07/04/2017
Thứ sáu tuần 5 Mùa Chay.
Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Chúa ở cùng
tôi như người lính chiến hùng dũng".
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Tôi đã nghe nhiều người
thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy
tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà
nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù
nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ
bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ
nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các
đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con
sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho
Chúa.
Hãy hát mừng Chúa, hãy
ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a.
3bc-4. 5-6. 7
Ðáp: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu
xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa là
dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. -
Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên
Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức
hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi
tay quân thù. - Ðáp.
3) Sóng tử thần đã bao
bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn
lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.
4) Trong cơn đại hoạ,
tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài
nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta
không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".
Phúc Âm: Ga 10, 31-42
"Họ tìm bắt
Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người Do-thái
lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi
thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá
Ta?"
Người Do-thái trả lời:
"Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng
ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại:
"Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói:
các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là
thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng
đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng
ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của
Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các
ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin
rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt
Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi
trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người.
Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về
người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Mở đầu Bài Tin Mừng
hôm nay nhắc ngay đến việc người Do-thái lượm đá ném Chúa Giêsu, vì họ cho rằng
Người phạm thượng khi dám coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Luật Do-thái cho phép ném đá sau khi toà tuyên án tử hình cho phạm nhân. Còn đây, những người nghe Chúa Giêsu đã ném đá trực tiếp vào Người mà không cần xét xử, điều này cho thấy sự phẫn nộ của họ đã lên tới cực đỉnh. Họ coi việc phạm thượng đến Thiên Chúa như một tội tiền kết, đủ chứng cớ để tử hình mà không phải xét xử nữa.
Đối với Do-thái giáo, Thiên Chúa là Đấng duy nhất và không có thần nào khác ngoài Người. Giới răn thứ nhất và thứ hai trong thập điều dạy thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất và danh Thiên Chúa là chí thánh đến nỗi không được gọi danh Người. Cho nên ai dám xưng mình là ngang hàng Thiên Chúa thì là một trọng tội trên hết mọi tội trọng khác.
Có thể nói, người Do-thái không sai khi phản ứng lại mầu nhiệm đồng bản tính với Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, vì toàn văn Thánh Kinh Cựu Ước (Luật và các Ngôn Sứ) không có một mặc khải minh nhiên nào về Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Thật vậy, mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” chỉ được Chúa Giêsu là Đấng đến từ trời mặc khải cho nhân loại. Chính vì vậy, mà ở đây chúng ta không nói gì để lên án người Do-thái là cứng lòng tin, nhưng điều cần suy niệm hôm nay là ý thức nguồn gốc “con Thiên Chúa” của mình để sống sao cho xứng đáng, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa qua những kỳ công Người thực hiện trong vũ trụ, trong con người và trong mỗi cuộc đời chúng ta.
Luật Do-thái cho phép ném đá sau khi toà tuyên án tử hình cho phạm nhân. Còn đây, những người nghe Chúa Giêsu đã ném đá trực tiếp vào Người mà không cần xét xử, điều này cho thấy sự phẫn nộ của họ đã lên tới cực đỉnh. Họ coi việc phạm thượng đến Thiên Chúa như một tội tiền kết, đủ chứng cớ để tử hình mà không phải xét xử nữa.
Đối với Do-thái giáo, Thiên Chúa là Đấng duy nhất và không có thần nào khác ngoài Người. Giới răn thứ nhất và thứ hai trong thập điều dạy thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất và danh Thiên Chúa là chí thánh đến nỗi không được gọi danh Người. Cho nên ai dám xưng mình là ngang hàng Thiên Chúa thì là một trọng tội trên hết mọi tội trọng khác.
Có thể nói, người Do-thái không sai khi phản ứng lại mầu nhiệm đồng bản tính với Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng, vì toàn văn Thánh Kinh Cựu Ước (Luật và các Ngôn Sứ) không có một mặc khải minh nhiên nào về Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Thật vậy, mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” chỉ được Chúa Giêsu là Đấng đến từ trời mặc khải cho nhân loại. Chính vì vậy, mà ở đây chúng ta không nói gì để lên án người Do-thái là cứng lòng tin, nhưng điều cần suy niệm hôm nay là ý thức nguồn gốc “con Thiên Chúa” của mình để sống sao cho xứng đáng, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa qua những kỳ công Người thực hiện trong vũ trụ, trong con người và trong mỗi cuộc đời chúng ta.
