Trang

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN THỨ XIII GỞI CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA


SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần thứ XIII
Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA

Anh chị em thân mến,
”Nguyện chúc anh chị em ân sủng và bình an của Thiên Chúa, là Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô” (Rm 1,7). Là những GM từ toàn thế giới, nhóm họp theo lời mời của GM Roma là Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16, để suy tư về ”việc tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”, trước khi trở về các Giáo Hội địa phương, chúng tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em, để nâng đỡ và hướng dẫn việc phục vụ Tin Mừng trong các bối cảnh khác nhau, nơi mà chúng ta đang sống để làm chứng tá.
1. Như người phụ nữ xứ Samaria nơi giếng nước


Chúng ta hãy để cho mình được một trang Phúc Âm soi sáng: đó là cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria (Xc Ga 4,5-42). Không có người nào, trong cuộc sống, mà không ở cạnh một giếng nước với chiếc vò rỗng, như người phụ nữ xứ Samaria ấy, với hy vọng được thỏa mãn ước muốn sâu xa nhất trong tâm hồn, chỉ có ước muốn ấy mới có thể mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống. Ngày nay có nhiều giếng nước trước cơn khát của con người, nhưng cần phân định để tránh các thứ nước ô nhiễm. Cần định hướng rõ ràng việc tìm kiếm, để không rơi vào tình trạng thất vọng, có thể gây tai hại.
Như Chúa Giêsu bên giếng nước Sicar, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực. Chỉ có Chúa Giêsu có khả năng đọc nơi thẳm sâu tâm hồn chúng ta và mạc khải cho chúng ta sự thật về chúng ta. Người phụ nữ xứ Samaria đã thú nhận với những người đồng hương rằng: ”Người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Và lời loan báo này - có kèm theo câu hỏi dẫn vào đức tin: ”Phải chăng ông ấy là Đức Kitô?” - chứng tỏ ai đã nhận được sự sống mới từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, thì đến lượt mình, họ không thể không trở thành người loan báo sự thật và hy vọng cho tha nhân. Người phụ nữ tội lỗi hoán cải trở thành sứ giả của ơn cứu độ và dẫn cả dân thành về với Chúa Giêsu. Từ sự đón nhận chứng từ, dân chúng sẽ tiến đến kinh nghiệm bản thân về cuộc gặp gỡ: ”Không phải vì những lời của bà mà chúng tôi tin, nhưng vì chính chúng tôi đã được nghe và biết rằng ông này thực là Đấng Cứu Thế”.

2. Tái truyền giảng Tin Mừng



Dẫn đưa những người nam nữ ngày nay đến cùng Chúa Giêsu, gặp gỡ Ngài, đó là một điều cấp thiết liên hệ tới tất cả mọi miền trên thế giới. Thực vậy, khắp nơi đều cảm thấy nhu cầu hồi sinh đức tin, vì đức tin đang có nguy cơ bị lu mờ trong những bối cảnh văn hóa cản trở không cho đức tin trở nên sâu xa hơn nơi bản thân, cản trở sự hiện diện của đức tin trong xã hội, nội dung minh bạch và những thành quả đi kèm của đức tin.
Đây không phải là bắt đầu lại từ đầu, nhưng - với tâm hồn tông đồ của thánh Phaolô, Ngài đã từng nói: ”Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1 Cr 9,16) - vấn đề ở đây là tháp nhập vào hành trình dài công bố Tin Mừng - ngay từ những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo cho đến nay, qua dòng lịch sử và kiến tạo những cộng đồng tìn hữu ở mọi nơi trên thế giới. Dù lớn hay nhỏ, các cộng đồng ấy đều là thành quả sự tận tụy của các thừa sai và không thiếu những vị tử đạo, thành quả của bao thế hệ chứng nhân của Chúa Giêsu mà chúng ta nhớ đến họ với lòng biết ơn.

Bối cảnh văn hóa và xã hội thay đổi kêu gọi chúng ta phải làm cái gì mới: đó là sống một cách mới mẻ kinh nghiệm cộng đồng của chúng ta về đức tin, và việc loan báo, nhờ công trình rao giảng Tin Mừng ”mới mẻ về lòng nhiệt thành, trong các phương pháp và trong những lối diễn tả” (Gioan Phaolô II, Diễn văn trước Đại hội XIX của Celam, Port-au-Prince, 9-3-1983, n.3), như Đức Gioan Phaolô 2 đã nói; một công trình rao giảng Tin Mừng - như ĐGH Biển Đức 16 đã nhắc nhở, ”chủ yếu hướng tới những người, tuy đã được rửa tội, nhưng đang xa lìa Giáo Hội, và sống không hề tham chiếu luân lý Kitô giáo (...), để giúp họ tái gặp gỡ Chúa, là Đấng duy nhất làm cho cuộc sống chúng ta được ý nghĩa sâu xa và an bình; để giúp tái khám phá đức tin, là nguồn mạch ân sủng mang lại vui mừng và hy vọng trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội” (Biển Đức XVI, bài giảng thánh lễ trọng thể khai mạc Thượng HĐGM XIII, Roma 7-10-2012).

3. Gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu Kitô trong Giáo Hội



Trước khi đề cập đến những hình thức của công trình tái truyền giảng Tin Mừng ấy, chúng tôi thấy cần nói với anh chị em, trong niềm xác tín sâu xa rằng đức tin xác định mọi sự trong tương quan mà chúng ta thiết lập với Chúa Giêsu, Đấng đến gặp chúng ta trước. Công trình tái truyền giảng Tin Mừng hệ tại tái đề nghị với tâm trí, nhiều khi bị xao lãng và hoang mang, của con người ngày nay, nhất là với chính chúng ta, vẻ đẹp và sự mới mẻ ngàn đời của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Chúng tôi mời tất cả anh chị em hãy chiêm ngắm tôn nhan Chúa Giêsu Kitô, hãy đi vào mầu nhiệm cuộc sống của Ngài, Đấng đã hiến thân vì chúng ta cho đến tận thập giá, cuộc sống của Ngài được Chúa Cha tái khẳng định như một hồng ân trong cuộc phục sinh từ cõi chết, và được thông ban cho chúng ta nhờ Thánh Linh. Nơi Chúa Giêsu, mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa Cha đối với toàn thể gia đình nhân loại được tỏ lộ. Ngài không muốn để cho chúng ta ở trong quyền tự quyết giả tạo. Đúng hơn Ngài hòa giải chúng ta với Ngài trong một giao ước tình thương được đổi mới.

Giáo Hội là không gian mà Chúa Kitô trao tặng trong lịch sử nơi chúng ta có thể gặp gỡ Ngài, vì Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội Lời Ngài, bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, Mình và Máu Ngài, ơn tha thứ tội lỗi, nhất là trong bí tích hòa giải, kinh nghiệm về tình hiệp thông phản ánh chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, và sức mạnh của Thánh Linh tạo nên tình bác ái đối với tất cả mọi người.

Chúng ta cần thành lập những cộng đoàn hiếu khách, trong đó tất cả những người ở ngoài lề tìm được nhà của họ, được những kinh nghiệm hiệp thông cụ thể, với sức mạnh nồng nhiệt của tình yêu - ”Hãy xem họ yêu thương nhau dường nào!” (Tertuliano, Hộ giáo, 39,7) -, tình yêu thu hút được cái nhìn ngưỡng mộ của con người thời nay. Vẻ đẹp của đức tin phải rạng ngời, đặc biệt trong các hoạt động phụng vụ thánh, nhất là trong thánh lễ Chúa nhật. Thực vậy chính trong các buổi cử hành phụng vụ, Giáo Hội biểu lộ khuôn mặt hoạt động của Thiên Chúa và làm cho ý nghĩa của Tin Mừng trở nên hữu hình, trong lời nói và cử chỉ.

Chính chúng ta là người có nghĩa vụ làm cho kinh nghiệm về Giáo Hội trở nên cụ thể, khả dĩ cảm nghiệm được, chúng ta có nghĩa vụ gia tăng các giếng nước để mời gọi con người ngày nay đang khát, đến gặp gỡ Chúa Giêsu; chúng ta phải cung cấp những ốc đảo trong các sa mạc của cuộc sống. Các cộng đoàn Kitô có nhiệm vụ như thế, và trong đó, mỗi môn đệ của Chúa đều được ủy thác việc làm chứng tá không thể thay thế được, để Tin Mừng có thể gặp gỡ cuộc sống của mọi người; để được vậy chúng ta phải có đời sống thánh thiện.

4. Những dịp gặp Chúa Giêsu và lắng nghe Kinh Thánh



Có người sẽ hỏi làm sao thi hành được tất cả điều đó. Đây không phải là phát minh những chiếm thuật mới, như thể Tin Mừng là một sản phẩm cần tung ra trên thị trường các tôn giáo, nhưng là tái khám phá những cách thức nhờ đó, qua biến cố của Chúa Giêsu, con người đến gần Ngài và được Ngài kêu gọi, để thực hành những thể thức ấy trong hoàn cảnh thời nay.

Ví dụ chúng ta hãy nhớ đến sự tích thánh Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu gọi hỏi khi họ làm việc, hoặc như ông Giakêu đã có thể tiến từ tình trạng tò mò đến sự chia sẻ nồng nhiệt bữa ăn với Thầy, như viên Quan Bách Quân La Mã đã xin sự can thiệp của Chúa khi một người thân của ông bị yếu đau, như người mù bẩm sinh đã kêu cầu Chúa như vị giải thoát ông khỏi tình trạng bị gạt ra ngoài lề, như bà Marta và Maria đã thấy lòng hiếu khách trong gia cư và trong tâm hồn của họ được tưởng thưởng nhờ sự hiện diện của Chúa. Chúng ta có thể tiếp tục giở lại những trang sách Tin Mừng cũngnhư những kinh nghiệm truyền giáo của các tông đồ trong Giáo Hội sơ khai, chúng ta có thể khám phá những phương thế khác nhau và những hoàn cảnh trong đó cuộc sống con người được cởi mở đối với sự hiện diện của Chúa Kitô.

Việc siêng năng đọc Kinh Thánh, - được soi sáng nhờ Truyền Thống của Giáo Hội là người trao cho chúng ta Kinh Thánh và là người giải thích chính thức, - không những là một hành trình cần thiết để biết nội dung Tin Mừng, nghĩa là biết con người của Chúa Giêsu trong bối cảnh lịch sử cứu độ, nhưng còn giúp khám phá những không gian gặp gỡ với Chúa, tìm ra thể thức thực sự phù hợp với Tin Mừng, được ăn rễ trong những chiều kích cơ bản của đời sống con người như: gia đình, công ăn việc làm, tình bạn, cảnh nghèo và những thử thách trong cuộc sống, v.v..

5. Rao giảng Tin Mừng cho chính chúng ta và sẵn sàng hoán cải



Nhưng chúng ta không bao giờ được nghĩ rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng không liên can trước tiên với chính chúng ta. Trong những ngày này, nơi các GM chúng tôi, nhiều lần có những tiếng nói được gióng lên nhắc nhở rằng để có thể rao giảng Tin Mừng cho thế giới, thì trước tiên Giáo Hội cần đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi rao giảng Tin Mừng được diễn tả qua lời kêu gọi hoán cải.

Chúng ta hãy tin chắc rằng chúng ta phải là những người trước hết cần phải hoán cải, cần phải trở về với quyền năng của Chúa Kitô, là Đấng duy nhất có thể đổi mới mọi sự, nhất là đổi mới cuộc sống nghèo nàn của chúng ta. Với lòng khiêm tốn chúng ta phải nhìn nhận rằng sự nghèo nàn và yếu đuối của các môn đệ Chúa Giêsu, đặc biệt là nơi các thừa tác viên của Ngài, đè nặng trên uy tín của việc truyền giáo. Chắc chắn các GM chúng tôi là những người đầu tiên ý thức rằng chúng ta không bao giờ có thể xứng đáng với ơn gọi và mệnh lệnh của Chúa để loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Chúng ta phải biết khiêm tốn nhìn nhận sự dễ tổn thương của chúng ta đối với những vết thương của lịch sử và không do dự nhìn nhận những tội lỗi cá nhân của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng xác tín rằng sức mạnh của Thánh Thần Chúa có thể canh tân Giáo Hội của Ngài và làm cho chiếc áo của Giáo Hội được rạng người, nếu chúng ta để cho Chúa uốn nắn. Cuộc sống của bao nhiêu vị thánh chứng tỏ điều đó, việc tưởng niệm và kể lại cuộc sống của các vị là một phương thế ưu tiên trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng.

Giả sử sự đổi mới ấy được phó thác cho sức riêng của chúng ta, thì chúng ta có lý do nghiêm trọng để nghi ngờ, nhưng sự hoán cải, cũng như việc rao giảng Tin Mừng trong Giáo Hội chủ yếu không đến từ con người yếu đuối như chúng ta, nhưng đúng hơn từ chính Thánh Linh của Chúa. Sức mạnh và sự chắc chắn của chúng ta hệ tại điều này là sự ác không bao giờ có tiếng nói cuối cùng, trong Giáo Hội cũng như trong lịch sử: ”Tâm hồn các con đừng sao xuyến và đừng sợ hãi” Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài như thế (Ga 14,27).

Công trình tái truyền giảng Tin Mừng dựa trên niềm xác tín thanh thản ấy. Chúng ta tín thác nơi sự soi sáng và nơi sức mạnh của Thánh Linh, Đấng sẽ dạy chúng ta những gì chúng ta phải nói và điều chúng ta phải làm, cả trong những lúc khó khăn nhất. Vì thế, nghĩa vụ của chúng ta phải khắc phục sợ hãi bằng đức tin, chiến thắng sự hèn nhát bằng niềm hy vọng, và sự dửng dưng lãnh đạm bằng tình yêu.

