa và những người khác cũng ích kỷ như thế, họ sẽ không có
cơ hội để có mặt trên trái đất này.
Hậu
quả phải lãnh nhận: Vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, nên khủng hỏang
gia đình đứa tới khủng hỏang trong xã hội và Giáo Hội. Một ví dụ cụ thể: Việc hạn
chế sinh sản dẫn tới việc mất quân bằng dân số trong quốc gia, các thống kê cho
biết mỗi gia đình cần có 2.2 người con thì mới giữ được sự thăng bằng về dân số,
các nước Âu Châu, Bắc Mỹ, và một số nước kỹ nghệ đã không có đủ tỉ lệ này. Hạn
chế sinh sản cũng là lý do chính của việc khan hiếm linh mục và tu sĩ; nếu chỉ
có một hay hai con, rất khó cho cha mẹ dâng con để phục vụ Chúa!
Các
Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những chất liệu suy tư và nhìn lại hòan cảnh
gia đình của mỗi người chúng ta. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca khuyên
con cái phải săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, dẫu các ngài đã lú lẫn và không tự
săn sóc mình được nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô liệt kê những đức tính và
các cách cư xử cần có để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trong Phúc Âm, Thánh Luca
tường thuật Ngày Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ của Thánh Gia. Một gia đình hạnh
phúc phải biết kính sợ Thiên Chúa, và giữ cẩn thận Lề Luật của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi
già.
1.1/
Giới răn thứ tư: Phải thảo kính cha mẹ.
(1)
Lời Thiên Chúa dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao
lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm
thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.”
(2)
Lập luận của con người: Quá bận, không có thời giờ lo cho cha mẹ! Già yếu bệnh
họan như thế đưa vào viện dưỡng lão tốt hơn. Có bác sĩ và y tá săn sóc thường
trực. Thỉnh thỏang vào thăm tí được rồi. Thực tế: Có những viện dưỡng lão cả
ngày không thay tã cho cha mẹ; có những y tá đã không săn sóc, chẳng để ý cha mẹ
có ăn không, lại còn đánh luôn cha mẹ. Chúng ta cứ thử hỏi: Nếu cha mẹ đứt ruột
đẻ ra và hy sinh chăm sóc cho mình, mình còn không chịu đựng săn sóc được, sao
chờ đợi người khác chăm sóc cẩn thận? Điều chúng ta cần nhận ra là người già rất
dễ cô đơn và tủi nhục. Họ không cần những chăm sóc bên ngòai, nhưng cần tình
thương của con cháu. Chúng tôi đã từng đi xức dầu, và từng thấy các bậc cha mẹ
từ giã cuộc đời trong cay đắng của nước mắt.
(3)
Điều nên làm: Mọi người trong gia đình sẽ học được rất nhiều điều khi săn sóc
cha mẹ già. Tất cả đều nhận ra sự mong manh của cuộc sống và biết nương tựa vào
nhau hơn. Các anh chị em biết đòan kết với nhau để chia sẻ trách nhiệm. Các trẻ
học biết cách chia sẻ bổn phận với cha mẹ: Khi thấy cha mẹ quá vất vả trong việc
làm ăn và săn sóc ông bà, chúng sẽ tình nguyện chia sẻ gánh nặng với cha mẹ; điều
này sẽ giúp chúng trưởng thành hơn so với những trẻ không có cơ hội thực tập.
Các trẻ cũng sẽ học kinh nghiệm chăm sóc và đối xử với người già, và chúng sẽ
áp dụng những gì chúng học được khi săn sóc cha mẹ.
1.2/
Ơn lành Thiên Chúa ban cho những ai hiếu thảo với cha mẹ: Sách Huấn Ca liệt kê
những ơn lành như sau:
(1)
Con cái cũng hiếu thảo với mình: “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì
con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.” Tục ngữ Việt Nam cũng
khuyên: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó.” Người biết hiếu thảo và chăm sóc
cha mẹ cũng sẽ được hưởng sự hiếu thảo và chăm sóc từ con cái mình. Ngược lại,
người đối xử tàn tệ với cha mẹ, sẽ bị con cái mình đối xử tàn tệ hơn nhiều.