1. Nguồn gốc thần linh.
Chúa Giêsu nhắc lại lời Thánh Vịnh 82 rằng: “Hết thảy các ngươi đây, đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6). Nói lên nguồn gốc con người có nguồn gốc thần linh, là con của Thiên Chúa. Mà đã là con thì không phải mang kiếp nô lệ.
Ở đây, ta không nhất thiết phải hiểu làm con theo kiểu “con vua thì lại làm vua”, nhưng cũng không sai, vì Chúa Giêsu đã cứu chuộc và cho con người được đồng thừa kế và hiển trị với Người.
Lại nữa, theo cách chú giải của thánh Augustino: “Chúa đã làm người để con người làm chúa”. Thánh nhân sử dụng chữ Domini và domini vừa có nghĩa là Chúa (viết hoa) vừa có nghĩa là ông chủ (viết thường). Như thế, nhờ công ơn cứu chuộc mà con người lãnh nhận, họ trở thành “vương đế”, nghĩa là làm chủ được chính mình trước tội lỗi, thế gian và ma quỷ.
Chúa Giêsu nhắc lại lời Thánh Vịnh 82 rằng: “Hết thảy các ngươi đây, đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6). Nói lên nguồn gốc con người có nguồn gốc thần linh, là con của Thiên Chúa. Mà đã là con thì không phải mang kiếp nô lệ.
Ở đây, ta không nhất thiết phải hiểu làm con theo kiểu “con vua thì lại làm vua”, nhưng cũng không sai, vì Chúa Giêsu đã cứu chuộc và cho con người được đồng thừa kế và hiển trị với Người.
Lại nữa, theo cách chú giải của thánh Augustino: “Chúa đã làm người để con người làm chúa”. Thánh nhân sử dụng chữ Domini và domini vừa có nghĩa là Chúa (viết hoa) vừa có nghĩa là ông chủ (viết thường). Như thế, nhờ công ơn cứu chuộc mà con người lãnh nhận, họ trở thành “vương đế”, nghĩa là làm chủ được chính mình trước tội lỗi, thế gian và ma quỷ.
2. Tin vào công việc Chúa làm.
Chúa Giêsu nói: “dù các ông không tin Tôi, ít ra cũng hãy tin các việc Tôi làm”.
Có vẻ như chính Chúa Giêsu cũng thừa nhận rằng, người Do-thái không thể tin được Người là một ngôi vị đồng bản thể với Thiên Chúa Cha, vì trong niềm tin của người Do-thái là độc thần, nên Người đành phải nại đến cớ “xem quả để biết cây” - nhìn những công việc Người thực hiện mà nhận ra quyền năng thiên tính của Người, mà cụ thể là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và phục sinh kẻ chết. Đặc biệt cách thực hiện của người không như các lang y, mà là ra lệnh cho mọi quyền lực ma quỷ, sự chết và tội lỗi phải tuân lệnh. Ngài dùng Lời sáng tạo để phục hồi: “hãy chỗi dậy, hãy sáng mắt, hãy ra khỏi người này…” giống như ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa phán: “hãy có ánh sáng,hãy có tinh tú…” và tức khắc xảy ra như vậy.
Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ, chính Chúa Giêsu đã khẳng định, con người chỉ biết có Thiên Chúa hiện hữu qua công trình sáng tạo, qua muôn kỳ công của Người, sự quan phòng của Người, và đặc biệt Người được mặc khải tròn đầy qua Chúa Giêsu Kitô. Người ta cũng nhận biết có Thiên Chúa qua Hội Thánh và qua các chứng nhân: vũ trụ sẽ ra sao nếu không có sự an bài của một quyền năng thượng trí sắp đặt, sự khôn ngoan ở đâu khi những con người ít học như các Tông Đồ mà lại trở nên lợi khẩu và làm những việc phi thường…
Với người vô thần thì tất cả chỉ là ngẫu nhiên và là những sự trùng hợp nào đó, đến nỗi những phép lạ hiển nhiên nơi Phatima, Lộ Đức… cũng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Họ không tin có Thiên Chúa đã đành, họ cũng tìm cách chống chế những gì tốt đẹp mà Giáo Hội và mỗi người Công Giáo đã thực hiện.