6. Nắm bắt những cơ hội mới để truyền giảng Tin Mừng trong thế giới ngày nay.



Lòng can đảm thanh thản ấy cũng ảnh hưởng đến cái nhìn của chúng ta về thế giới ngày nay. Chúng ta không cảm thấy nhát sợ vì những hoàn cảnh chúng ta đang sống. Thế giới chúng ta đầy những mâu thuẫn và thách đố, nhưng vẫn là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thế giới này tuy bị tổn thương vì sự ác, nhưng vẫn luôn được Thiên Chúa yêu thương. Thế giới này là một cánh đồng trong đó có thể canh tân việc gieo vãi Lời Chúa để tái mang lại hoa trái.

Không có chỗ đứng cho sự bi quan trong tâm trí những người biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết và Thánh Linh của Chúa hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Với lòng khiêm tốn và quyết tâm, một thái độ đến từ xác tín sự thật sau cùng sẽ chiến thắng, chúng ta đến với thế giới này và muốn thấy trong đó một lời mời gọi của Thiên Chúa trở thành chứng nhân về Danh Thánh của Ngài. Giáo Hội chúng ta sinh động và, với niềm can đảm của đức tin và chứng tá của bao nhiêu con cái mình, Giáo Hội đương đầu với những thách đố do lịch sử đề ra.

Chúng ta biết rằng trong trần thế, chúng ta phải chiến đấu cam go chống lại các ”Vương thần và quyền thần”, ”những ác thần” (Ep 6,12). Chúng ta không tránh né những vấn đề mà các thách đố ấy đề ra, nhưng chúng không làm cho chúng ta khiếp sợ. Điều này được áp dụng trước tiên cho những hiện tượng hoàn cầu hóa, chúng phải là những cơ may để chúng ta để mở rộng sự hiện diện của Tin Mừng. Cũng vậy đối với những cuộc di dân: mặc dù có những gánh nặng đau khổ trong biến cố này, và qua đó, chúng ta chân thành đón tiếp những người di dân như những anh chị em, các cuộc di dân ấy cũng là những cơ hội để mở rộng đức tin và kiến tạo tình hiệp thông trong các hình thái khác nhau, như đã xảy ra trong quá khứ. Sự tục hóa, - và cả cuộc khủng hoảng do sự bá quyền của chính trị và Nhà Nước gây ra,- cũng đòi Giáo Hội phải suy nghĩ lại sự hiện diện của mình trong xã hội, nhưng không từ bỏ sự hiện diện ấy. Nhiều hình thức mới của nạn nghèo đói đang mở ra những môi trường chưa từng đó cho việc phục vụ bác ái: việc loan báo Tin Mừng đòi Giáo Hội phải ở với người nghèo và đón nhận những đau khổ của họ như Chúa Giêsu. Cả trong những hình thức khắc nghiệt nhất của thuyết vô thần và bất khả tri, chúng ta cũng có thể nhận ra trong đó, tuy là dưới những hình thức mâu thuẫn, không phải một sự trống rỗng, nhưng như một sự nhung nhớ, một sự mong chờ câu trả lời thích hợp.

Đứng trước những vấn nạn mà nền văn hóa thịnh hành đang đề ra cho đức tin và Giáo Hội, chúng ta canh tân lòng tín thác nơi Chúa, với xác tín chắc chắn rằng trong những bối cảnh đó, Tin Mừng mang ánh sáng và có khả năng chữa lành mọi yếu đuối của con người. Không phải chúng ta là người thi hành việc tái truyền giảng Tin Mừng, nhưng là chính Thiên Chúa, như ĐGH đã nhắc nhở chúng ta: ”Lời đầu tiên, sáng kiến đích thực, hoạt động thực sự đến từ thiên Chúa và chỉ khi nào chúng ta tháp nhập vào sáng kiến ấy của Chúa, chỉ khi nào chúng ta cầu khẩn sáng kiến ấy của Chúa, thì chúng ta mới có thể trở thành những người rao giảng Tin Mừng - với Chúa và trong Chúa” (ĐTC Biển Đức 16, suy niệm trước phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, Roma 8-10-2012)

7. Rao giảng Tin Mừng, gia đình và đời sống thánh hiến



Ngay từ lần rao giảng Tin Mừng đầu tiên, việc thông truyền đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã tìm được môi trường tự nhiên là gia đình, trong đó phụ nữ có một vai trò rất đặc biệt, nhưng không vì thế mà hình ảnh và trách nhiệm của người cha bị giảm sút. Trong gia đình, các dấu hiệu đức tin, sự thông truyền những chân lý đầu tiên, việc dạy cách cầu nguyện, chứng tá thành quả của tình yêu đã được ghi đậm vào cuộc sống của các thiếu nhi và thiếu niên, trong bối cảnh sự chăm sóc mà mỗi gia đình dành cho việc tăng trưởng của con cái. Tuy có những khác biệt về hoàn cảnh địa lý, văn hóa và xã hội, tất cả các GM tại Thượng HĐGM đều tái khẳng định vai trò thiết yếu của gia đình trong việc thông truyền đức tin. Việc tái truyền giảng Tin Mừng là điều không thể có được nếu không nhìn nhận một trách nhiệm trong việc loan báo Tin Mừng cho các gia đình và nếu không nâng đỡ các gia đình trong trách vụ giáo dục.

Chúng ta không thể làm ngơ sự kiện này là ngày nay gia đình, vốn được hình thành trong hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, làm cho họ trở nên ”một thân thể” (Mt 19,6), cởi mở đối với sự sống, đang gặp những yếu tố khủng hoảng ở khắp nơi, gia đình bị vây bủa bằng những kiểu sống làm cho gia đình bị thiệt thòi, bị các chính sách xã hội lơ là, và mặc dù gia đình là tế bào căn bản của xã hội, nhưng lại không luôn luôn được tôn trọng trong nhịp sống của mình và không được chính cộng đoàn Giáo Hội nâng đỡ trong những công tác của gia đình. Nhưng chính điều đó thúc đẩy chúng tôi nói rằng chúng ta phải đặc biệt chăm sóc gia đình và sứ mạng của Giáo Hội trong xã hội và trong Giáo Hội, phát triển những hành trình tháp tùng trước và sau hôn nhân. Chúng tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đói với bao nhiêu đôi vợ chồng và các gia đình Kitô, qua chứng tá đang tỏ cho thế giới thấy một kinh nghiệm hiệp thông và phục vụ, vốn là mầm mống của một xã hội huynh đệ và an bình hơn.

Chúng tôi cũng nghĩ đễn những hoàn cảnh gia đình và những cuộc sống chung trong đó không phản ánh hình ảnh hiệp nhất và yêu thương trọn đời mà Chúa đã dạy chúng ta. Có những cặp sống chung mà không có mối liên hệ bí tích hôn phối; càng ngày càng có nhiều gia đình bất hợp lệ được xây dựng sau khi các hôn phối trước bị thất bại; những hoàn cảnh đau thương trong đó việc giáo dục con cái về đức tin cũng bị tổn thương. Với tất cả những người ấy chúng tôi muốn nói rằng tình thương của Chúa không bỏ rơi một ai, và cả Giáo Hội cũng yêu thương họ và là nhà tiếp đón tất cả mọi người, họ vẫn là phần tử của Giáo Hội, cho dù họ không thể lãnh nhận bí tích giải tội và Thánh Thể. Các cộng đồng Công Giáo hãy đón tiếp những người sống trong tình cảnh ấy và nâng đỡ hành trình hoán cải và hòa giải của họ.

Đời sống gia đình là nơi đầu tiên trong đó Tin Mừng gặp gỡ cuộc sống thường nhật và chứng tỏ khả năng biến đổi những điều kiện cơ bản của cuộc sống trong chân trời yêu thương. Nhưng điều không kém phần quan trọng đối với chứng tá của Giáo Hội, đó là chứng tỏ cuộc sống trong thời gian này có một sự kết thúc vượt xa hơn lịch sử con người và tiến đến sự hiệp thông vĩnh cửi với Thiên Chúa. Với người phụ nữ xứ Samaria, Chúa Giêsu không chỉ tự giới thiệu Ngài là Đấng ban sự sống, nhưng còn là vị ban ”sự sống vĩnh cửu” (Ga 4,14). Hồng ân của Thiên Chúa mà đức tin làm cho hiện diện, không phải chỉ là một lời hứa hẹn các điều kiện tốt đẹp hơn ở trần thế này, nhưng còn là lời loan báo rằng ý nghĩa tối hậu của cuộc sống chúng ta đi xa hơn trần thế này, trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa, Đấng đang chờ đợi chúng ta vào cuối thời gian.

Có những chứng nhân đặc biệt trong Giáo Hội và trong thế giới về chân trời đời sau của cuộc sống con người, họ là những người Chúa kêu gọi sống thời thánh hiến, một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Chúa trong việc thực thi đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, họ là dấu chỉ một thế giới mai hậu tương đối hóa mọi thiện hảo đời này. Thượng HĐGM này cám ơn các anh chị em vì lòng trung thành với ơn gọi của Chúa và vì sự đóng góp đã và đang dành cho sứ mạng của Giáo Hội; Thượng HĐGM cũng nhắn nhủ các anh chị em ấy hãy hy vọng trong những hoàn cảnh không dễ dàng đối với họ trong thời đại biến chuyển ngày nay; chúng tôi cũng mời gọi anh chị em trở thành những chứng nhân và là những người cổ võ công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng trong các môi trường khác nhau của cuộc sống mà đoàn sủng của mỗi hội dòng đặt họ vào.

8. Cộng đồng Giáo Hội và nhiều tác nhân truyền giảng Tin Mừng



Công cuộc rao giảng Tin Mừng không phải là nghĩa vụ độc quyền của một cá nhân hay nhóm nào trong Giáo Hội, nhưng là của cộng đồng Giáo Hội, trong đó có đầy đủ các phương thế để gặp gỡ Chúa Giêsu: Lời Chúa, các bí tích, tình hiệp thông huynh đệ, việc phục vụ bác ái, sứ mạng. Trong viễn tượng ấy nổi bật là vai trò của giáo xứ, như sự hiện diện của Giáo Hội tại nơi con người sinh sống, ”như giếng nước của làng” - thành ngữ mà Đức Gioan 23 thích sử dụng, từ giếng nước ấy mọi người có thể giải khát, tìm được sự tươi mát của Tin Mừng. Không thể từ bỏ giáo xứ, tuy rằng những hoàn cảnh đổi thay có thể đòi hỏi giáo xứ phải được phân thành những cộng đoàn Kitô nhỏ, hoặc thiết lập những quan hệ cộng tác trong những bối cảnh mục vụ rộng lớn hơn. Chúng tôi cảm thấy cần phải nhắn nhủ các giáo xứ hãy kèm theo việc chăm sóc mục vụ truyền thống cho Dân Chúa bằng những hình thức truyền giáo mới như công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng đòi hỏi. Các giáo xứ cũng phải được thấm đượm những hình thức khác nhau của lòng đạo đức bình dân.

Trong giáo xứ sứ vụ của LM như người cha và là mục tử của dân Chúa, vẫn có tính chất chủ yếu. Các GM tại Thượng HĐGM này bày tỏ với tất cả các LM lòng biết ơn và sự gần gũi huynh đệ vì công việc không dễ dàng của các vị và mời gọi các Linh Mục hãy cũng cố chặt chẽ hơn mối liên hệ trong hàng linh mục giáo phận, đào sâu đời sống thiêng liêng và thực hiện việc thường huấn để có thể đương đầu với những thay đổi.

Cạnh các linh mục, cũng cần phải nâng đỡ sự hiện diện của các phó tế, cũng như hoạt động mục vụ của các giáo lý viên và bao nhiêu thừa tác viên khác và những người linh hoạt thuộc lãnh vực loan báo và huấn giáo, đời sống phụng vụ, phục vụ bác ái. Những hình thức khác trong việc tham gia và đồng trách nhiệm của giáo dân nam nữ cũng phải được cổ võ. Chúng tôi không bao giờ cám ơn cho đủ lòng tận tụy của họ trong nhiều công tác của các cộng đoàn chúng tôi. Chúng tôi cũng xin tất cả hãy đặt sự hiện diện và phục vụ Giáo Hội của họ trong viễn tượng tái truyền giảng Tin Mừng, chăm lo sao cho mình được huấn luyện về mặt nhân bản và Kitô, đào sâu kiến thức đức tin và sự nhạy cảm đối với các hiện tượng văn hóa thời nay.

Về các giáo dân, cần phải đặc biệt nói đến những hình thức khác nhau của các hội đoàn cũ và mới, cùng với những phong trào Giáo Hội, và các cộng đoàn mới, tất cả đều diễn tả các hồng ân phong phú mà Chúa Thánh Linh ban cho Giáo Hội. Chúng tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người sống và dấn thân dưới nhiều hình thức trong Giáo Hội, đồng thời nhắn nhủ họ hãy trung thành với đoàn sủng của mình và hiệp thông với Giáo Hội một cách đầy xác tín, đặc biệt trong bối cảnh các Giáo Hội địa phương.

Làm chứng cho Tin Mừng không phải là đặc ân của một ai. Chúng tôi vui mừng nhìn nhận sự hiện diện của bao nhiêu người nam nữ đang làm chứng cho Tin Mừng bằng cuộc sống giữa lòng thế giới. Chúng tôi cũng nhìn nhận họ nơi nhiều anh chị em tín hữu Kitô, những người tuy chưa được hiệp nhất trọn vẹn, nhưng cũng được ghi dấu bí tích rửa tội và là những người rao giảng Tin Mừng. Trong những ngày này chúng tôi đã có những kinh nghiệm cảm động khi được nghe những tiếng nói của bao vị trách nhiệm thế giá của các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội Kitô về lòng khao khát của họ đối với Chúa Kitô và sự tận tụy của họ trong việc loan báo Tin Mừng. Họ cũng xác tín rằng thế giới đang cần một công trình tái truyền giảng Tin Mừng. Chúng tôi cảm tạ Chúa vì sự hiệp nhất này trong sự cần thiết của sứ vụ truyền giáo.