(2)
Tội lỗi được tha thứ, ân sủng được thương ban: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
ai kính mẹ thì tích trữ kho báu… Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị
quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.”
(3)
Lời cầu xin được Thiên Chúa nhận lời: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.”
(4)
Được sống trường thọ: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức
Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” Khi một người săn sóc cha, người ấy cũng làm vui
lòng mẹ.
2/ Bài đọc II: Những đức tính và cách xử thế cần có để giữ
gia đình hạnh phúc.
2.1/
Những đức tính cần học:
(1)
Đức bác ái yêu thương: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó
là mối dây liên kết tuyệt hảo… Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa,
hiến thánh, và yêu thương.” Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương; gia
đình nào năng tham dự Thánh-lễ và lãnh nhận Mình Thánh, sẽ có tình yêu của
Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu này mới mạnh đủ để xóa tan những bất hòa và khác biệt
trong gia đình, và liên kết mọi người trong gia đình với nhau.
(2)
Kiên nhẫn chịu đựng và tha thứ cho nhau: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu
trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho
anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.” Mọi người trong gia
đình cùng nhau năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải là cách thức để học và thực hành
2 nhân đức quan trọng này.
(3)
Tâm tình biết ơn: “Ước gì sự bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì
trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng sự bình an đó. Bởi
vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.” Trước tiên là biết ơn Thiên Chúa đã lo lắng mọi
sự cho con người. Thứ đến là biết ơn cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục,
và cầu nguyện cho mình. Sau cùng là biết ơn tất cả những ai đã góp phần làm cuộc
đời mình được thăng hoa và ý nghĩa.
2.2/
Tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống gia đình:
(1)
Lời Chúa: “Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em
hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.” Để làm được điều này
trong gia đình, cha mẹ cần học hỏi để hiểu biết Lời Chúa và gây phong trào học
và áp dụng Thánh Kinh trong gia đình; vì cha mẹ không thể cho con cái mình
không có.
(2)
Thánh Ca: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa
những bài thánh vịnh, thánh thi, và thánh ca, do Thánh Thần linh hứng.” Điều
này cũng nhắc nhở chúng ta tránh nghe và hát những bài hát vô nghĩa và lãng mạn,
những chương trình hài hước và kịch nghệ vô bổ, có chủ tâm khinh thường Thiên
Chúa và các giá trị đạo đức.
(3)
Cầu nguyện: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu
và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” Mẹ Têrêxa cũng quả quyết điều này: “Gia
đình nào dành thời giờ cùng nhau cầu nguyện sẽ ở với nhau lâu dài.”
2.3/
Cách cư xử trong gia đình: Tất cả các mối liên hệ đều đòi hỏi hai chiều thì mới
có kết quả tốt đẹp được. Thánh Phaolô liệt kê 2 mối liên hệ chính và cách cư xử
cần có:
(1)
Liên hệ vợ chồng: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là
người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ.”
(2)
Liên hệ cha con: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp
lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã
lòng.”
3/ Phúc Âm: Những tâm tình biết ơn
Năm A:
3.1/
Sự vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa của Giuse: "Khi các nhà chiêm tinh
đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông,
dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại,
vì vua Herode sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang
đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Herode
băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra
khỏi Ai-cập."
Chúng
ta học được rất nhiều nơi cách hành xử của Giuse: Ông không hiểu nổi kế hoạch của
Thiên Chúa: Hài Nhi vừa mới được các nhà đạo sĩ tôn thờ và dâng lễ vật như một
vì vua; giờ lại phải lẩn trốn như một tội nhân! Ông không than trách Thiên Chúa
tạo hoàn cảnh khó khăn hay xin Thiên Chúa sai sứ thần bảo vệ gia đình. Ông
không suy nghĩ đi Ai-cập rồi phải làm gì để sinh sống, nhưng ông hoàn toàn tin
tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không trì hoãn để sáng mai; nhưng
trỗi dậy trong đêm rét mướt và đưa gia đình đi ngay.