Còn không ít người Công Giáo thì lại thích tin theo những cái “được coi là mạc khải tư” nào đó hơn là tin vào Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa được ghi lại trong Thánh Kinh và kho tàng đức tin nơi Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con hôm nay biết ý thức vai trò làm con Thiên Chúa để sống cho xứng đáng là con thảo của Cha trên trời. Đồng thời luôn nhận ra Chúa hiện diện trong mọi kỳ công của vũ trụ, trong thế giới, trong con người và trong mọi biến cố cuộc đời. Amen.
Chúa Giêsu nói: “dù các ông không tin Tôi, ít ra cũng hãy tin các việc Tôi làm”.
Có vẻ như chính Chúa Giêsu cũng thừa nhận rằng, người Do-thái không thể tin được Người là một ngôi vị đồng bản thể với Thiên Chúa Cha, vì trong niềm tin của người Do-thái là độc thần, nên Người đành phải nại đến cớ “xem quả để biết cây” - nhìn những công việc Người thực hiện mà nhận ra quyền năng thiên tính của Người, mà cụ thể là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và phục sinh kẻ chết. Đặc biệt cách thực hiện của người không như các lang y, mà là ra lệnh cho mọi quyền lực ma quỷ, sự chết và tội lỗi phải tuân lệnh. Ngài dùng Lời sáng tạo để phục hồi: “hãy chỗi dậy, hãy sáng mắt, hãy ra khỏi người này…” giống như ngay từ lúc sáng tạo, Thiên Chúa phán: “hãy có ánh sáng,hãy có tinh tú…” và tức khắc xảy ra như vậy.
Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ, chính Chúa Giêsu đã khẳng định, con người chỉ biết có Thiên Chúa hiện hữu qua công trình sáng tạo, qua muôn kỳ công của Người, sự quan phòng của Người, và đặc biệt Người được mặc khải tròn đầy qua Chúa Giêsu Kitô. Người ta cũng nhận biết có Thiên Chúa qua Hội Thánh và qua các chứng nhân: vũ trụ sẽ ra sao nếu không có sự an bài của một quyền năng thượng trí sắp đặt, sự khôn ngoan ở đâu khi những con người ít học như các Tông Đồ mà lại trở nên lợi khẩu và làm những việc phi thường…
Với người vô thần thì tất cả chỉ là ngẫu nhiên và là những sự trùng hợp nào đó, đến nỗi những phép lạ hiển nhiên nơi Phatima, Lộ Đức… cũng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Họ không tin có Thiên Chúa đã đành, họ cũng tìm cách chống chế những gì tốt đẹp mà Giáo Hội và mỗi người Công Giáo đã thực hiện.
Còn không ít người Công Giáo thì lại thích tin theo những cái “được coi là mạc khải tư” nào đó hơn là tin vào Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa được ghi lại trong Thánh Kinh và kho tàng đức tin nơi Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con hôm nay biết ý thức vai trò làm con Thiên Chúa để sống cho xứng đáng là con thảo của Cha trên trời. Đồng thời luôn nhận ra Chúa hiện diện trong mọi kỳ công của vũ trụ, trong thế giới, trong con người và trong mọi biến cố cuộc đời. Amen.
Hiền Lâm, SOC.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần V MC
Bài đọc: Jer
20:10-13; Jn 10:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ của
Thiên Chúa bị truy tố và bị ném đá.
Quyền hành đến từ
Thiên Chúa. Khi con người nắm quyền hành, họ phải biết dùng quyền được trao để
phân xử công minh: trừng trị kẻ gian ác và bảo vệ quyền lợi cho kẻ vô tội. Thế
nhưng nhiều người khi có quyền, đã không làm như thế. Họ nghĩ họ có thể bắt mọi
người làm theo lệnh truyền của họ, bất chấp sự thật và công bình.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong việc lạm dụng uy quyền để đấu tố người công chính. Trong Bài Đọc I,
tư tế Pathhur lạm dụng uy quyền của mình để bắt bớ, đánh đập, và bỏ tù tiên-tri
Jeremiah, vì ông đã tuyên sấm tội lỗi và hình phạt của dân thành Jerusalem.