9. Để người trẻ có thể gặp Chúa Kitô



Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến người trẻ, vì họ là thành phần quan trọng trong hiện tại cũng như trong tương lai của nhân loại và Giáo Hội. Các GM không hề bi quan về người trẻ. Tuy có lo âu về họ, nhưng chúng tôi không bi quan. Lo âu vì bao nhiêu cuộc tấn công mạnh mẽ của thời đại ngày nay đang chĩa vào người trẻ; nhưng chúng tôi không bi quan, nhất là vì tình yêu của Chúa Kitô là điều làm lịch sử chuyển động sâu xa, nhưng cũng vì chúng tôi nhận thấy nơi những người trẻ của chúng ta những khát vọng sâu xa về sự chân chính, về sự thật, tự do, lòng quảng đại, và chúng tôi xác tín rằng Chúa Kitô là câu trả lời thích hợp cho những khát vọng ấy.

Chúng tôi muốn nâng đỡ người trẻ trong cuộc tìm kiếm của họ và chúng tôi khuyến khích các cộng đoàn của chúng tôi hãy lắng nghe, đối thoại và can đảm không chút dè dặt đáp lại những hoàn cảnh khó khăn của người trẻ. Chúng tôi muốn các cộng đoàn của chúng tôi tận dụng chứ không phải loại bỏ sức mạnh lòng nhiệt huyết của người trẻ; chiến đấu cho họ chống lại những sai lầm và những mưu toan ích kỷ của các quyền lực thế gian, muốn phá tán nghị lực của người trẻ và phung phí lòng hăng say của người trẻ để thủ lợi riêng, tước bỏ khỏi người trẻ mọi ký ức tốt đẹp về quá khứ và mọi dự phóng sâu xa về tương lai.

Thế giới người trẻ là một lãnh vực tái truyền giảng Tin Mừng đòi nhiều cố gắng những cũng nhiều triển vọng, như nhiều kinh nghiệm vẫn chứng tỏ, từ những kinh nghiệm của nhiều người trẻ trong những Ngày Quốc Tế giới trẻ, cho tới những kinh nghiệm âm thầm hơn nhưng không kém phần thu hút, như những kinh nghiệm về đời sống thiêng liêng, việc phục và truyền giáo. Cần nhìn nhận một vai trò tích cực của người trẻ trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng, nhất là trong thế giới của chính người trẻ.

10. Tin Mừng trong cuộc đối thoại với văn hóa và kinh nghiệm nhân bản và với các tôn giáo.

Việc tái truyền giảng Tin Mừng quy trọng tâm vào Chúa Kitô và vào sự quan tâm chăm sóc con người, để mang lại một cuộc gặp gỡ thực sự với Chúa. Nhưng chân trời của việc truyền giảng này bao la như thế giới và không đóng khung trong một kinh nghiệm nhân trần nào. Điều này có nghĩa là nó đặc biệt vun trồng cuộc đối thoại với các nền văn hóa, với niềm tín thác rằng có thể tìm được trong mỗi nền văn hóa ”những hạt giống của Lời” như các Giáo Phụ đã nói. Đặc biệt việc tái truyền giảng Tin Mừng cần có một liên minh được đổi mới giữa đức tin và lý trí, với xác tín rằng đức tin có khả năng đón nhận mọi thành quả của một lý trí lành mạnh, biết cởi mở đối với siêu việt và có sức sửa chữa những giới hạn và mâu thuẫn mà lý trí có thể rơi vào. Đức tin không khép kín cái nhìn cả khi đứng trước những vấn nạn đau thương trước sự hiện diện của điều ác trong cuộc sống và trong lịch sử con người, kín múc ánh sáng hy vọng từ cuộc Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí cũng nuôi dưỡng sự dấn thân của cộng đoàn Kitô trong lãnh vực giáo dục và văn hóa. Các tổ chức giáo dục và nghiên cứu - như các trường học và đại học - chiếm một chỗ đặc biệt trong lãnh vực này. Hễ nơi nào trí tuệ con người được phát triển và được giáo dục, thì Giáo Hội đều vui mừng mang kinh nghiệm của mình và phần đóng góp của mình cho việc huấn luyện con người toàn diện. Trong bối cảnh này cần dành đặc biệt sự chăm sóc các trường và các đại học Công Giáo, trong đó sự cởi mở đối với siêu việt - là đặc tính của mỗi hành trình chân thực về văn hóa và giáo dục, - phải được viên mãn nhờ cuộc gặp gỡ với biến cố Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội của Ngài. Các GM cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người dấn thân trong lãnh vực ấy, nhiều khi với những điều kiện khó khăn.



Việc rao giảng Tin Mừng đòi chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến thế giới truyền thông xã hội, nhất là các phương tiện truyền thông mới, là nơi qui tụ nhiều cuộc sống, nhiều vấn nạn và mong đợi. Đó là nơi mà lương tâm con người thường được đào luyện và là nơi mà dân chúng trải qua nhiều thời giờ và sống cuộc sống của họ. Đó là một cơ hội mới để đến với tâm hồn con người.

Một lãnh vực đặc biệt cho cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí ngày nay là cuộc đối thoại với kiến thức khoa học. Kiến thức này không hề xa lạ với đức tin, vì nó biểu lộ nguyên lý tinh thần mà Thiên Chúa đã đặt trong các thụ tạo của Ngài. Nó cũng cho chúng ta thấy các cơ cấu hợp lý của của công trình tạo dựng. Khi khoa học và kỹ thuật không chủ trương khép kín nhân loại và thế giới trong một chủ thuyết duy vật khô cằn, thì chúng trở thành một đồng minh quí giá làm cho đời sống được nhân bản hơn. Chúng tôi cũng đặc biệt cám ơn những người dấn thân trong lãnh vực tế nhị này của tri thức. Chúng tôi muốn cám ơn những người nam nữ dấn thân trong một biểu thức khác của thiên tài con người, đó là nghệ thuật dưới những hình thức khác nhau, từ những hình thức cổ nhất cho đến những hình thức mới nhất. Chúng tôi nhìn nhận trong các tác phẩm nghệ thuật của họ có một con đường đầy ý nghĩa biểu lộ linh đạo trong lúc họ cố gắng thể hiện sự thu hút của con người đối với thẩm mỹ. Chúng tôi biết ơn, khi các nghệ sĩ, qua các tác phẩm mỹ thuật của họ, diễn tả vẻ đẹp của tôn nhan Chúa và của các thụ tạo của Chúa. Con đường mỹ thuật là một con đường đặc biệt hữu hiệu trong công trình tái truyền giảng Tin Mừng.

Ngoài các tác phẩm nghệ thuật, mọi hoạt động của con người cũng thu hút sự chú ý của chúng ta, như một cơ hội qua đó, con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng tôi muốn nhắc nhở cho giới kinh tế và lao động một vài điều nảy sinh từ ánh sáng Tin Mừng: để giải thoát lao công khỏi những điều kiện nhiều khi làm cho nó trở thành gánh nặng không thể chịu nổi, và một tương lai bấp bênh bị đe dọa vì nạn thất nghiệp của giới trẻ; tiếp đến cần đặt con người ở trung tâm sự phát triển kinh tế; nghĩ về sự phát triển này như một cơ hội để nhân loại được tăng trưởng trong công lý và sự hiệp nhất. Nhân loại biến đổi thế giới nhờ lao công và họ cũng được kêu gọi bảo tồn sự toàn vẹn của công trình sáng tạo do ý thức trách nhiệm đối với các thế hệ mai sau.

Tin Mừng cũng soi sáng đau khổ do bệnh tật gây ra. Các tín hữu Kitô phải giúp các bệnh nhân cảm thấy Giáo Hội gần gũi với những người bệnh tật. Các tín hữu Kitô phải cám ơn tất cả những người đang chăm sóc họ với khả năng nghề nghiệp và tình người.

Một lãnh vực trong đó ánh sáng Tin Mừng có thể và phải chiếu tỏa rạng ngời để soi sáng những bước chân của nhân loại, đó là chính trị. Chính trị đòi phải dấn thân vô vị lợi và chân thành chăm sóc công ích trong niềm tôn trọng hoàn toàn đối với phẩm giá con người, từ lúc mới được thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên, tôn trọng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, bảo vệ tự do nghiên cứu; thăng tiến tự do tôn giáo; loại bỏ những nguyên nhân gây ra bất công, bất bình đẳng, kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, bạo lực, đói kém và chiến tranh. Các tín hữu Kitô hoạt động trong chính trị cũng được yêu cầu nêu chứng tá rõ ràng và sống giới răn bác ái.

Sau cùng, Giáo Hội coi những người thuộc các tôn giáo khác như những người đối tác tự nhiên. Chúng ta rao giảng Tin Mừng vì chúng ta xác tín về chân lý Chúa Kitô, chứ không phải để chống lại một ai. Tin Mừng của Chúa Giêsu là an bình và vui tươi, và các môn đệ của Chúa vui mừng nhìn nhận những gì là chân thực và tốt lành mà tinh thần tôn giáo của nhân loại có thể nhận thấy trong thế giới do Thiên Chúa tạo dựng và điều ấy được biểu lộ trong nhiều tôn giáo khác nhau.

Cuộc đối thoại giữa tín đồ các tôn giáo nhắm đóng góp cho hòa bình, loại bỏ mọi thái độ cực đoan và tố giác mọi bạo lực chống lại các tín hữu, bạo lực ấy chính là vi phạm trầm trọng các quyền con người. Các Giáo Hội trên toàn thế giới, liên kết trong kinh nguyện và tình huynh đệ đối với những anh chị em đau khổ và yêu cầu những ai nắm giữ vận mệnh các dân tộc hãy bảo tồn quyền của mọi người được tự do chọn lựa và tuyên xưng và làm chứng tá về tín ngưỡng của mình.

11. Kỷ niệm Công đồng chung Vatican 2 và nhắc đến Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo trong Năm Đức Tin



Trên con đường do công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng mở ra, chúng ta cũng có thể cảm thấy như thể ở trong một sa mạc, giữa những nguy hiểm và thiếu những điểm tham chiếu. Trong bài giảng thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin, ĐTC Biển Đức 16 đã nói về một ”sự sa mạc hóa tinh thần” đang lan rộng trong những thập niên gần đây, nhưng ngài cũng khích lệ chúng ta và nói rằng ”chính từ kinh nghiệm về sa mạc, từ sự trống rỗng ấy, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử đối với chúng ta. Trong sa mạc chúng ta tái khám phá giá trị của những gì là thiết yếu cho cuộc sống” (Bài giảng thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin, Roma 11-10-2012). Trong sa mạc, như người phụ nữ xứ Samaria, chúng ta tìm nước và tìm một cái giếng để kín nước uống: phúc cho ai gặp được Chúa Kitô tại đó!

Chúng ta cám ơn ĐTC vì hồng ân Năm Đức Tin, là chiếc cổng quí giá dẫn vào hành trình tái truyền giảng Tin Mừng. Chúng ta cũng cám ơn ngài vì đã gắn liền Năm Đức Tin với sự nhắc nhớ trong niềm biết ơn 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican 2. Giáo huấn căn bản của Công Đồng cho thời đại chúng ta ngày nay đang chiếu tỏa rạng ngời trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. Sách này, một lần nửa, được đề xướng như điểm tham chiếu chắc chắn về đức tin, 20 năm sau khi sách được công bố. Những kỷ niệm ấy thật quan trọng, giúp chúng ta tái khẳng định lòng gắn bó với giáo huấn của Công Đồng và quyết tâm của chúng ta tiếp tục thực thi trọn vẹn giáo huấn ấy.

12. Chiêm ngắm mầu nhiệm và đứng về phía người nghèo

Trong viễn tượng đó, chúng tôi muốn chỉ cho mọi các tín hữu hai biểu thức đức tin đặc biệt quan trọng đối với chúng tôi để làm chứng cho đức tin trong việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Biểu thức thứ I là hồng ân và kinh nghiệm về sự chiêm niệm. Một chứng tá mà thế giới coi là đáng tin cậy chỉ phát xuất từ một chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Linh, và chỉ phát xuất từ một sự thinh lặng sâu thẳm như một cung lòng đón nhận Lời cứu độ duy nhất. Chỉ có sự thinh lặng cầu nguyện như thế mới có thể tránh cho lời cứu độ khỏi bị mất hút giữa những tiếng ồn ào tràn ngập thế giới.

Giờ đây, chúng tôi cám ơn tất cả những người nam nữ đang tận hiến cuộc sống cho việc cầu nguyện và chiêm niệm trong các đan viện và các am ẩn sĩ. Những lúc chiêm niệm ấy cũng cần được xen lẫn với cuộc sống thường nhật của dân chúng: đó là những không gian trong tâm hồn, nhưng cũng là những không gian thể lý, nhắc nhớ chúng ta về Thiên Chúa; những cung thánh nội tâm và đền thờ bằng gạch đá, những những ngã tư đường, giúp chúng ta khỏi bị mất hút trong làn sóng các kinh nghiệm; những cơ hội trong đó mọi người có thể thể cảm thấy mình được đón nhận, kể cả những người chưa biết rõ mình tìm kiếm ai và điều gì

.

Một biểu tượng khác nói chứng tỏ tính chất đích thực của việc tái truyền giảng Tin Mừng là khuôn mặt của người nghèo. Đặt mình cạnh những người bị thương tổn vì cuộc sống không phải chỉ là một sự tập luyện xã hội, nhưng trước tiên là một hành vi tinh thần. Vì trong khuôn mặt của người nghèo có phản ánh chính tôn nhan của Chúa Kitô: ”Tất cả những gì anh em làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là anh em làm cho Thầy” (Mt 25,40).

Cần dành một chỗ ưu tiên trong các cộng đoàn chúng ta cho người nghèo, một nơi không loại trừ ai nhưng muốn là một phản ánh cách thức Chúa Giêsu gắn bó với họ. Sự hiện diện của người nghèo trong các cộng đoàn chúng ta thật là mạnh mẽ huyền nhiệm: sự hiện diện như thế thay đổi con người hơn cả những diễn văn, dạy lòng trung thành, giúp chúng ta hiểu cuộc đời mong manh, và xin cầu nguyện; tóm lại đó là sự hiện diện dẫn chúng ta đến cùng Chúa Kitô.

Đàng khác, cử chỉ bác ái cũng đòi phải có một sự dấn thân cho công lý đi kèm, với lời kêu gọi liên hệ tới mọi người, nghèo cũng như giàu. Vì thế giáo huấn xã hội của Hội Thánh cũng là thành phần của hành trình tái truyền giảng Tin Mừng, cũng như việc huấn luyện các tín hữu Kitô dấn thân phục vụ cộng đồng nhân loại trong đời sống xã hội và chính trị.

13. Ngỏ lời với các Giáo Hội tại các miền trên thế giới



Các GM tụ họp tại Thượng HĐGM này nhìn tất cả các cộng đồng Giáo Hội rải rác trên thế giới. Đây là một cái nhìn gồm tóm tất cả vì ơn gọi gặp gỡ Chúa Kitô là duy nhất, nhưng không quên những khác biệt.

Các GM tại Thượng HĐGM dành mối quan tâm đặc biệt đầy tình huynh đệ và biết ơn đối với anh chị em thuộc các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, là những người thừa kế công cuộc truyền bá Tin Mừng đầu tiên, - một kinh nghiệm được bảo tồn với lòng yêu mến và trung thành, - và các Giáo Hội Đông Phương hiện diện ở Đông Âu. Ngày nay Tin Mừng lại đến nơi anh chị em như một sự tái truyền giảng Tin Mừng qua đời sống phụng vụ, huấn giáo, kinh nguyện thường nhật trong gia đình, chay tịnh, tình liên đới giữa các gia đình, sự tham gia của giáo dân vào đời sống các cộng đoàn và đối thoại với xã hội. Tại nhiều nơi, các Giáo Hội của anh chị em bị thử thách và sầu muộn, qua đó Giáo Hội chứng tỏ sự tham phần vào thập giá của Chúa Kitô; một số tín hữu buộc lòng phải xuất cư. Nếu duy trì sinh động sự kết hiệp với các cộng đồng nguyên quán, họ có thể góp phần vào việc chăm sóc mục vụ và công cuộc rao giảng Tin Mừng tại các nước đón nhận họ. Xin Chúa tiếp tục chúc lành cho lòng trung thành của anh chị em. Ước gì tương lai của anh chị em được ghi đậm nét bằng sự tự do tuyên xưng và thực hành đức tin trong an bình và tự do tôn giáo.

Và hỡi anh chị em là những tín hữu Kitô đang sống tại các nước Phi châu, chúng tôi nhìn về anh chị em và bày tỏ lòng biết ơn vì việc làm chứng tá Tin Mừng của anh chị em, nhiều khi trong những hoàn cảnh sống khó khăn. Chúng tôi khuyên nhủ anh chị em hãy tái đẩy mạnh công cuộc truyền giáo đã nhận lãnh trong thời kỳ cách đây không xa, hãy xây dựng Giáo Hội như gia đình của Thiên Chúa, củng cố căn tính của gia đình, hỗ trợ sự dấn thân của các LM và các giáo lý viên, đặc biệt trong những cộng đoàn Kitô nhỏ. Chúng tôi khẳng định sự cần thiết phải phát huy cuộc gặp gỡ của Tin Mừng với các nền văn hóa cổ kính và mới mẻ. Chúng tôi cũng mong đợi và mạnh mẽ kêu gọi giới chính trị và các chính quyền tại nhiều nước Phi châu, trong sự cộng tác với tất cả những người thiện chí, hãy thăng tiến các quyền cơ bản của con người và giải thoát Phi châu khỏi bạo lực và những cuộc xung đột đang còn hoành hành tại đây.

Các GM thuộc Công nghị này cũng mời gọi anh chị em tín hữu Kitô Bắc Mỹ hãy vui mừng đáp lại lời mời gọi tái truyền giảng Tin Mừng, đồng thời, với lòng biết ơn, chúng tôi nhìn các cộng đoàn của anh chị em, tuy mới được thiết lập tương đối gần đây, nhưng đã mang lại những thành quả quảng đại về đức tin, đức mến và truyền giáo. Anh chị em cần nhìn nhận rằng nhiều biểu thức văn hóa hiện hành tại các nước thuộc đại lục của anh chị em ngày nay thật xa lạ với Tin Mừng. Cần hoán cải, từ đó nảy sinh một sự dấn thân không đưa anh chị em ra ngoài các nền văn hóa của mình, nhưng để anh em sống giữa các nền văn hóa ấy để cống hiến cho mọi người ánh sáng đức tin và sức mạnh của sự sống. Trong khi anh chị em đón nhận những người nhập cư và người tị nạn tại những đất nước quảng đại của anh chị em, anh chị em cũng hãy sẵn sàng mở cửa nhà mình cho đức tin. Trung thành với những cam kết được đề ra trong Thượng HĐGM Mỹ châu, anh chị em hãy liên đới với Mỹ châu la tinh trong công trình trường kỳ rao giảng Tin Mừng trên toàn Mỹ Châu.

Cũng với tâm tình biết ơn như thế, Thượng HĐGM ngỏ lời với các Giáo Hội tại Mỹ châu la tinh và Caraibí. Điều gây ấn tượng mạnh là, qua dòng lịch sử, những hình thức đạo đức bình dân đã được phát triển tại các quốc gia của anh chị em, và vẫn còn ăn rễ sâu nơi tâm hồn của nhiều người, tiếp đến là những hình thức phục vụ bác ái và đối thoại với các nền văn hóa. Nay, đứng trước nhiều thách đố hiện tại, trước tiên là nạn nghèo đói và bạo lực, Giáo Hội tại Mỹ châu la tinh và Caraibí được khích lệ sống trong tình trạng truyền giáo trường kỳ, loan báo Tin Mừng với niềm hy vọng và vui tươi, thành lập những cộng đoàn gồm các môn đệ thừa sai đích thực của Chúa Giêsu Kitô, chứng tỏ trong sự dấn thân của các con cái mình cách thức Tin Mừng có thể là nguồn mạch của một xã hội mới mẻ, công bằng và huynh đệ. Cả tình trạng có nhiều tôn giáo cũng đặt trắc nghiệm các Giáo Hội của anh chị em và đòi phải canh tân việc loan báo Tin Mừng.

Cả anh chị em là những tín hữu Kitô ở Á châu, chúng tôi cũng muốn gửi một lời khích lệ và nhắn nhủ. Là một thiểu số trong một đại lục qui tụ gần 2 phần 3 dân số thế giới, sự hiện diện của anh chị em là một hạt giống phong phú, được phó thác cho quyền năng của Chúa Thánh Linh, hạt giống ấy tăng trưởng trong việc đối thoại với các nền văn hóa khác nhau, với các tôn giáo cổ kính, với vô số người nghèo. Mặc dù nhiều khi bị gạt ra ngoài lề xã hội, và bị bách hại tại nhiều nơi, Giáo Hội tại Á châu, với đức tin kiên vững, là một sự hiện diện quí giá của Tin Mừng Chúa Kitô, loan báo công lý, sự sống và sự hài hòa. Hỡi các tín hữu Kitô Á châu, xin anh chị em hãy cảm nhận sự gần gũi huynh đệ của các tín hữu Kitô thuộc các nước khác trên thế giới, họ không thể quên rằng, tại đại lục của anh chị em, tại Thánh Địa, Chúa Giêsu đã sinh và, đã sống, chịu chết và sống lại.

Các GM cũng gởi lời cám ơn và hy vọng tới các Giáo Hội tại Âu Châu, ngày nay đang chịu trào lưu tục hóa mạnh mẽ và nhiều khi có tính chất gây hấn, Giáo Hội tại đây phần nào vẫn còn bị thương tích vì những thập niên dài do các chế độ theo ý thức hệ thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Chúng tôi nhìn quá khứ với lòng biết ơn, nhưng cả hiện tại trong đó trong đó Tin Mừng đã kiến tạo tại Âu châu những biểu thức và kinh nghiệm đặc thù về đức tin, - nhiều khi tràn đầy sự thánh thiện -, những biểu thức và kinh nghiệm ấy thật là quan trọng đối với việc rao giảng Tin Mừng trên toàn thế giới: đó là những tư tưởng thần học phong phú, những biểu thức khác nhau và đoàn sủng, những hình thức đa dạng phục vụ bác ái dành cho người nghèo, những kinh nghiệm sâu xa về chiêm niệm, sự sáng tạo một nền văn hóa nhân bản đã góp phần xác định phẩm giá con người và xây dựng công ích. Hỡi các tín hữu Kitô Âu Châu quí mến, ước gì những khó khăn hiện nay không làm cho anh chị em nản chí, trái lại anh chị em có thể coi chúng như một thách đố cần phải vượt qua và là một cơ hội để loan báo Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài một cách vui tươi và sinh động hơn.

Sau cùng, các GM tại Thượng Hội đồng chào thăm các dân tộc ở Châu Đại dương đang sống dưới sự bảo vệ của Thánh Giá miền nam, và cám ơn anh chị em vì chứng tá về Tin Mừng của Chúa Giêsu. Chúng tôi cầu nguyện cho anh chị em để, như người phụ nứ xứ Samaria nơi giếng nước, anh chị em cũng cảm thấy nồng nhiệt khao khát một đời sống mới và có thể lắng nghe Lời Chúa Giêsu nói: “Ước gì con nhận biết hồng ân của Thiên Chúa!” (Ga 4,10). Anh chị em cũng hãy cảm thấy mạnh mẽ quyết tâm rao giảng Tin Mừng và làm cho Chúa Giêsu được biết đến trong thế giới ngày nay. Chúng tôi nhắn nhủ anh chị em hãy gặp Chúa trong đời sống thường nhật của mình, lắng nghe Ngài và qua kinh nguyện và suy niệm, anh chị em được ơn để có thể nói: ”Chúng tôi biết Vị này thực là Đấng Cứu thế” (Ga 4,42).

14. Ngôi sao của Mẹ Maria soi sáng sa mạc

Khi kết thúc kinh nghiệm hiệp thông giữa các GM toàn thế giới và cộng tác với sứ vụ của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, chúng tôi nghe thấy dư âm mệnh lệnh của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ như một mệnh lệnh rất thời sự: ”Các con hãy ra đi và làm cho mọi dân nước trở thành môn đệ (..). Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19.20). Sứ vụ này của Giáo Hội không chỉ dành cho một miền địa lý, nhưng đi sâu vào tận thẳm sâu của tâm hồn con người thời nay, đưa họ trở lại gặp gỡ với Chúa Giêsu, Đấng Hằng sống hiện diện trong các cộng đoàn chúng ta.



Sự hiện diện này làm cho tâm hồn chúng ta tràn đầy niềm vui. Với lòng biết ơn vì những hồng ân đã nhận lãnh từ Chúa trong những ngày này, chúng tôi xướng lên bài ca chúc tụng: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa (..) Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,46.49). Những lời này của Mẹ Maria cũng là những lời của chúng ta: qua dòng lịch sử, Chúa đã làm những điều trọng đại cho Giáo Hội của Ngài ở các nơi trên thế giới và chúng tôi chúc tụng Chúa, với xác tín rằng Ngài sẽ không quên nhìn đến sự nghèo hèn của chúng ta để dương cánh tay mạnh mẽ của Ngài trong thời đại ngày nay, nâng đỡ chúng ta trên con đường tái truyền giảng Tin Mừng.

Hình ảnh Mẹ Maria hướng dẫn chúng ta trên cuộc hành trình. Như ĐTC Biển đức 16 đã nói, hành trình này giống như một lộ trình trong sa mạc; chúng ta biết phải tiến qua đó mang theo mình những điều thiết yếu: đó là sự đồng hành của Chúa Kitô, sự thật của Lời Chúa, Bánh Thánh Thể nuôi dưỡng chúng ta, tình hiệp thông của cộng đoàn và sự thúc đẩy của đức bác ái. Đó là nước giếng làm cho sa mạc nở hoa. Và như các ngôi sao chiếu sáng hơn trong đêm đen của sa mạc, ánh sáng của Mẹ Maria, là Ngôi Sao của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, cũng chiếu sáng trong bầu trời hành trình của chúng ta. Chúng ta tin tưởng phó thác bản thân cho Mẹ.

G. Trần Đức Anh OP chuyển dịch
Nguồn: vietvatican.ne

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

PHỤ NỮ VÀ TÂN PHÚC ÂM HÓA


Phụ nữ và tân phúc âm hóa

Thượng hội đồng giám mục thế giới kỳ 13 về Tân Phúc Âm Hóa được sự chứng kiến của 17 phụ nữ, con số chưa từng có xưa nay. Trong số này có Chiara Amirante, sáng lập viên của Cộng Đồng Chân Trời Mới, một phong trào trong Giáo Hội Công Giáo đặc biệt quan tâm tới việc Tân Phúc Âm Hóa. Trong cuộc phỏng vấn của hãng tin Zenit, cô nói tới kinh nghiệm tham dự THĐ của cô cũng như vai trò của phụ nữ trong việc tân phúc âm hóa thế giới

Những ngày hồng phúc

Đối với Chiara, những ngày tham dự THĐ là những ngày thật hồng phúc. Vì nhờ thế, ta được nghe Đức Thánh Cha mời gọi sống một cuộc dấn thân mới mẻ đối với việc Tân Phúc Âm Hóa để truyền bá Đức Tin, trong một bầu khí hiệp thông cao độ. Được nghe phúc trình của các nghị phụ và của các dự thính viên là điều làm ta phong phú thêm vì các vị chia sẻ cho ta các kinh nghiệm và đề xuất liên quan đến các thách đố đang tác động mạnh lên con người thời đại. Cô nghĩ rằng những ngày hồng phúc này sẽ gây ảnh hưởng lớn lao đối với trái tim từng người, không những chỉ các người tham dự THĐ mà cả mọi Kitô hữu khác nữa, thúc đẩy họ bước chân theo Lời Chúa: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cor 9:16). 

Đáng lưu ý hơn cả

Kinh nghiệm nhiều năm được dấn thân sâu xa vào các cộng đoàn Chân Trời Mới qua việc tiếp nhận giới trẻ bụi đời, nhất là qua các chương trình phòng ngừa và phúc âm hóa, nhờ thế, tính trung bình hàng năm phong trào đã gặp gỡ được khoảng 2 triệu người để tâm sự trực diện với họ, Chiara nhận thấy: có đến 80% người trẻ hiện đang gặp những nan đề hết sức khó khăn: rượu chè và ma túy, làm tôi tính dục, hoặc mắc nhiều chứng như biếng ăn (anorexia) hoặc mê ăn (bulimia), trầm cảm; thấy mình trống rỗng và cô đơn khôn tả.

Bởi thế, đối với cô, hậu quả của chủ nghĩa duy tương đối, duy thế tục, duy tiêu thụ, duy hưởng lạc đang tiếp tục hoành hành nơi ta quả là đáng lo ngại và có sức tàn phá. Các dữ kiện càng ngày càng làm ta bất an đủ chứng tỏ điều ấy và thách đố chính bản thân ta. Con người thời nay rõ ràng đang tự đánh lừa qua việc thay thế Thiên Chúa bằng “cái tôi” của mình, nhưng họ quên mất rằng bất cứ xã hội nào tìm cách lưu đày Thiên Chúa đều sẽ để mình rơi xuống một thứ địa ngục đúng nghĩa. Do đó, cần phải tức khắc có những người biết lắng nghe sự sâu sắc của Tin Mừng và biết làm chứng một cách mạnh mẽ rằng Chúa của sáng tạo đã đến ngụ cư giữa chúng ta để biểu lộ tình yêu vô biên của Người cho ta và để trả lời những câu hỏi tha thiết nhất của trái tim ta. Người là đường dẫn tới niềm vui, sự bình an, sự tự do và cuộc sống nội tâm viên mãn nhất.

Đầu đàn ông, tim đàn bà

Chiara cho hay: THĐ nhấn mạnh tới vai trò của phụ nữ rất nhiều lần, và cả đặc sủng của họ trong việc Tân Phúc Âm Hóa nữa. Cô xác tín rằng nhờ khả năng đặc biệt biết tiếp nhận (receptivity), biết lưu tâm tới những ai đau khổ, biết lắng nghe, nhờ tính mẫn cảm và tình mẫu tử, nhờ khả năng yêu thương đặc biệt, người phụ nữ sẽ đóng góp một cách đích thực và căn bản cho công cuộc tân phúc âm hóa này. Theo cô, người đàn ông thiên về cái đầu hơn, còn người đàn bà thì thiên về trái tim hơn; mà ngày nay, đời sống xã hội đang cần được đổi mới vì họ đang rất thiếu thốn yêu thương. Thực thế, không điều gì cần bằng sống triệt để giới răn mà Chúa Giêsu đã để lại cho ta, điều răn mà Người cho là mới và là điều răn của riêng Người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Về phương diện này, ta nên nhìn lên Đức Maria, Sao Mai của Tân Phúc Âm Hóa.

Chân Trời Mới và Tân Phúc Âm Hóa


Theo Chiara Amirante, từ ngày Cộng Đồng Chân Trời Mới ra đời, việc dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm Hóa đã là một ưu tiên. Chưa đầy 6 năm, hơn 250,000 người đã dấn thân như những Hiệp Sĩ Ánh Sáng để sống Tin Mừng một cách triệt để ngõ hầu làm chứng cho niềm vui Chúa Kitô phục sinh và đem cuộc cách mạng tình yêu đến cho thế giới. Đàng khác, nhiều sáng kiến phúc âm hóa cũng đã được nhân thừa nhờ sự dấn thân của những người trẻ được phong trào tiếp nhận. Hiện có tới 174 trung tâm tiếp đón, huấn luyện để phúc âm hóa, cũng như các trung tâm lắng nghe và linh đạo; 152 nhóm phục vụ làm việc trong ngành truyền thông và thông tin đại chúng, linh hoạt và giải trí, đào tạo văn hóa và biên tập, hợp tác quốc tế trong các dịch vụ xã hội, yểm trợ và điều hướng. Ngoài ra, còn có năm Thành Trì Thiên Quốc (heavenly citadels) đang thành hình. Các thành trì này ngoài nhiệm vụ tiếp đón còn có nhiệm vụ huấn luyện các thiện nguyện viên xã hội và phúc âm hóa. Hơn nữa, các sứ bộ hè phố (street missions) cũng đang được nhân thừa. Phong trào đang cố gắng hết sức để tăng cường các cam kết của mình trong lãnh vực này.

Chỉ còn lại tình yêu

Thứ ba, ngày 23 tháng 10 vừa qua, cuốn tự truyện Chỉ Còn Lại Tình Yêu (Love Alone Remains) của Chiara đã được xuất bản. Được hỏi tại sao lại cần phải thổ lộ đời mình trên giấy, Chiara cho hay: sách này ra đời do một lời yêu cầu và để nói lên một sự thật. Thoạt đầu cô khá dè dặt khi phải viết về những chuyện riêng tư và chưa bao giờ được công bố về đời mình. Nhưng rồi, ước muốn được chia sẻ Tình Yêu Thiên Chúa đã thắng vượt. Cô bảo: “nếu ta cố gắng hé mở tâm hồn mình với Người, thì nhiều chân trời tuyệt diệu của ánh sáng, của viên mãn, của sự sống, của niềm vui sẽ bừng nở với chúng ta”. Lý do sâu xa nhất thúc đẩy cô viết cuốn sách này là khi “bạn thực hiện được một cuộc khám phá kỳ diệu, khi bạn cảm nghiệm được một niềm vui không thuộc đời này và là niềm vui lưu tồn mãi sau thật nhiều thử thách khủng khiếp nhất của đời người, chắc chắn bạn cũng muốn thổ lộ nó cho những người đang ủ rũ trong sầu muộn, trong thất vọng. Chiêm ngưỡng các phép lạ do Đấng là Tình Yêu thực hiện, chắc chắn bạn thấy phải làm cho Người được biết đến, phải làm cho hy vọng bừng nở trở lại trong tâm hồn những ai đánh mất nó”. 

Hơn nữa, cô thấy có trách nhiệm phải nói lên tiếng kêu âm thầm của nhiều người trong đêm tối, tiếng kêu từng xé nát trái tim cô, những dòng lệ nóng hổi đã thu lượm được và được cô trân trọng gìn giữ của rất nhiều người. 

Thực vậy, trong cuốn sách của mình, Chiara thuật lại phần nào cuộc mạo hiểm kỳ thú của cô trong những năm qua giữa hè phố đô thị, nơi cô liên tiếp được chứng kiến phép lạ phục sinh trong cuộc đời hàng nghìn người trẻ vốn là nạn nhân của ma túy, của bạo lực, nô lệ cho hàng nghìn thói hư và thường tự giam mình vào hỏa lò chết chóc của linh hồn. Ngày nay, cũng những người trẻ này đang bước đi trên cùng những con đường như trước, nơi họ từng sống trong thất vọng, chỉ khác, nay họ làm chứng một cách phấn khích cho niềm vui viên mãn mà họ đã cảm nghiệm được nhờ gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh.

Điều đáng lưu ý: danh ca Andrea Bocelli là người viết lời nói đầu cho cuốn sách của Chiara. Cô vốn có liên hệ thân ái sâu sắc với danh ca này, đến độ Bocelli muốn được dấn thân làm Hiệp Sĩ Ánh Sáng. Trong những điều ông viết, có mấy dòng này: “Chiara kể lại câu truyện của cô, không một chút dè dặt hay do dự, để mỗi người chúng ta tìm được sức mạnh để có thể, một lần vĩnh viễn, can đảm chọn ánh sáng và sự thật. Từ sự thật này mà có sự sống, và từ sự sống vốn đã hiện hữu trên đời này, cô cho ta thoáng nhìn thấy Thiên Đàng”.

Được hỏi: nay, nếu phải viết lại và do đó phải sống lại đời mình, cô sẽ nói gì, Chiara trả lời: tôi sẽ mạnh mẽ nhắc lại rằng mọi sự rồi sẽ qua đi, chỉ còn lại tình yêu! Tình yêu mạnh hơn, tình yêu chiến thắng, tình yêu làm phép lạ vì Thiên Chúa là Tình Yêu!

Đối với THĐ và Năm Đức Tin, Chiara hy vọng rằng ta sẽ thực sự để mình được tác động bởi tin vui kỳ diệu này là Chúa Kitô đã đến để lãnh đạo ta; tìm nơi Người mọi giải đáp cho các nhu cầu sâu xa nhất của trái tim ta và bằng cuộc sống, biết làm chứng cho niềm vui viên mãn mà chỉ có Người mới ban cho ta. 
Vũ văn An

HÀNH TRÌNH ĐÀO LUYỆN CỦA LÒNG TIN


Hành Trình Đào Luyện Của Lòng Tin


1.                    Dẫn nhập
Lòng  tin và lý trí thường được mình họa bằng hai vòng tròn giao nhau, ngụ ý rằng có những chân lý đức tin hoàn toàn hữu lý (có thể hiểu) và có những chân lý ở bên ngoài lĩnh vực của lý trí. Có lẽ theo Hegel, cách hiểu như vậy thường làm phân cách hai bên và quên mất điểm cốt lõi cơ bản là: cả hai đều là thao tác của Tinh thần  hay của ý thức[1]. Thế mà các thao tác của bản thể Tinh thần cá nhân lại chỉ có ý nghĩa trong việc đào luyện để vươn tới “hiện hữu đúng thật” hay “tri thức tuyệt đối” (§89). Và chính trong nhãn quan này của Hegel[2], tính hiện sinh của lòng tin được hiện diện cách rõ nét qua tiến trình vận động của ý thức. Lòng tin là lòng tin “trở thành”, là sự vận động biện chứng “gắn bó bản thân con người với thiên Chúa, đồng thời và không thể tách biệt, là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mạc khải [3] chứ không phải bất động, cứng đờ. Đó là công cuộc đào luyện của lòng tin.
Hành trình đào luyện của lòng tin sẽ nếm trải những bước thăng trầm như thế nào? Dựa vào mô hình tư biện của sự đào luyện nơi ý thức, tôi sẽ khai triển bài viết thành bốn phần, nhằm thử đưa ra một lối tiếp cận cho câu hỏi trên. Phần thứ nhất bàn về sự khả thi khi xem xét lòng tin như một ý thức loại biệt. Phần thứ hai bàn về tiến trình vận động biện chứng của lòng tin, và hai phần cuối cùng là sự khai triển cụ thể hơn tiến trình vận động đó trong mức độ ý thức và Tự ý thức. Hẳn nhiên, đôi phần nơi bàn viết có hơi gượng ép khi “chẳng qua” là sự thay thế cụm từ “ý thức” bằng cụm từ “lòng tin” trong hệ thống của Hegel, nhưng thiết nghĩ điều dó cũng không thực sự quan trọng cho bằng là người viết có cơ hội được đi lại chính những thao tác tư duy của Hegel, vốn dĩ chất chứa biết bao kinh nghiệm chiêm ngắm và gặp gỡ Chân lý.
2.                    Lòng tin là một ý thức loại biệt
Hegel
Ý thức nơi quan niệm Hegel, xét trong một chừng mực nào đó, là sự vượt bỏ so với các tiền bối trước ông (như I. Kant hay J. Locke). Trước Hegel, ý thức được xem như là “công cụ” hay “môi trường” mà nhờ đó đối tượng có thể đến được với ta (trong hình thức biểu tượng). Điều này có nghĩa là giữa nhận thức và đối tượng luôn có một khoảng cách không thể vượt bỏ, mà hệ quả là ta chỉ có thể nhận thức sự vật như là hiện tượng chứ không như là vật tự thân (như lập trường của Kant). Hegel không tán thành cách quan niệm như thế. Trong phần Dẫn nhập (§72), ông chỉ ra rằng nếu nhận thức là công cụ thì đối tượng có nguy cơ bị nhào nặn và không thể tồn tại như chính nó là ; hay nếu nhận thức là môi trường thì như ánh sáng có khả năng bị khúc xạ khi xuyên qua môi trường trung gian, thì ở đây cũng thế cho trường hợp nhận thức đối tượng ; nói cách khác, “…trong cả hai trường hợp, ta đều dùng một phương tiện [mà lại] tạo ra trực tiếp cái trái ngược với mục đích của nó, hay nói đúng hơn, cái phi lý là ở chỗ chúng ta, nói chung, lại đi sử dụng một phương tiện…” Vậy thì liệu rằng sự đồng nhất giữa cái biết của tôi (cái-tồn-tại-cho ý thức của đối tượng) và cái đúng thật (cái-tự-mình của đối tượng hay cái tồn tại khách quan) có hoàn toàn hiện thực hay không[4]? Hegel khẳng quyết điều này là có thể. Ý thức không chỉ là ý thức về đối tượng (cái đúng thật), mà còn là ý thức về bản thân nó (cái biết của nó về cái đúng thật ấy) [5]. Thế mà cả hai đều là cho cùng một ý thức, nên bản thân ý thức là sự so sánh về chúng và cũng cùng một ý thức ấy sẽ cho thấy liệu cái biết của nó về đối tượng có tương thích với đối tượng hay không. Nên số §84 cho là ta không cần phải có hay phải mang vào một tiêu chuẩn thẩm định nào khác từ bên ngoài, bởi cái tiêu chuẩn cần thiết cho việc kiểm tra giờ đây đã nằm sẵn trong lòng ý thức.
Tiến trình thẩm tra sẽ diễn ra như thế nào? Sự thẩm tra này không dựa vào gì khác hơn là khả năng phân biệt của ý thức giữa một bên là cái-tự-mình và bên kia là cái biết. Nếu chúng không có tương hợp sau khi thẩm tra, thì ý thức buộc phải thay đổi cái biết của mình về đối tượng[6] ; nhưng cũng chính khi ấy “bản thân đối tượng cũng tự thay đổi đối với ý thức” do đối tượng lại thuộc về cái biết này. Tức là, cùng với sự phủ định cái biết lần thứ nhất, cái tự mình lần thứ nhất cũng bị thủ tiêu, và xuất hiện một cái tự mình của đối tượng ở trạng thái cao hơn[7]. Đồng thời, sự thẩm tra tự nó cũng phải thay đổi cho phù hợp với cấp độ hiện tại (cao hơn) của ý thức, sự thẩm tra không chỉ là một sự thẩm tra đối với cái biết mà cũng là một sự thẩm tra đối với chính tiêu chuẩn do sự thẩm tra mang theo” (§85). Nói gọn lại, Ý thức là tiến trình thống nhất giữa ý thức và đối tượng (chứ không phải ý thức và đối tượng là hai phía đối lập và ở ngoài nhau). Nó là một tiến trình vận động biện chứng của cả cái biết và cái đúng thật, hầu đi tới sự thâm nhập lẫn nhau giữa chúng. Cái biết không phải là cái biết xơ cứng (không có tính tự vận động), và cái đúng thật không chỉ tự hiện-thực-hóa một lần là trọn vẹn. Cả hai đều phải “trở thành”, phải trải qua một chuỗi quá trình đồng nhất giữa “sự không đồng nhất và đồng nhất”. Và khi tiến trình này hoàn tất, cái biết đúng thật không gì khác hơn là cái Chân lý, là sự thâm nhập hoàn toàn vào chân lý và sự tự thể hiện trọn vẹn của Chân lý nơi cái biết, khiến cho không còn cái gì xa lạ nữa[8]: Tự ngã lại gặp chính mình trong chân lý và cũng thấy chân lý bên trong chính mình (cái biết thực ra mang lấy mô thức của bản thân Tự ngã, và khi cái biết mới ra đời thì sự vượt bỏ có được lại nhờ việc Tự ngã bắt gặp chính chân lý nơi mình). Tiến trình vận động như trên sẽ được Hegel gọi là kinh nghiệm (§86), và việc trải qua kinh nghiệm để bước lên các hình thái cao hơn sẽ được gọi là sự đào luyện. Bây giờ, chúng ta sẽ quay góc nhìn về phía lòng tin, để rồi xét xem ý thức khi được cụ thể hóa nơi lòng tin thì sẽ như thế nào?
            Lòng tin có thể được xem như một dạng của ý thức, hoặc như một sự xuất nhượng của Tinh thần trong phạm vi tôn giáo. Lòng tin là một sự xác tín và ý thức cũng là một xác tín (về đối tượng khách quan và cũng là xác tín về chính mình). Thế nhưng, đối tượng của ý thức và đối tượng của lòng tin có khác nhau hay không. Nói cho tận cùng thì chân lý triết học và chân lý tôn giáo có là một không? Về điểm này, tôi xin được lược lại phần chú giải của B.V.N.Sơn nơi mục 2.4.2, khi ông dựa trên quyển bách khoa toàn thư để diễn luận. Chân lý theo cách nhìn của Hegel, không chỉ là đặc điểm của nhận thức (cơ sở khách quan để xác định tính đúng sai của nhận thức), mà là đối tượng của nhận thức. Nó là cái đơn nhất và là cái toàn bộ. Chân lý, hay cái Tuyệt đối, như trong chú thích ở trên là sự đồng nhất giữa khái niệm và thực tại[9]. Tuy nhiên, chỉ có Thượng đế mới có sự trùng hợp này, còn mọi sự vật hữu tận vì hiện hữu của chúng là hữu tận, là tiêu vong nên “đều có một sự vô-chân-lý-tự-mình, chúng có một khái niệm và một sự hiện hữu, nhưng hiện hữu này không trùng khớp với khái niệm”. Nói thế thì không có nghĩa là mọi sự vật khác đều không có chân lý của mình. Đúng hơn, sự vật hữu tận có tồn tại là tồn tại trong Thượng đế, và chân lý của nó là ở trong Thượng đế, “cái Đúng thật [viết hoa] là cái toàn bộ”. Hegel gọi Thượng đế (cái Tuyệt đối) này là Tinh thần: “chỉ duy Tinh thần là cái hiện thực” (§25). Tinh thần bao trùm tất cả và xuất nhượng ra nơi con người như là ý thức. Sự viên mãn của ý thức nhằm đạt được tri thức tuyệt đối sẽ là sự hiển dung trọn vẹn của Tinh thần. Và theo đó, sự viên mãn của đức tin cũng là sự hiển hiện trọn vẹn của Thượng đế.
Kết lại, con đường của lòng tin vươn lên Thượng đế có thể được xem là mô hình thu nhỏ của con đường vươn tới tri thức tuyệt đối của ý thức. Sự tương hợp xuất hiện ra nơi đây giữa lòng tin và ý thức, cho phép ta, tiếp sau đây, có thể nói về tiến trình vận động biện chứng của lòng tin dựa trên cơ sở của ý thức.
3.                    Lòng tin là một sự vận động biện chứng

Để đạt tới tri thức tuyệt đối, Ý thức, với khởi điểm ban đầu là cái biết ở cấp độ “cảm tính” (hay sự tỏ lộ của tinh thần trực tiếp, một tinh thần vô tinh thần, x.§27), cần phải trải qua sự đào luyện để từng bước tiến lên các hình thái cao hơn. Tương tự, một lòng tin muốn đạt đến mức viên mãn cũng phải trải qua một sự đào luyện như thế.
Một cách cụ thể, ta xét một mắt xích khái quát trong toàn bộ chuỗi. Lòng tin là một xác tín về Thiên Chúa. Thiên Chúa là cái Tự mình (cái mặc khải vào một thời điểm xác định), và là cái Tự-mình cho lòng tin của tôi (cái diễn tả về mặc khải). Lòng tin bây giờ có hai đối tượng: một là cái Tự mình thứ nhất và cái thứ hai là cái tồn tại cho lòng tin của cái Tự mình này (cái biết hay diễn tả của tôi về Ngài). Thiên Chúa mặc khải cho tôi là một chuyện, nhưng khả năng đón nhận của tôi (biểu thị qua cái biết) lại là chuyện khác. Sự không ngang bằng nhau ở đây vừa là sự không tương ứng của tôi trong việc thấu hiểu Thiên Chúa, vừa là sự không tương ứng của Thiên Chúa với chính Ngài (Thiên Chúa Cựu Ước và Tân Ước). Và sự chênh lệch này sẽ được nghiệm ra khi tôi để cho các biến cố trong cuộc sống đặt vấn đề về sự trùng hợp mà tôi tưởng là thực sự có giữa niềm tin về một Thiên-Chúa-là và một Thiên Chúa như Ngài mạc khải. Đây là bước phản tư (đi từ cái này sang cái kia) của lòng tin vào trong chính nó. Và sự phản tư như thế sẽ tạo điều kiện cho việc vượt bỏ (thủ tiêu, bảo lưu, nâng cao) nơi cái biết của tôi và cả Thiên Chúa như là đối tượng. Nhưng Thiên Chúa vào lúc này, tồn tại với tư cách như là cái tự mình thứ hai, lại trở nên cái tất yếu phải thay đổi khi diễn trình xảy ra. Điều này dường như phi lý, vì khiến ta có cảm tưởng rằng ý thức con người là tuyệt đối và Thiên Chúa chẳng qua chỉ là một con rối không hơn không kém nằm lọt vào trong sân khấu ý thức ấy. Để giải đáp khúc mắc này, thiết nghĩ câu hỏi cốt lõi là cái gì làm cho tiến trình vận động? Hegel trả lời rằng đó là sự không ngang bằng[10]. Nhưng nếu nhìn trong tổng thể tư tưởng của Hegel, thì đây chỉ là cái thể hiện ra bên ngoài của một nguyên nhân sâu xa hơn. Ý thức là tuyệt đối, tất cả đều là ý thức trong ý thức và đối tượng cũng chỉ là cái khác của ý thức, vì xét cho cùng ý thức là Tinh thần. Sở dĩ Tinh thần thoạt đầu chưa “trở thành tự-mình-và-cho-mình cho chính nó” (§25), tức chưa nhận biết chính mình như là Tinh thần, là do Tinh thần là tinh thần nhập thế và đang từng bước tự biểu lộ ra nơi chính ý thức. Tinh thần là anpha và là omega, là sự kích hoạt đầu tiên, đích đến cuối cùng và sức năng động cho toàn bộ vận động. Tinh thần chỉ là tinh thần khi nó mang tính hiện thực, tức là phải thẩm thấu vào tất cả và mang lại ý nghĩa tối hậu cho toàn bộ thực tại. Còn Ý thức thực ra chỉ là sự tỏ hiện ý định của Tinh thần. Như vậy, điều mà chúng ta thường gọi là “ân sủng” và “tự nhiên” rốt cuộc cũng thuộc cả về Thiên Chúa xét như một Tinh thần tuyệt đối. Thiên Chúa không phải con rối, đúng hơn Ngài làm việc ẩn tàng đằng sau ý thức của chúng ta.
Sự vận động trên cho thấy lòng tin là một tương quan “trở thành”, mà trong đó cá nhân càng ngày được nhận lại (xác tín) chính mình hơn và Đấng tuyệt đối được hiện thực hóa rõ nét và sống động hơn cho cá nhân, ngay trong không gian của lòng tin, trong cõi nội chứ không phải nơi cõi ngoại. Kinh nghiệm mà lòng tin phải trải qua không còn đơn thuần là việc tích lũy cho thật nhiều cái biết về Thiên Chúa, nhưng là việc nhận thấy và giải quyết sự bất tương xứng giữa cái biết ấy và Thiên Chúa như đấng mặc khải (cái tự mình). Bởi lẽ, cái biết của tôi không phải là sự đồng nhất phẳng lỳ, nhưng luôn hàm chứa sự dị biệt và thống nhất giữa hai điều này. Cứ mỗi lần trải qua một chặng kinh nghiệm “đồng nhất giữa sự đồng nhất và không đồng nhất”, cái biết trở nên sâu sắc hơn, nên tôi vừa xác tín về mình hơn (tôi là ai trong mắt Đấng tối cao), vừa xác tín về Đấng ấy hơn (Ngài là ai đối với tôi). Cực điểm của chuỗi kinh nghiệm như vậy sẽ là sự hiệp nhất của tôi và Ngài (giống như tình trạng của ý thức là sự thấm nhập hoàn toàn vào nội dung đối tượng).
Bây giờ để thấy rõ sự vận động biện chứng trên trong thực tế cuộc sống, ta sẽ dừng lại khảo sát hai cấp độ của lòng tin trên hai bình diện: Ý thức[11] và Tự ý thức.
4.                    Lòng tin ở mức độ Ý thức[12]

Sự xác tín cảm tính là sự đụng chạm đầu tiên của ý thức đối với thế giới đối tượng, ngang qua sự tiếp thu của các giác quan. Trong cấp độ này, ý thức quả quyết mình đã nắm được chân lý về một cái gì “cá biệt” một cách phong phú và trực tiếp nhất[13], tức “cái này”, “cái ở đây và bây giờ”. Nhưng thật ra, nó chỉ nói lên sự vật là “tồn tại đơn thuần” chứ không thể nói lên sự vật là gì. Tức cái này (về sự vật) đối với tôi không phải là cái đặc thù như tôi tưởng (là gì), đúng ra đó chỉ là cái phổ biến (chung chung và thiếu tính đặc thù) mà thôi. Ý thức là một ý thức đang “trở thành”, nên không sớm thì muộn nó cũng sẽ tự chất vấn chính mình, nhằm khởi phát quá trình tự thẩm tra (tự vận động biện chứng): “Chính bản thân sự xác tín cảm tính phải hỏi: Cái này là gì ?” (§95). Thông qua sự thẩm tra, ý thức sẽ kinh nghiệm cái này chỉ là cái gì “trừu tượng” (trống rỗng), “phổ biến” và nghèo nàn nhất.
Thứ đến, bước sang hình thái cao hơn là tri giác, sự vật (với sự vượt bỏ kinh nghiệm cảm tính) hiện ra trước mắt ý thức không chỉ là “tồn tại đơn thuần”, mà là tồn tại được phong phú bởi các thuộc tính đa dạng của nó. Nhưng sự mâu thuẫn lại xuất hiện khi ý thức phân vân không biết bản chất của đối tượng là nhất thể tính hoặc là đa thể tính. Hệ quả, Ý thức trong cấp độ tri giác như thể bị “đẩy vào vòng xoáy” trong “trò chơi của những cái trừu tượng” (tính nhất thể, tính đa thể…) (§130).
Nếu như tri giác chỉ mới có được khái niệm (với các thuộc tính gắn vào đó), thì bước sang cấp độ tiếp theo của giác tính, khái niệm sẽ được phản tư: về tính phân hóa của cái tự mình thành nhiều cái cá biệt, và về sự quay trở lại của những cái cá biệt ấy vào trong một nhất thể duy nhất, nhằm tiến tới việc khám phá bản chất thật sự của đối tượng đằng sau hiện tượng nó tỏ bày cho ta. Cái làm nên bản chất ấy được Hegel gọi là Lực[14]. Nói cách khác, nhận thức ở giai đoạn cảm tính và tri giác đã tìm ra khái niệm, thì nơi giai đoạn giác tính ta có nhận thức về khái niệm nhờ Lực. Tuy nhiên, vì khái niệm đạt được trong không-thời gian và sự vật lại biến dịch trong đó, nên cái phổ quát (khái niệm) chỉ còn là một khung trống rỗng. chính lúc này, ý thức bắt đầu vượt bỏ sự mâu thuẫn này để bước lên một hình thức mới: Tự ý thức.
Quay trở lại với lòng tin, các giai đoạn trên của ý thức cũng là giai đoạn ấu thơ của lòng tin. Lòng tin ở mức độ cảm tính là nhận thức đầu tiên và trực tiếp về Thiên Chúa. Ngang qua sự hiện hữu huy hoàng của vũ trụ, sự hiện hữu của biết bao điều tốt đẹp trong cuộc  sống, và sự hiện diện kỳ diệu của tôi, tôi xác tín có Một Đấng chủ tể hiện hữu. Thế nhưng, xác tín này thật ra còn mơ hồ và chung chung lắm, vì Đấng ấy là ai và có liên hệ gì với tôi không. Dĩ nhiên ta không từ chối tính chất tinh khôi và phong phú của cái lòng tin thưở ban đầu này, nhưng đó cũng chỉ là một cảm xúc thoáng qua mà thôi. Lòng tin ấy cần có sự dạy dỗ hay nhờ tự tìm tòi, hầu tôi có thể hiểu biết (giác tính) về Đấng chủ tể và những đặc tính của Ngài. Khái niệm về Ngài giờ đây đã được phổ quát hóa thành những mệnh đề (chẳng hạn, “Thượng đế là Chân thiện mỹ” hay “Ngài là Đấng giàu lòng nhân hậu”) và cũng am hợp với các cảm xúc ban đầu của tôi về Ngài (kế thừa).
Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu lòng tin chỉ chịu đào luyện tới đây, không muốn đi ra khỏi chính mình để được cọ xát và lớn lên? Thiên Chúa (Chân lý) không phải là “đồng tiền được đúc sẵn và cứ thế mang ra tiêu dùng” (§39), khái niệm về Ngài theo đó phải được tiếp tục phát triển và hiện thực hóa. Biết bao người an phận với mức độ này theo kiểu giáo điều “truyền thống dạy sao thì nghe như vậy”, và tin rằng mình thực sự gặp được Thiên Chúa nhờ việc lặp đi lặp lại những câu kinh tiếng hát hay thậm chí dự Thánh Lễ hàng ngày. Chẳng lẽ, các mệnh đề, công thức về Thiên Chúa từ lâu đã có trong các sách giáo lý, và đã được diễn đạt rốt ráo, tối hậu, đến nỗi không ai có thể phản đối hay cần đòi hỏi thêm điều gì? Thiên Chúa là ai và ở đâu khi cuộc sống (của riêng họ) vẫn còn đấy những chuỗi dài bất công, tham vọng, lừa dối, khốn khổ và tàn nhẫn? Thiên Chúa của họ đâu có sống trong cuộc đời của họ. Ngài đã bị chết cứng nơi những mệnh đề và tín điều, và trở nên cái quen thuộc. Tôn giáo do đó chỉ còn là tôn giáo của hình thức, của bó buộc, và các tranh chấp xung đột. Người có lòng tin thì lên án kẻ không tin, còn kẻ không có lòng tin thì lại lên án người tin. Cả hai loại người thật ra có khác gì nhau, cũng đều dựa trên một khái niệm xơ cứng mà suy nghĩ và hành động[15]. Bản chất chiến tranh tôn giáo là thế đó! Giả như họ cũng mong muốn lòng tin có cơ hội trải nghiệm, nhưng vì sợ hãi lòng tin có thể trở nên sai lầm nên nghĩ rằng tốt hơn hết chỉ nên dừng lại ở đây, thà ít còn hơn mất trắng tất cả. Hegel ở §39 cho rằng sự sai lầm không nên hiểu như một tạp chất cần loại bỏ để đi đến Chân lý; ngược lại, sai lầm là kim loại chưa tinh luyện, cần được mài giũa, tinh luyện để trở thành Chân lý, vì thật ra nó tất yếu đã có mặt trong hình thái tối hậu của Chân lý như là một sự phủ định. Biết một cách sai lầm chỉ đơn giản là có một sự không ngang bằng trong nhận thức, và phải nhờ vậy mà có thể nảy sinh sự ngang bằng (mới) từ đó. Lòng tin ắt hẳn có thể bị đẩy vào mâu thuẫn tới mức gần như đánh mất chính mình khi tự ra khỏi chính mình, để nhảy vào thực tế cuộc sống, nơi vẫn thường được gọi là kẻ đánh cắp: thực tế phũ phàng và giả dối, thực tế oan nghiệt và chua cay. Nhưng chính lúc lòng tin còn tồn tại mà quay trở về, nó lại được củng cố và thêm mạnh mẽ cả về bề sâu lẫn bề rộng. Quả thật, lòng tin là một tiến trình hiện thực, sống động (chứ không tĩnh tại, trừu tượng nơi các ý niệm) của các giai đoạn khác nhau: một số giai đoạn phủ định những giai đoạn trước, rồi bản thân bị phủ định trong giai đoạn tiếp sau, nhưng tất cả đều là những bước đi tất yếu trong tiến trình và đều được bảo lưu trong kết quả tối hậu của nó.
Một khi lòng tin bắt đầu tháo bỏ tính quen thuộc, theo lối nói của Hegel, một khi cái tối hậu không còn bị giấu kín mãi ở “bên trong” hầm sâu u tối,  thì lòng tin ở mức độ ý thức sẽ tiến vào ánh sáng rạng rỡ ban ngày của Tự ý thức.
5.                    Lòng tin ở mức độ Tự ý thức[16]

Như việc khảo sát ở mục 1 cho thấy, Hegel đã tạo ra một khúc ngoặt trong quan niệm về ý thức. Ý thức xét như là Tự ý thức là khả năng tự tách ra để hiện hữu kề cận với chính mình, “là sự quay trở lại với chính mình từ cái tồn tại khác” (§167). Đó là cái biết về chính mình hay cái biết về cái mình biết, và hoàn toàn khác với cái biết về một cái khác mình nơi ba cấp độ trước. Nếu như trong cái biết trước kia, cái tự mình của đối tượng còn xa lạ và ở ngoài tôi, thì nay trong cấp độ tự ý thức, cái tự mình đã nằm trong lòng ý thức. Hệ quả, sự đối lập giữa hiện tượng và tính đúng thật chỉ có thể tìm thấy ‘bản chất của nó” (sự đồng nhất) trong sự thống nhất của Tự ý thức với chính nó (§167). Nói rõ hơn, vì có một đối tượng nhị bội cho tự ý thức: cái tự mình (đối tượng của các xác tín cảm tính và tri giác) và chính bản thân ý thức, nên sự thống nhất của ý thức từ tình trạng “phân biệt mà lại là không phân biệt này” cũng là sự đồng nhất giữa cái tự mình và cái cho mình của đối tượng: “Tự ý thức biểu thị ra như tiến trình vận động, qua đó sự đối lập này được khắc phục và sự ngang bằng của mình với chính mình sẽ hình thành cho bản thân tự ý thức.”  (§167).
Một cách tương tự, lòng tin ở cấp độ tự ý thức sẽ gồm hai đối tượng nơi nội tại của nó: Thiên Chúa như cái tự mình (nơi một biến cố, sự kiện, nơi chốn hay con người) và chính bản thân lòng tin (cái tôi thuần túy). Cả hai cái gộp lại chính là sự xác tín, nhưng không còn là xác tín về cái này cái kia mà là xác tín về sự xác tín. Và do có đối tượng nhị bội, lòng tin dù chỉ là một thôi, nhưng dường như tự phân đôi chính mình. Một mặt, tôi xét như một kẻ tin có khuynh hướng xác tín về chính lòng tin của mình trong sự bảo vệ, gìn giữ khỏi những cái khác. Mặt khác, tôi cũng có khuynh hướng đến với cái khác để thỏa mãn sự ham muốn của chính bản chất lòng tin: muốn có sự xác tín về mình thì phải thủ tiêu những cái xuất hiện ra như là khác mình (vì nếu không như thế sự xác tín chỉ là một lời nói suông mà thôi)[17]. Lúc này, “Tôi xác tín về điều Tôi xác tín” tuy có sự phân biệt nhưng thực ra là không phân biệt vì cái tôi trước và cái tôi sau cũng là một: “…cái Tôi là nội dung của quan hệ nối kết và là bản thân quan hệ. Đối lập với một cái khác, cái Tôi là bản thân nó, và đồng thời vượt ra bên ngoài cái khác này; nhung cái khác này đối với cái Tôi, cũng chỉ là bản thân cái Tôi” (§166).  Giống như con tằm ăn dâu (cái khác nó) không phải để nhả dâu mà để nhả tơ (cũng chính là nó), thì lòng tin là một tiến trình vận động tiến tới cái mà nó tưởng là khác (để thủ tiêu) và sau khi tương tác với cái khác ấy nó lại nhận lại chính mình trong mức độ phong phú hơn trước. Chính sự vận động như thế đã gây nên một chuyển động biện chứng cho cả lòng tin và đối tượng, và là cái mà Hegel gọi là sự sống.
 Trong khung trời mới mẻ của cấp độ này, vấn đề không còn là ý thức tạo ra đối tượng hay đối tượng tạo ra ý thức, đúng hơn tính chất của ý thức sẽ tương ứng với sự thay đổi của đối tượng. Thiên Chúa (nơi một biến cố, sự kiện, nơi chốn hay Đức Giêsu và con người) không còn đơn thuần tồn tại đứng yên bất động “theo phương cách của sự xác tín cảm tín và tri giác”, nhưng như là một sự sống “một tồn tại đã được phản tư vào trong chính nó” (§168). Thánh Augustine đã diễn tả thật chính xác kinh nghiệm này, khi ngài thốt lên  rằng Thiên Chúa vừa cổ kính vừa luôn mới mẻ (kế thừa và nâng cao). Với một Thiên Chúa như thế, không ai còn dám khẳng định rằng đây mới là Thiên Chúa đích thực và phủ quyết sạch trơn những kinh nghiệm của các tôn giáo khác. Thiên Chúa không là “sản phảm độc quyền” (như nhiều người vẫn nghĩ thế) của bất kì ai cả, cũng như một lòng tin đặt nền trên sự chiếm hữu thì ắt hẳn luôn ẩn chứa sự nghi ngờ (không có sự thật của việc xác tín).  Cũng thế, lòng tin của tôi không còn là kho tích luỹ những điều phải tin, nhưng là sự “trở thành” trong việc tiêu hóa các điều đó theo đặc tính sự sống vốn có nơi nó: “tiến trình của sự sống là cái toàn bộ tự phát triển, giải thể sự phát triển của chính mình và bảo tồn chính mình một cách đơn giản ngay trong toàn bộ tiến trình vận động” (§171). Lòng tin phải là “hạt cải” dẫu bé xíu nhưng lại ẩn tàng sức mạnh lớn lên của sự sống, chứ không thể là ngọn núi dẫu to lớn nhưng mãi mãi chỉ là cái chết bất động.
Vì dòng chảy Sự sống nơi nội tại lòng tin là sự liên tục của quá trình hợp và tan, nên lòng tin tất yếu phải trải nghiệm sợ hãi, đối diện, đau đớn và vượt qua đối với cái Chết nếu muốn được trưởng thành. Như đã nói, lòng tin một mặt là thuần túy, khẳng định chính mình ; mặt khác là đánh mất chính mình nơi cái khác (Thiên Chúa nơi thế giới đối tượng khách quan) hay nói theo ngôn ngữ tự ý thức là lòng tin trong “hình thái vật tính” [18]. Cả hai tính chất của cùng một lòng tin này hiển nhiên vừa phân biệt nhưng thật ra không có sự phân biệt, và bởi lẽ đó nên thoạt đầu chúng không ngang bằng nhau (đối lập nhau), cũng như “sự phản tư của chúng vào trong sự thống nhất chưa hình thành” (§189). Vậy muốn đạt được sự thống nhất, chúng tất yếu phải thủ tiêu cái xa lạ nơi chính cái khác để xác tín chính mình. Một biến cố đau thương xảy đến và khiến tôi có một hình ảnh hoàn toàn khác về Thiên Chúa. Cái hình ảnh trước đây phải dung hợp thế nào với cái quá đỗi xa lạ này? Lòng tin trong chiều hướng bảo tồn thuần túy sẽ cố gắng bảo vệ những gì đã được xây dựng và phủ định chiều hướng trong hình thái của biến cố (vật tính) lúc này, nhưng cũng chính chiều hướng hình thái của biến cố lúc này lại muốn chứng tỏ cái đối lập là phải như thế này mới đúng và cũng muốn phủ định cái kia. Sự thủ tiêu sẽ trở nên sự vượt bỏ (thủ tiêu, bảo lưu, và nâng cao), khi hình ảnh của Thiên Chúa của cả hai đều được gìn giữ nhưng được nắm lấy trong một mức độ cao hơn. Tuy nhiên, vì cả hai đều thực sự dám đối diện với sự phủ định của nhau, đều dám liều ra khỏi chính mình để vật lộn với cái xa lạ đối với mình (nhưng sẽ gặp lại chính mình trong cái này), nên cả hai cùng trải nghiệm cái chết. Đó là kinh nghiệm bị tước đoạt, bị đảo lộn đến mức dường như mình chỉ còn là con số 0 không hơn không kém đối với phía đối lập. Theo cách nói của Hegel, đó là một cuộc thử luyện về sự rách nát: “Tinh thần đạt tới chân lý chỉ khi tìm gặp chính mình trong một tư thế rách nát”. Nhưng phải nhờ băng qua những lối nẻo dằn vặt và cam go như thế, chúng ta mới gột rửa khỏi lòng tin những khối ảo tưởng chất chồng về Thiên Chúa, về chính mình và về người khác. Mọi chân lý đều phải đòi trả giá! Vâng, tự nền tảng chân lý là chân lý trong niềm khổ đau, nhưng đồng thời cũng là chân lý trong tư thế đợi chờ, và mời gọi ta can đảm tiếp tục dấn bước.
Cái chết quả thật chính là động lực của sự sống, nhưng một cái chết thực sự (của cả hai) sẽ là một sự thoái lui hay thậm chí là dấu chấm hết cho lòng tin. Bởi lẽ, giữa chúng khi đó không còn sự tương tác qua lại và hoàn toàn dửng dưng với nhau. Kẻ tin trong trường hợp này sẽ như quả lắc liên tục chuyển từ thái cực này sang thái cực khác. Lúc thì đắm đuối với xác tín của riêng mình như chàng Narcissus (nhân vật trong truyện thần thoại Hy Lạp), và rốt cuộc trốn chạy khỏi thực tại của cuộc sống. Lúc thì đắm đuối nơi thực tại cuộc sống mà gần như đánh mất chính mình, thậm chí hoang mang về ý nghĩa của một niềm tin trong vô vàn đau thương và nghiệt ngã của đời sống. Điều đó dường như giống như kinh nghiệm hiện sinh kiểu nôn mửa của Sartre: một sự cách biệt quá lớn giữa cái cái hữu tại ngã và cái hữu vị ngã, một hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống nhưng vẫn cảm nghiệm sự trống rỗng nơi chính niềm tin của mình[19]. Cả hai tình trạng này không sớm thì muộn sẽ dẫn đến một thứ hoài nghi tiêu cực mà thôi. Nói tóm lại, chính vì cái chết đáng sợ, nên giải pháp tốt nhất là cả hai phải sống sót, tức bảo tồn sự phân hóa thành những mặt đối cực như bản chất lòng tin đòi hỏi, nhưng trong tình trạng thừa nhận lẫn nhau.
6.                    Kết luận

Hành trình đào luyện của lòng tin không phải là quá trình vun vén hay thêm thắt, mà là luyện lọc và trở nên. Đó là con đường truy nội: đi sâu vào chính mình, để xác tín không chỉ về mình mà còn về Thiên Chúa và vạn vật xung quanh tôi. Đó cũng là hành trình trở về chính mình từ những cái khác biệt, từ những trớ trêu, những thử thách và khốn khổ của kiếp người. Nói như thế không có nghĩa rằng tôi xét như một kẻ tin luôn phải tìm đến đau khổ. Bởi lẽ, đau khổ là cái tất yếu sẽ đến, nhưng không bao giờ là đích nhắm của lòng tin. Mục đích tối hậu của lòng tin, đúng ra sẽ là tương quan nên một giữa tôi và Đấng tuyệt đối ngay trong chiều sâu của chính tôi. Bởi thế, lòng tin như thể bị quăng ném ra một nơi xa lạ, để rồi luôn mang trong mình nỗi hoài thương và ao ước được trở về nhà của chính mình. Bóng mát, nghỉ ngơi cũng quan trọng, nhưng không thể vượt trên cả cuộc hành trình! Kết lại, tôi xin được trích một đoạn trong tác phẩm “Cuộc đời của Pi” như một bản trường ca thật đẹp về cái thực của lòng tin: một con đường rải đầy hoa hồng, ngào ngạt hương thơm ngát nhưng cũng thấm đẫm máu hồng bởi gai nhọn:
“Trong những giờ phút đó tôi đã cố tự nâng đỡ lấy mình. Tôi sẽ chạm tay vào vành khăn Hồi giáo tự quấn lấy bằng những mảnh ảo còn sót lại và nói to, “Này là chiếc mũ của Thượng đế!” Tôi sẽ vỗ tay vào chiếc quần của mình và nói to, “Này là áo quần của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ sang Richard Parker và nói to, “Này là con mèo của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ vào chiếc xuồng và nói to, “Này là chiếc bè cứu nạn của Thượng đế!”Tôi sẽ xoè hai bàn tay thật rộng ra biển và nói to, “Này là những dải đất mênh mông của Thượng đế!”Tôi sẽ chỉ lên trời và nói to, “Này là lỗ nhĩ của Thượng đế!” Và như thế, tôi sẽ nhắc mình nhớ đến công việc sáng tạo thế giới và chỗ đứng của tôi ở trong đó.

Nhưng cái mũ của Thượng đế lúc nào cũng chực tuột ra. Áo quần của Thượng đế cứ rách nát dần. Con mèo của Thượng đế luôn là mối hiểm hoạ. Chiếc bè cứu nạn của Thượng đế là nhà tù. Dải đất mênh mông của Thượng đế đang giết dần giết mòn chính tôi. Và lỗ nhĩ của Thượng đế dường như không hề lắng nghe tôi. Tuyệt vọng là một màn tối đen dày đặc không cho ánh sáng lọt vào hoặc thoát ra. Đó là chốn địa ngục không có lời nào tả xiết. Tôi tạ ơn Thượng đế vì những cơn tuyệt vọng ấy bao giờ cũng qua đi. Cái tối đen ấy sẽ rung động và cuối cùng tan đi, và Thượng đế còn đó, một điểm sáng ngời trong lòng tôi.”[20]
 Nguyễn Ngọc Khang


 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.                    HEGEL, Georg Wilhelm Friedrich Hiện Tượng Học Tinh Thần, Dịch và chú giải: Bùi Văn Nam Sơn, NXB Văn Học, 2004.
2.                    GRONDIN, Jean, Introduction a la Metaphysique, Dịch giả: Nguyễn Quốc Lâm, Universite d Montreal, 2004.
3.                    MARTEL, Yann , Cuộc đời của Pi,  Dịch giả: Trịnh Lữ, NXB Văn Học, 2004.
4.                    TOÀN, Vũ Ngọc, Dõi theo tiến trình đạt đến thành toàn của Tự ý thức trong quyển “Hiện tượng luận Tinh thần” của Hegel, Học viện Thánh Giuse, Thủ Đức, 2007.
[1] Suy tư, suy tư phản tỉnh, suy niệm hay chiêm niệm, xét cho cùng cũng là hoạt động của ý thức. Thậm chí, kinh nghiệm trong các hiện tượng “xuất thần” cũng là hoạt động của ý thức, và dĩ nhiên là của một ý thức ở cấp độ cao hơn, cấp độ của Tinh thần.
[2] Về bản văn của Hegel, bài viết xin được dựa trên bản dịch: Georg Wilhelm Friedrich HEGEL Hiện Tượng Học Tinh Thần, Dịch và chú giải: Bùi Văn Nam Sơn, NXB Văn Học, 2004.
[3] Giáo Hội Công Giáo, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 150, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2010, tr.59.
[4] Nơi §36, Hegel xem ý thức, là một hiện hữu trực tiếp của Tinh thần, bao gồm hai momente: yếu tố cái biết và yếu tố đối tượng (mang tính khách quan). Vấn đề đặt ra là, “Nếu ta gọi cái biết (Wissen) là Khái niệm (Begriff), còn gọi cái bản chất hay cái đúng thật là cái đang hiện hữu (das Seiende) hay đối tượng, thì sự thẩm tra là ở chỗ xét xem Khái niệm có tương ứng với đối tượng hay không?” (§84).
[5] Diễn giải một cách trừu tượng, điều này nghĩa là cái tồn tại tự mình và cái tồn tại có cái khác đều rơi vào bên trong ý thức.
[6] Một cách khái quát nơi lời tựa, Hegel xem sự vận động của cái biết (hiện tượng học) như là “con đường đi của ý thức tự nhiên vươn đến Tri thức đúng thật”. Theo chú giải 2.2.2 của B.V.N.Sơn, tự nhiên ở đây có nghĩa là sự kiềm tỏa, quy định nhưng vẫn trong môi trường ý thức. Ý thức tự nhiên là ý thức đang bị kiềm tỏa, quy định bởi “bản tính vô cơ” (§28), vốn dĩ là những hoàn cảnh, thói quen, truyền thống hay tôn giáo…có sẵn. Và con đường tất yếu sẽ là việc ý thức tự nhiên dần dần “tiêu thụ bản tính vô cơ này của mình và chiếm lĩnh nó cho mình” (§28). Tức là nó phải ngày càng thấu hiểu tính hữu lý của đối tượng khách quan (sự vô minh đồng nghĩa với việc bị quy định), hầu mang lại một sự đồng nhất cho cái biết của nó và tính khách quan.
[7] X.§85.  Qua đây, ta hiểu tại sao Hegel xem cái chân lý (hay cái đúng thật) không chỉ được lĩnh hội như là Bản thể mà còn như là Chủ thể, tức như “… cái gì chỉ là chính mình trong chừng mực nó tha hóa chính mình với chính mình, rồi lại có thể thiết định chính mình ở trong  thông qua cái tồn tại-khác có vẻ xa lạ ấy…” (§18). Cái đúng thật nếu chỉ được suy tưởng như là bản thể, thì khi đó ta nghĩ về nó bằng tính phổ biến bất phân biệt, tức như một cái gì bất động chỉ đơn thuần là tồn tại. Cái đúng thật đúng ra phải được suy tưởng như là chủ thể, tức như là một mắt xích trong chuỗi tiến trình vận động “vừa phủ định chính mình trong cái tồn tại-khác ngoại tại, dửng dưng, rồi vừa tái-khẳng định chính mình như là sự phủ định [của phủ định] của tất cả cái tồn tại-khác ấy” (§18). Cái đúng thật là một hiện hữu mở ra chứ không phải khép kín, tự phát triển, tự triển khai trong sự phân biệt và đi ra khỏi tính đơn giản trực tiếp ban đầu để rồi lại tiến về chính mình (trong mức độ cao hơn từ cái tồn tại khác). Nó không chỉ hiện hữu “tự-mình” như là bản thể, mà còn trở thành “cho-mình” (hiện thực hóa chính mình qua các sự phân biệt) như một chủ thể.   
[8] “…Bằng cách tự vươn đến sự hiện hữu chân thật của mình, ý thức sẽ đạt tới một điểm, nơi đó nó trút bỏ vẻ ngoài  của mình còn bị vướng víu với cái xa lạ – là cái chỉ tồn tại cho ý thức và đồng thời tồn tại như là một cái khác nó – ; hay cũng là nơi mà hiện tượng trở thành ngang bằng với bản chất….”  (§89). Trong mục chú giải 2.4.2 B.V.N.Sơn có trích lại một đoạn của quyển bách khoa toàn thư của Hegel như sau, “Chân lý có thể được xem là sự trùng hợp giữa nội dung với chính bản thân nó”. Và sự trùng hợp này đồng nghĩa (nhưng diễn đạt cao hơn) sự trùng hợp giữa khái niệm và đối tượng (cách hiểu truyền thống). Còn về mối liên hệ giữa cái đúng thật và Chân lý, thì Chân lý là cái đúng thật đang “trở thành”: “Ta có thể hình dung đúng về một đối tượng tồi tệ, nhưng nội dung của biểu tượng này lại là một cái không đúng thật trong bản thân nó. Những điều ‘đúng’ nhưng lại ‘khôngđúng thật’ ấy, ta có hàng khối trong đầu óc!”. 
[9] Khái niệm không chỉ là khái niệm đơn thuần do ta tạo ra về một đối tượng nào đó theo nghĩa thông thường, nhưng là khái niệm có trong trong mình sự trung giới chính nó, là cái biết có khả năng xâm nhập vào bản thân đối tượng.
[10] “Sự phân liệt hay không ngang bằng nhau giữa Tự ngã và Bản thể khách quan là cái trống không (das Leere) tạo nên nguồn cảm hứng hay linh hồn cho sự vận động của cả hai, hướng về nhau…” (§37)
[11] Ý thức được xét ở các phần trên mang nghĩa rộng, tức bao gồm Tự ý thức. Còn ý thức nơi phần này là muốn nhắm đến ba cấp độ đầu tiên của ý thức là cảm tính, tri giác và giác tính.
[12] Phần này dựa trên chú giải của B.V.N.Sơn về: xác tín cảm tính (mục 3), tri giác (mục 4) và giác tính (mục 5).
[13] “…Sự xác tín cảm tính cũng xuất hiện ra như là nhận thức đúng thật nhất, bởi nó chưa gạt bỏ bất cứ điều gì ra khỏi đối tượng, trái lại có đối tượng trước mặt mình trong tất cả tính hoàn chỉnh trọn vẹn…” (§91)
[14]“ Giác tính là ý thức về sự vật như là biểu hiện của cac Lực và như là ‘hiện tượng’ phục tùng các quy luật” (chú giải mục 6.1). Đối với Kant, các phạm trù có thể xem là của cải riêng vốn có của chủ thể nhận thức, nhưng Lực ở đây không chỉ là nguyên tắc nội tại của chủ thể tư duy mà còn là của đối tượng. Một cách nào đó, ta có thể nói như chú giải của B.V.N.Sơn rằng sự phân biệt giữa vật tự thân và hiện tượng đối với Hegel được coi như không còn. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là giác tính đã nắm lấy bản chất thực sự của sự vật đâu. Bởi lẽ, trong khi cái tự thân theo Kant, cái tôi không thể áp các phạm trù của tôi cho nó (vì nó nằm ngoài các phạm trù), là cái bản chất thực sự ; thì cái tự thân (nếu có) theo Hegel chỉ là cái khái niệm được trừu xuất từ kinh nghiệm cảm tính và tri giác.
[15] Nơi §69, Hegel gọi loại người đó là những kẻ tự cho mình là theo “lý trí lành mạnh”. Nhưng sự thực, họ chỉ biết dựa vào cảm xúc để phán đoán chân lý là “như thế, như thế…”, và đồng thời cho rằng mọi điều khác là ngụy biện, sai lầm. Những ai không nhận thức và cảm xúc giống như họ thì họ coi như không còn gì để nói. Nói khác đi, “họ đã chà đạp lên chính gốc rễ của tính nhân văn”.
[16]Mục này thật ra là sự nhắc lại và khai triển những gì nơi mục 2 đã bàn, nhưng với mức độ cụ thể hơn bao nhiêu có thể.
[17] “…Tự ý thức chỉ tự xác tín về chính mình thông qua việc thủ tiêu cái khác này…” (§174).
[18] Cái trước độc lập tự chủ vì bản chất của nó la tồn tại cho chính mình, còn cái sau vì bản chất của nó tồn tại cho cái khác nên không độc lập tự chủ ; ta có thể gọi một cách tương tự với ý thức là lòng tin có tính chủ và lòng tin có tính nô.
[19] X. Hoành Sơn, Triết sử Ấn độ, Hưng giáo văn đông xuất bản, Sài Gòn, 1970-1974, tr.81.
[20] Yann Martel, Cuộc đời của Pi,  Dịch giả: Trịnh Lữ, NXB Văn Học, 2004. Cuộc đời Câu chuyện kể về cậu bé Pi – Piscine Molitor Patel – bị đắm tàu với con hổ Begal tên là Richard Parker trưởng thành. Đói lả, mệt mỏi, sợ hãi và cả tuyệt vọng, Pi đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi bờ vực tăm tối đó - “Mọi việc ở đời có bao giờ diễn ra như ta vẫn tưởng, nhưng biết làm sao. Cuộc đời đem cho ta cái gì thì ta phải nhận cái đó và chỉ còn cách làm cho chúng tốt đẹp nhất mà thôi”.