3.2/
Giuse bảo vệ Hài Nhi khỏi mọi nguy hiểm: Định cư bên Ai-cập chưa được bao lâu,
sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng:
"Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết
Hài Nhi đã chết rồi." Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất
Israel. Khi nghe biết Archelaus đã kế vị vua cha là Herode, cai trị miền Judah,
nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee,
và
đến ở tại một thành kia gọi là Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng
các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nazareth."
Di
chuyển chỗ ở không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan tới nghề nghiệp, nhà cửa,
đồ đạc, trường học của con cái... nhưng Giuse vững tin nơi sự quan phòng của
Thiên Chúa cho gia đình, ông vâng lời sứ thần bỏ đất Ai-cập trở về quê hương,
ông can đảm tránh nơi nguy hiểm cho dù là quê cha đất tổ, gần Đền Thờ, để đi đến
Nazareth, một nơi xa lạ, để tránh nguy hiểm cho con.
Những
người cha hôm nay phải học nơi gương Giuse: Họ cần can đảm tránh những nơi gây
nguy hiểm cho con cái và chọn những môi trường lành mạnh để con cái có thể lớn
lên tốt đẹp. Họ không thể hy sinh tương lai của con cái bằng lý do việc làm hay
nhà cửa.
Năm B:
3.1/
Gia Đình Thánh cảm tạ Thiên Chúa: Thánh Giuse và Mẹ Maria cám ơn Thiên Chúa về
món quà gia đình, cho hai người thành vợ chồng; và món quà sự sống, Chúa Giêsu.
Họ cùng nhau lên Đền Thờ để dâng Con cho Thiên Chúa như đã chép trong Luật Chúa
rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho
Chúa." Tuy nghèo, nhưng họ cũng cố gắng chuẩn bị một đôi chim gáy và một cặp
bồ câu non để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền. Sau khi hòan tất, họ trở về
Nazareth, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng
được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
3.2/
Ông Simeon cảm tạ Thiên Chúa: Ông là người công chính và sùng đạo, ông những
mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được
Thánh Thần linh hứng cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy
Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha
mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến
Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an
bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân
Ngài."
Cha
mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc
phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt
cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu
còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và vì thế, những ý nghĩ từ thâm tâm
nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà."
3.3/
Nữ Ngôn-sứ Anna cảm tạ Thiên Chúa: Bà là con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà
đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở
goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm
tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa
cứu chuộc Jerusalem.
Năm C:
3.1/
Phải vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta cần học nơi
gia đình thánh hôm nay:
(1)
Mọi người trong gia đình phải tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Thánh Luca mô tả
gia đình thánh tuân giữ Luật Thiên Chúa: "Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy
hội đền Jerusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình
cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ." Nếu muốn con cái giữ
Luật Thiên Chúa, cha mẹ phải tuân giữ trước và tạo mọi cơ hội cho con giữ Luật.
Cha mẹ không thể bắt con đi lễ, nếu cha mẹ không đi và không tạo cơ hội cho
con.
(2)
Phải kiên nhẫn và tôn trọng nhau cho dù phải đương đầu với thử thách của cuộc sống;
nếu không, sự hiệp nhất trong gia đình sẽ có nguy cơ bị tan vỡ. Trong trình thuật
hôm nay, mặc dù hai ông bà đau buồn và có thể tức giận vì phải vất vả lo lắng
tìm con suốt ba ngày; nhưng thái độ kiên nhẫn của Mẹ Maria phải trở thành gương
mẫu cho các cha mẹ học hỏi: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?
Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
(3)
Cha mẹ phải tôn trọng con cái khi chúng muốn làm theo thánh ý Thiên Chúa: Chúa
Giêsu đáp lời Mẹ Maria: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con
có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" Bổn phận của con người đối với Thiên
Chúa là bổn phận hàng đầu phải chu toàn. Các cha mẹ đừng bắt buộc con cái phải
chu toàn bổn phận với cha mẹ trước khi chu toàn bổn phận với Thiên Chúa; nhưng
phải vui mừng khi thấy con cái làm điều đó. Cha mẹ không bao giờ được ngăn cản
con cái khi chúng muốn tận hiến cuộc đời để làm việc cho Thiên Chúa.
(4)
Khi chưa hiểu thánh ý Thiên Chúa, hãy giữ thái độ thinh lặng, cầu nguyện, và
suy niệm trong lòng để tìm ra thánh ý. Trình thuật hôm nay kể "nhưng ông
bà không hiểu lời Người vừa nói;" tuy vậy họ không lớn tiếng tranh cãi hay
đổ lỗi cho nhau.
3.2/
Chúa Giêsu vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria: Trình thuật Luca tiếp tục:
"Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục
các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn
Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta."
(1)
Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa, hạ mình và khiêm nhường vâng phục loài người:
Thiên Chúa tôn trọng sự thật, cho dẫu sự thật đòi Ngài phải vâng phục con người.
Để có bình an thực sự trong gia đình, mọi phần tử trong gia đình đều phải tôn
trọng và sống theo sự thật; nếu không, sự bình an có được chỉ là giả tạo và sớm
muộn gì cũng tan vỡ. Ví dụ, con cái có thể vâng lời cha mẹ làm điều sai trái vì
sợ hãi; nhưng khi có dịp, chúng sẽ không ngần ngại phản ứng và thoát ly gia
đình.
(2)
Vâng phục Thiên Chúa và cha mẹ làm con người lớn lên trong khôn ngoan và gặt
hái được mọi điều tốt đẹp cho cuộc đời: Nhiều người cho vâng phục là nhu nhược
hay hèn kém; nhưng kinh nghiệm khôn ngoan cho thấy khi tuân phục luật của Thiên
Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của cha mẹ, con cái tránh được tội lỗi và
những cám dỗ nguy hiểm trong cuộc đời; nhất là được đẹp lòng Thiên Chúa, sống
thuận hòa với tha nhân, và gặt hái nhiều thành công.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải diệt trừ tính ích kỷ trong con người, vì đó là mầm mống của mọi
khủng hỏang trong gia đình. Đồng thời, chúng ta cần biết rộng lượng để yêu
thương và lo lắng cho người khác như Thiên Chúa và người khác đã yêu thương và
lo lắng cho chúng ta.
-
Chúng ta cần biết xét mình và xưng tội thường xuyên để nhận ra những yếu đuối
và tội lỗi của con người chúng ta. Nếu chúng ta có can đảm xin Thiên Chúa tha
thứ tôi lỗi và kiên nhẫn với chúng ta, chúng ta cũng phải sẵn sàng kiên nhẫn và
tha thứ những yếu đuối và tội lỗi của tha nhân; vì họ cũng là những con người yếu
đuối và tội lỗi như chúng ta. Người không năng xét mình và xưng tội sẽ dễ rơi
vào thái độ tự nhận mình tốt lành để dễ phê phán, kết tội, và khai trừ tha
nhân.
-
Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận: chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa.
Nếu chúng ta muốn làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải “từ bỏ ý riêng mình,
làm theo ý Thiên Chúa, và vác Thập Giá hằng ngày để theo Ngài.”
-
Chúng ta có tự do để làm theo ý chúng ta; nhưng đồng thời chúng ta cũng phải
lãnh nhận mọi hậu quả do sự cố chấp, thờ ơ, và khinh thường những lời giảng dạy
của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
*****************************************