Trong Phúc Âm, những người Do-thái lượm đá ném Chúa Giêsu vì cho Ngài phạm thượng,
là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh
để cắt nghĩa và dùng các việc làm để chứng minh Ngài được Thiên Chúa thánh hiến
và sai đến thế gian; nhưng họ vẫn ngoan cố không tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngôn sứ Jeremiah bị truy tố.
1.1/ Jeremiah bị tư tế
Pathhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa,
tiên-tri Jeremiah phải tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah,
các tư tế, và dân thành Jerusalem. Tư tế Pathhur, con ông Immer, tổng quản đốc
Nhà Đức Chúa, chẳng những đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho
đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên
trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía kinh hoàng” là tên của Jeremiah đặt cho tư tế
Pashhur, sau khi ông này bắt bớ, đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).
Jeremiah nói tiên tri
về vận mạng của Pathhur và của tòan dân: “Quả thật, Đức Chúa phán như sau: Này
Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của
ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến
điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt chúng đi
lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành này cùng với
mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua
Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về
Babylon. Còn ông, hỡi Pathhur, chính ông và tất cả những người ở trong nhà ông
sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại đó;
ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm láo!"
1.2/ Ngôn sứ Jeremiah tìm
sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương
đầu với bao nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà
vua, tiên-ri Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu
không có sức mạnh của Thiên Chúa. Tiên tri tin tưởng và cầu nguyện: “Nhưng Đức
Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại
con sẽ thất điên bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại,
và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”
Tiên-tri biết Thiên
Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công chính: “Lạy
Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can,
con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài.
Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần
khỏi tay phường hung bạo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị người Do-thái ném đá.
2.1/ Lý do Chúa Giêsu bị
ném đá: Chúa Giêsu chất vấn người Do-thái tại
sao ném đá Ngài, người Do-thái cho Chúa Giêsu biết lý do: "Chúng tôi ném
đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông
là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." Lời mà họ vịn vào để ném
đá Chúa Giêsu là “Tôi và Chúa Cha là một” (Jn 10:30). Chúa Giêsu biết rất khó để
cắt nghĩa cho họ hiểu câu này, nên Ngài dùng cách cắt nghĩa bằng việc làm. Chúa
Giêsu dùng lời Thánh Vịnh 82:6: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc
thần thánh (elohim), là con Đấng Tối Cao (benê Elyôn).” Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa thường chọn các Quan Án và gởi họ đến cho dân để họ xét xử dân
theo lẽ công bình. Các Quan Án này thường được coi như các vị thần của dân
chúng. Ý tưởng này rõ ràng hơn trong Sách Xuất Hành khi Đức Chúa phán với ông
Moses: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần (elohim) đối với
Pharao, còn Aaron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi” (Exo 7:1). Chúa Giêsu kết
luận: “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần
thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã
thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: "Ông nói phạm
thượng! vì tôi đã nói: "Tôi là Con Thiên Chúa?"”
2.2/ Chúa Giêsu chứng
minh bằng việc làm: Chúa Giêsu không chỉ chứng
minh cho họ bằng lời Kinh Thánh, mà còn bằng các việc Người đã làm: nuôi dân
chúng ăn, chữa lành mọi bệnh tật, trục xuất quỷ, cho người chết sống lại … Những
việc này chứng minh Ngài có uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hỏi họ: “Nếu
tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm
các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như
vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở
trong Chúa Cha." Không thể tranh luận với Ngài lời, cũng không thể bắt lỗi
Ngài bằng việc làm; lẽ ra họ phải phục thiện và tin vào Ngài, nhưng họ lại chọn
dùng vũ lực để uy hiếp Người vô tội như trình thuật kể: “Bấy giờ họ lại tìm
cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.”
Chúa Giêsu trở về chỗ
Ngài đã chịu Phép Rửa bởi Gioan và Ngài ở lại đó: Tại sao Chúa Giêsu tìm đến
nơi này? Ngài biết giờ của Ngài trên dương gian sắp hết và Ngài muốn tìm lại
nguồn sức mạnh nơi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng để có đủ sức đương đầu với những
người chống đối. Đây là chỗ mà Thiên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài bằng tiếng
vọng từ Trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Nhiều người
đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả,
nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." Họ nhận ra sự khác biệt
giữa Chúa Giêsu và Gioan: Ông Gioan là ngôn sứ nói cho họ biết về Chúa Giêsu,
nhưng không làm một phép lạ nào cả. Chúa Giêsu chứng minh những gì Gioan nói về
Ngài là sự thật bằng các việc Ngài làm. Tổng hợp cả hai lời chứng và việc làm,
“Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sáng
suốt để nhận ra sự thật, cho dù sự thật có phũ phàng và thiệt hại đến đâu đi nữa;
vì chỉ có sự thật mới thực sự giải thóat con người.
- Làm ngôn sứ cho
Thiên Chúa là phải đương đầu với quyền lực của thế gian và ma quỉ; chúng ta
không được khiếp sợ những quyền lực này đến độ không dám nói và làm chứng cho sự
thật.
- Chúng ta phải tôn trọng
những người dám nói và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ lạm dụng uy quyền để
bịt miệng, đàn áp, bỏ tù, và thủ tiêu họ. Thiên Chúa là Đấng Chí Công, Ngài sẽ
bảo vệ, giải thóat, và trả thù cho những người công chính.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th. Gio-an B. La-san, linh mục Ga 10,31-42
TIN HAY KHÔNG TIN?
“Nếu tôi làm các việc (của Cha tôi), thì
dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc tôi làm.” (Ga 10,37-38)
Suy
niệm: Cuộc đấu khẩu
giữa Chúa Giê-su và biệt phái, kinh sư mà Tin Mừng thuật lại cho chúng ta mấy
ngày nay đã lên đến cao độ. Chúa Giê-su sắp bị khai tử chung quy cũng chỉ vì
Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa. Không vì thế mà chùn bước, Chúa Giê-su trưng
dẫn những dấu lạ Ngài làm như bằng chứng để thuyết phục họ. Nhưng kết cục thật
bi đát, họ vẫn không tin. Nghịch lý thay! Kẻ thông thái am tường Kinh Thánh thì
không tin, còn kẻ bình dân ít học thì lại tin vì “những lời Gio-an nói về Ngài đều
đúng” (c.
41). Đức tin là một ơn nhưng không, Chúa ban thì con người mới có được. Về phía
con người, Chúa chỉ đòi họ tấm lòng thành, điều mà các kinh sư và biệt phái
không có.
Mời Bạn: Ý thức đức tin mà bạn
đang có hôm nay là do Chúa thương ban, và hết sức gìn
giữ đức tin đến cùng, noi gương thánh Phao-lô: “Tôi đã chạy hết chặng
đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7).
Chia sẻ: Cùng những người trong
gia đình/nhóm của bạn rà soát lại niềm tin của mình. Điểm mặt những cạm bẫy
đang hòng lôi kéo bạn ra khỏi niềm tin, để đề phòng kẻo vấp ngã.
Sống Lời Chúa: Thư gửi tín hữu Do
thái đoạn 11 nói đến những mẫu gương đức tin: “Đức tin là bảo đảm
cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng những điều ta không thấy...” Mời bạn đọc tiếp để
xin Chúa ban cho đức tin của bạn thêm xác tín và vững mạnh.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn
đức tin. Xin cho con thành tâm tin tưởng, quyết bảo vệ đức tin đến cùng, biết
thể hiện đức tin bằng hành động cụ thể, và luôn kiên vững
trong niềm tin vào Chúa. Amen.
(5 phút lời Chúa)
Tôi là Con Thiên Chúa (7.4.2017 – Thứ sáu Tuần 5 Mùa Chay)
Chúng ta cũng là những người được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy, được sai vào thế giới này để chia sẻ sứ mạng còn dang dở của Chúa Giêsu.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay cũng
giống bài hôm qua,
Đức Giêsu lại bị ném đá
vì bị kết tội phạm thượng.
Có lần Ngài đã bị kết tội
là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa
chỉ vì đã nói: “Cha tôi
vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 18).
Bây giờ Ngài bị kết tội
phạm thượng vì dám tự cho mình là Thiên Chúa (c. 33).
Thực ra Đức Giêsu không
bao giờ nhận mình như vậy,
vì Thiên Chúa là Cha của
Ngài, Ngài chỉ nhận mình là Con (c. 36).
Nhận mình là Con Thiên
Chúa không phải là một lời phạm thượng.
Nhưng Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa theo một nghĩa độc nhất vô nhị.
Ngài là Con Một hằng ở
nơi cung lòng Cha (Ga 1, 18),
đầy tràn ân sủng và sự
thật (Ga 1, 14).
Người Con Một ấy đã trở
thành người phàm mang tên Giêsu (c. 33),
trở thành quà tặng cứu độ
của Thiên Chúa cho nhân loại.
Đức Giêsu gắn bó với Chúa
Cha đến nỗi Ngài có thể nói :
“Chúa Cha ở trong tôi và
tôi ở trong Chúa Cha” (c. 38).
Hơn nữa, Ngài còn dám
nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30).
Con và Cha hiệp nhất làm
một với nhau,
Người được sai kết hiệp
làm một với Đấng sai mình.
Con không tự mình làm
điều gì, không làm theo cách của mình,
Con luôn sống như người
được Cha sai.
Đây không phải chỉ là sự
hiệp nhất trong công việc,
mà còn là sự hiệp nhất
sâu thẳm giữa hai ngôi vị thần linh.
Đức Giêsu đã làm nhiều
việc tốt đẹp (c. 32).
Các việc này không phải
là việc của Ngài, mà là việc của Cha Ngài (c. 37).
Suốt đời Đức Giêsu chỉ
tận tụy với việc của Cha.
Trên thập giá, trước khi
lìa đời, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30).
Ngài đã vuông tròn mọi
việc Cha giao.
Những việc tốt đẹp này là
một lời chứng hùng hồn cho con người của Ngài:
“Nếu tôi làm các việc đó,
thì dù các ông không tin tôi,
ít ra cũng hãy tin các
việc đó” (c. 38).
Tin vào việc làm dẫn đến
tin vào con người.
“Tôi là người Chúa Cha đã
thánh hiến và sai đến thế gian” (c. 36).
Thiên Chúa Cha đã thánh
hiến Chúa Con để Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta cũng là những
người được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy,
được sai vào thế giới này
để chia sẻ sứ mạng còn dang dở của Chúa Giêsu.
Chúng ta còn nhiều điều
tốt đẹp phải làm cho cuộc đời này
trước khi có thể nói như
Chúa: “Thế là đã hoàn tất”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt
khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan
hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả
chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt
hơn,
anh hùng vượt trên mọi
nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu
đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho
sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG TƯ
Được In Dấu Ấn Sự Sống
Chúng ta hãy cảm tạ vì
cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì Chúa Cha đã tôn vinh
Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng phục cho đến chết,
chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).
Vâng, công cuộc cứu
chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn của sự chết
đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được đóng vào
trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ Vượt
Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).
Chúng ta hãy cảm tạ vì
hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa Cha. Chúng ta
hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải nơi cuộc Phục
Sinh của Chúa Con.
Chúng ta hãy cảm tạ vì
hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này được đón nhận bởi
các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức Giêsu. Đức Kitô sẽ
đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người sẽ nói với họ:
“Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được
tha… “ (Ga 20,22-23).
Chính từ cuộc Phục
Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta. Cuộc
hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và nơi cuộc Phục
Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người đã hòa giải
chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho chúng ta
chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống vĩnh cửu bất
diệt.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07 – 4
Thánh Gioan Lasan,
linh mục
Gr 20, 10-13; Ga
10, 31-42.
LỜI SUY NIỆM: “Tôi đã cho
các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà
các ông ném đá tôi.”
Mặc dầu Chúa Giêsu đã
làm biết bao điều tốt đẹp cho dân, chữa lành mọi tật nguyền, phục hồi sự sống
phần xác, tái lập nhân phẩm cho người nghèo khó và người bị bỏ rơi, nhưng rồi
Chúa Giêsu đã bị người Do-thái ném đá, bởi vì Người đã tuyên xưng mình: “Là Con
Thiên Chúa” Với lời tuyên xưng này người Do-thái đã kết án: Người nói lời phạm
thượng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã xác định tất cả chúng con đều là con của Cha trên trời. Xin cho mỗi người
chúng con sống xứng đáng với tước hiệu của mình, và chu toàn bổn phận với trách
nhiệm trong mọi hoàn cảnh và mọi nơi chốn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-04
Thánh GIOAN LASAN
Linh Mục (1651 -
1719)
Thánh Gioan Lasan là bổn
mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống
giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn
toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập
nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt
nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không phải khuynh hướng
tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh
gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho
Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là
con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của
cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo
khổ.
Vào tuổi 16, khi đang
theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh
nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện
Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27
tuổi.
Cho đến lúc này, chưa
có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau,
Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc
này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về
nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho
Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị
xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn thánh ý Thiên
Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho
công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa
vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng
hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định
của Ngài.
Năm 1684, Ngài biến đổi
nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh.
Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi
khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng:
sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật
này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những năm đầu, hội dòng
rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững
tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại sao mà không tin
tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.
Mối quan tâm chính của
Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa
mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678
Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử
giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau khi lập trường ở
những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích
(Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng
mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn
trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu
niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.
Mục đích tốt đẹp của
Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ
kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được
mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất
khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác
và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở Rouen, Ngài đã lập
hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền
quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều
rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện
toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations
(nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)
Ngài từ trần ngày thứ
sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.
(daminhvn.net)
07 Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna, một môn đệ của
Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để
tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối
thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân
vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của
họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc
đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu
khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như
vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ
lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức
Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ
nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân
chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột
để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết
như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật
sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần
suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là
những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay
hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng
tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con
có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần
dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải
thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết nghĩ tự tạo cho
mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh
nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này,
chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như
hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Gioan
10:31-42
Thứ Sáu, 7 Tháng 4,
2017
Thứ Sáu Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của chúng con,
Chúa là Thiên Chúa
trung tín,
Mãi mãi chung thủy với
lời hứa của mình.
Xin Chúa hãy củng cố đức
tin của chúng con,
Để cùng với Chúa
Giêsu, chúng con có thể luôn giữ lòng tín thác vào Chúa
Cho dù có những thành
kiến, chế giễu hoặc mâu thuẫn.
Xin Chúa ban cho chúng
con niềm tin vững chắc
Rằng Chúa không bao giờ
thay đổi lời giao ước với chúng con
Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Gioan 10:31-42
Khi ấy, người Do Thái
lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: “Ta đã cho các
ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi
muốn ném đá Ta?”
Người Do Thái trả lời:
“Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn,
bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đáp
lại: “Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: ‘Ta
đã nói: các ngươi là thần’? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được
nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể hủy diệt được, thì tại sao các
ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian rằng:
‘Ông nói lộng ngôn’, vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm
những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những
việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để
các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”.
Bởi đó họ tìm cách bắt
Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ.
Người lại qua bên kia
sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại
đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: “Gioan đã không làm một
phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”. Và
có nhiều kẻ tin Người.
3. Suy Niệm
- Chúng ta đến gần Tuần Thánh, lúc chúng ta tưởng niệm
và nhớ lại về Cuộc Thương Khó, cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Bắt
đầu từ tuần thứ tư Mùa Chay, các văn bản của bài Tin Mừng hằng ngày gần như độc
quyền được trích từ sách Tin Mừng Gioan, hai chương nhấn mạnh đến mối căng thẳng
bi thảm giữa việc mặc khải tăng dần lên; một phía, Chúa Giêsu cho thấy mầu nhiệm
về Chúa Cha hoàn toàn phủ đầy trong Chúa Giêsu, và ở phía kia, việc đóng cửa
lòng tăng dần lên của người Do Thái là những kẻ càng trở nên cứng lòng hơn với
sứ điệp của Chúa Giêsu. Khía cạnh bi thương của việc khép kín này là vì họ
cho rằng đó là lòng trung thành với Thiên Chúa. Họ nhân danh Thiên Chúa
mà chối từ Chúa Giêsu.
- Trong cách này, thánh sử Gioan trình bày cuộc
xung đột giữa Chúa Giêsu và giới thẩm quyền tôn giáo không chỉ là một việc gì
đó đã xảy ra trong quá khứ xa xưa. Nó cũng là tấm gương phản chiếu những
gì đang xảy ra ngày nay. Nhân danh Thiên Chúa, một số người tự biến mình
thành những trái bom và giết người khác. Nhân danh Thiên Chúa, chúng ta,
các thành viên thuộc ba tôn giáo của Thiên Chúa của Abraham, người Do Thái
giáo, Kitô hữu và người Hồi giáo, cùng lên án lẫn nhau, tranh chấp lẫn nhau,
trong suốt dòng lịch sử. Chương trình đại kết thì thật là khó khăn giữa
chúng ta, và đồng thời nó thật là cần thiết. Nhân danh Thiên Chúa, nhiều
điều khủng khiếp đã xảy ra và chúng ta lại tiếp tục tái phạm mỗi ngày.
Mùa Chay là thời gian quan trọng để cho chúng ta dừng lại và tự vấn: Hình
ảnh nào về Thiên Chúa mà tôi có trong lòng?
- Ga 10:31-33: Người Do Thái muốn ném
đá Chúa Giêsu. Người Do Thái chuẩn bị lượm đá để giết Chúa Giêsu
và Chúa lên tiếng hỏi rằng: “Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành
bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?” Họ trả lời
rằng: “Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời
lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Họ
muốn giết Chúa Giêsu vì Người phạm thượng. Luật đã ra lệnh rằng những kẻ
như thế phải bị ném đá.
- Ga 10:34-36: Kinh Thánh gọi tất cả mọi
người là con cái Thiên Chúa. Người Do Thái muốn giết Chúa Giêsu bởi
vì Người nói mình là Thiên Chúa. Chúa Giêsu trả lời đúng theo lề luật của
Thiên Chúa. “Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu
này: ‘Ta đã nói: các ngươi là thần’? Vậy nếu sách luật gọi những
kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể hủy diệt được, thì tại
sao các ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần
gian rằng: ‘Ông nói lộng ngôn’, vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa?”
- Một cách khác thường, Chúa Giêsu nói “sách luật của
các ngươi”. Chúa đã có thể nói rằng: “Lề Luật của chúng ta”.
Tại sao Người lại nói theo cách này? Ở đây, một lần nữa xuất hiện sự chia
rẽ bi thảm giữa người Do Thái và Kitô hữu, anh chị em, con cái của cùng tổ phụ
Abraham, họ đã trở thành kẻ thù không đội trời chung cho đến nỗi mà các Kitô hữu
nói rằng “sách luật của các ngươi”, như thể nói không phải là sách luật của
chúng tôi.
- Ga 10:37-38: Ít ra là tin vào các việc tốt
lành. Chúa Giêsu lại nói về các việc mà Người đã làm và đó là những
việc mặc khải về Chúa Cha. “Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì
các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi
không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng:
Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha.” Đây cũng là những lời mà Chúa Giêsu
nói trong Bữa Tiệc Ly (Ga 14:10-11).
- Ga 10:39-42: Một lần nữa, họ lại muốn giết
Chúa Giêsu, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Không có dấu hiệu của
sự chuyển đổi. Họ tiếp tục nói rằng Chúa Giêsu lộng ngôn và nhất quyết
đòi giết Người. Không có tương lai cho Chúa Giêsu. Cái chết của Người
đã được định đoạt, thế nhưng giờ của Người chưa đến. Chúa Giêsu đi ra và
sang bên kia sông Giođan, nơi mà trước kia ông Gioan Tẩy Giả đã làm phép rửa.
Chúa giúp người ta nhận thức được cách Thiên Chúa cư xử trong lịch sử.
Người ta nhận ra rằng Chúa Giêsu là Đấng mà Gioan đã công bố.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Người Do Thái nhân danh Thiên Chúa mà lên án Chúa
Giêsu, nhân danh hình ảnh mà họ có về Thiên Chúa. Đôi khi, tôi đã có nhân
danh Thiên Chúa mà lên án một ai đó và tôi đã có khám phá ra rằng mình đã nhầm
lẫn chưa?
- Chúa Giêsu tự nhận mình là “Con Thiên Chúa”.
Trong kinh Tin Kính, khi tôi tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tôi
đã tuyên xưng đức tin của mình theo nội dung nào?
5. Lời nguyện kết
Lạy CHÚA là núi đá, là
thành lũy, là Đấng giải thoát con;
Lạy Thiên Chúa con thờ,
là núi đá cho con trú ẩn,
Là khiên mộc, là Đấng
Cứu Độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.
(Tv 18:2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét