11/06/2017
Chúa Nhật tuần 10 thường niên năm A
Chúa Ba Ngôi.
Lễ trọng.
(phần I)
Bài Ðọc I: Xh 34, 4b-6.
8-9
"Thiên Chúa là
Ðấng thống trị, từ bi và nhân hậu".
Trích sách Xuất Hành.
Ngày ấy, từ sáng sớm,
Môsê chỗi dậy và lên núi Sinai, như Chúa đã truyền dạy cho ông, ông mang theo
hai bia đá. Khi Thiên Chúa ngự trên đám mây, Môsê đứng trước mặt Chúa và kêu cầu
danh Chúa.
Chúa đi qua trước mặt
ông và hô: "Ðức Chúa! Ðức Chúa! Thiên Chúa thương xót và từ nhân, bao
dung, đầy nhân nghĩa và tín thành". Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy
và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con có ơn nghĩa trước nhan thánh Chúa, thì
xin Chúa hãy đi cùng với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), xin xoá mọi
gian ác và tội lỗi chúng con, xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53.
54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là
Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và
tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh
và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng
trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự
trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng
nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn
đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự
trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 13,
11-13
"Ân sủng của Ðức
Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, anh
em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất
trí, và hoà thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và tình yêu, sẽ ở
với anh em. Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện. Tất cả các thánh ở
đây gởi lời chào anh em. Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và
tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh
em. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Kh 1, 8
Alleluia, alleluia! -
Sáng danh Ðức Chúa Cha, và Ðức Chúa Con, và Ðức Chúa Thánh Thần; sáng danh
Thiên Chúa Ðấng đang có, đã có và sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 16-18
"Thiên Chúa đã
sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người
để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống
đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy,
thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thiên Chúa Ba
Ngôi Nhân Ái
Sau khi đã cử hành hết
các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa Cứu Thế, từ khi Người sinh ra cho đến khi
Người chịu chết-sống lại-lên trời; và nhất là sau khi đã được đầy Thánh Thần đến
soi sáng, dạy bảo, nâng đỡ và hướng dẫn, hôm nay Giáo hội cử hành mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi trong niềm hân hoan trìu mến. Có thể nói được rằng khi chưa
hiểu rõ Ðức Yêsu Kitô và khi chưa được Thần linh hóa nhờ việc đón nhận Thánh Thần,
người ta chưa "biết" được Thiên Chúa. Thế nên lễ Thiên Chúa Ba Ngôi cử
hành hôm nay đã được chuẩn bị bằng các lễ cử hành trước đây. Và mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất, mà Ðức Yêsu Kitô không những đã phải để
cả cuộc đời trần gian của Người mà còn đã phải chết, sống lại, lên trời và sai
Thánh Thần xuống mới mạc khải hết được cho chúng ta biết về mầu nhiệm sâu xa
nơi Thiên Chúa.
Do đó, muốn am hiểu,
yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta không thể cậy vào sức suy nghĩ của loài người,
nhưng phải tựa vào mạc khải của Ðức Kitô và ơn soi sáng của Thánh Thần. Chúng
ta sẽ thấy thật không có dân nào có Chúa mình ở gần như Thiên Chúa chúng ta rất
gần gũi với Dân Người. Và điều này chúng ta thấy đã được mạc khải ngay từ thời
Cựu Ước.
A. Thời Cựu Ước
Bài sách Xuất hành hôm
nay cho ta thấy từ sáng sớm, Môsê đã chỗi dậy và lên núi Sinai. Chúng ta phải cảm
phục ông. Một mình ông có những tư tưởng thâm thúy về Thiên Chúa. Những đoạn
sách Xuất hành trước cho biết toàn thể con cái Israel đã suy nghĩ vớ vẩn về Ðấng
mà họ muốn tôn thờ. Ngay cả Aharôn, người phát ngôn viên của Môsê, cũng không
cưỡng lại được những ý nghĩ sai lầm của thời đại về Thiên Chúa. Ðang khi một
mình Môsê ở trên núi, toàn thể con cái Israel đã phạm tội, đã "đánh
đĩ", nếu chúng ta muốn dùng danh từ chuyên môn trong khoa học về các tôn
giáo thời xa xưa. Họ quên Ðấng Thiên Chúa Vô hình đã dẫn đưa họ ra khỏi Aicập.
Họ muốn có Chúa của họ một cách cụ thể, mà mắt có thể thấy và tay có thể rờ.
Nói một cách cụ thể, họ đòi Thiên Chúa phải ở trong tầm tay của họ, để theo lời
họ nói "đi trước họ", mở lối đi thẳng tắp khiến đường đời của họ được
trơn tru và không cần phấn đấu. Họ muốn có một mảnh bùa hộ mạng trên đường đời
đầy nguy hiểm. Nên họ xin Aharôn đúc cho một tượng bò. Rồi họ nhảy nhót mừng rỡ
khánh thành tượng bò ấy.
Ở trên núi xuống, Môsê
thấy toàn dân đang quay cuồng. Ông phẫn nộ. Và sẵn hai bia đá trong tay, ông liệng
thẳng vào tượng bò. Toàn dân kinh hoàng. Nhưng rồi họ cũng hiểu cơn giận của
ông. Ông quảng đại. Ông tha thứ. Nhưng còn đâu hai bia đá với lệnh truyền của
Chúa? Phải thưa lại với Người làm sau bây giờ? Run sợ, nhưng tin tưởng và tín
thác, Môsê đã tiến lên gặp Chúa. Ông đã gặp được tình thương nơi Ðấng Công
chính và Thánh thiện. Ngài không bớt đòi hỏi, vì mọi đòi hỏi của Ngài chỉ xây dựng
hạnh phúc của con người mà thôi. Nhưng Ðấng rất đòi hỏi , Ðấng đã tự xưng là
"Chúa hay ghen", cũng là Ðấng đầy tình thương. Ngài hứa với Môsê, hôm
sau ông trở lại lên núi, Ngài sẽ viết cho hai bia đá khác. Chính vì vậy mà hôm
nay ngay từ sáng sớm, Môsê đã chỗi dậy và lên núi, mang theo hai bia đá.
Và sách Xuất hành kể
tiếp: Yavê đã xuống với Môsê, hô Danh Ngài cho ông biết: Yavê là Thiên Chúa chạnh
thương, huệ ái, bao dung và đầy nhân nghĩa, tín thành. Giữ nghĩa cho đến ngàn đời,
chịu đựng lỗi lầm, quá phạm và tội khiên nhưng không coi tội dường thể vô can.
Bằng những lời như thế,
tác giả sách Xuất hành tỏ ra đã hiểu rõ lòng Chúa trong Cựu Ước, nếu không phải
là chính Chúa đã để cho loài người được biết Ngài là Ðấng nào. Ngài thánh thiện,
công minh tuyệt đối, "không coi tội dường thể vô can". Nhưng đối với
loài người tội lỗi, Ngài lại "chạnh thương, huệ ái, bao dung, đầy nhân
nghĩa� chịu đựng lỗi lầm, quá phạm và tội khiên".
Hiểu rõ Thiên Chúa như
vậy, bao thế hệ người công chính sống giữa dân tội lỗi "cứng đầu" vẫn
một mực tin ở Ngài và chắc chắn Ngài chẳng bỏ rơi cơ nghiệp Ngài đã chọn. Ðối với
họ, Thiên Chúa là Ðấng ngàn trùng chí thánh, không coi tội dường như thể vô
can; nhưng đồng thời lại là Ðấng đầy lòng nhân nghĩa, không muốn tội nhân phải
chết, một muốn họ trở lại mà được sống. Thế nên họ chờ mong ơn cứu chuộc. Họ
trông chờ Ðấng Cứu Thế, vì Chúa đã mạc khải cho họ biết Ngài là Ðấng như vậy và
Ngài vẫn tự xưng là Ðấng Thánh của Israel. Ngài thánh thiện nhưng vẫn thương
Israel tội lỗi. Ngài phải thi hành một kế hoạch nào đó giải quyết mối căng thẳng
giữa thánh thiện và tình thương, giữa công chính và nhân nghĩa, giữa Thiên Chúa
và con người. Và giải pháp ấy đã có, khi Ðức Kitô xuất hiện và như lời Người
nói với Nicôđêmô hôm nay.
B. Thời Tân Ước
Luật sĩ này tìm đến
thăm Người vào lúc ban đêm. Ông ở trong đêm tối và đi đường tối tăm để đến gặp
Chúa. Sách Tin Mừng Yoan thích nói đến u tối và ánh sáng, nên chúng ta phải để
ý đến chi tiết này hầu hiểu được ý của tác giả. Nicôđêmô có thể nói, tượng
trưng cho con người Dothái sống bám vào Luật pháp. Ông là luật sĩ. Ông chỉ biết
có luật. Nên sánh với Ðức Yêsu là "ánh sáng đến trong thế gian", ông
còn ở trong đêm tối và còn đi trong bóng tối.
Tuy nhiên ông biết Luật
pháp. Và Luật pháp cùng với Tiên tri đều nói về Con Người. Ta phải giả thiết rằng
ông biết sách Xuất hành, biết tư tưởng của sách ấy về Thiên Chúa, biết Ngài là
Ðấng Thánh của Israel như chúng ta vừa trình bày, tức là biết Thiên Chúa rất
công chính nhưng đầy lòng nhân nghĩa muốn thi thố ơn cứu chuộc loài người tội lỗi.
Thì nay Ðức Yêsu mạc khải cho ông tiếp diễn kế hoạch của Thiên Chúa. Người nói:
"Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để... ai
tin... thì được sống đời đời".
Ðó là mạc khải mới mẻ.
Trước đây, dân Israel chỉ biết "một" Thiên Chúa. Cũng có lần họ thưa
Ngài là Cha, nhưng nghĩ chỉ là Cha của họ, Cha đối với tạo vật đã sinh ra
chúng. Và khi xưng với Ngài là con, họ cũng chỉ hiểu theo tương quan Tạo hóa-tạo
vật. Cùng lắm họ đã nghĩ đến tương quan Giao ước và tưởng Thiên Chúa là Cha
theo nghĩa Ngài đã tuyển chọn Dân, tức là đã sinh ra Dân.
Nhưng hôm nay, Ðức
Yêsu tuyên bố với Nicôđêmô một điều mới hẳn: Thiên Chúa yêu thương loài người
nên sai Con Một Người xuống thế. Như vậy, Thiên Chúa là Cha ngay nơi bản tính của
mình, ngay trong lòng mình vì Người có một người Con. Và như thế, Người là Cha
theo một nghĩa rất đặc biệt. Vì có gì ở nơi Thiên Chúa mà lại không đặc biệt,
nghĩa là khác với mọi quan niệm chúng ta thường dùng! Chẳng vậy mà có lần Ðức
Yêsu nói: các ngươi là những người xấu còn biết cho con cái mình những điều tốt
lành, huống nữa là Cha trên trời. Và câu ấy đã không làm ai bực mình vì mọi người
đều công nhận Thiên Chúa vô cùng tốt lành, tốt lành quá sức chúng ta tưởng tượng;
do đó Người cũng là Cha ngoài quan niệm thông thường của chúng ta, vì Người có
Con Một cùng một bản tính với mình. Và Người Con ấy, nay Người gửi xuống với
loài người vì yêu thương chúng ta.
Chắc chắn hôm ấy
Nicôđêmô đã không hiểu gì; nếu không, ông đã phải quỳ mọp xuống thờ lạy Con Một
Thiên Chúa sinh ra làm người. Ông không tin người đang nói với mình đây là Con
Thiên Chúa, nên ông không được sự sống đời đời. Và ông đã ra về trong đêm tối.
Ông vẫn là Luật sĩ của đạo cũ; tiếp tục suy nghĩ và đi trong đường lối của Luật
pháp, mặc dầu Ðức Yêsu đã mạc khải hết cho ông.
Không những Người nói
cho ông biết Thiên Chúa là Cha, đã ban Con Một Ngài để ai tin ở Con của Ngài
thì được sống đời đời; Người còn nói cho ông hiểu bản chất của Chúa Con cũng y
hệt bản chất của Chúa Cha. Nếu Luật pháp và Tiên tri đã dạy Thiên Chúa là Ðấng
Thánh của Israel, vừa chí công vừa chí ái, và chỉ muốn cứu độ trần gian, thì
Ngài cũng không sai Con của Ngài xuống thế để luận phạt thế gian, nhưng để thế
gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Cựu Ước đã nhiều lần tuyên xưng Thiên
Chúa là Cứu Chúa vì lẽ Ngài luôn luôn cứu dân và chỉ muốn cứu dân, thì nay Con
của Ngài xuống thế cũng chỉ muốn ôm ấp một mục đích ấy, là cứu dân khỏi tội, là
thể hiện tình nhân nghĩa của Thiên Chúa, để nhân loại được thánh như Thiên Chúa
là Ðấng Thánh.
Thế nên khi được biết
Thiên Chúa là Cha theo nghĩa đặc biệt là Ngài có một người Con Một cùng bản
tính với Ngài, nhân loại không thấy mất mát gì, cho dù sẽ phải dè dặt hơn khi
xưng Ngài là Cha. Nhân loại còn được hân hoan vinh dự bội phần, vì được Thiên
Chúa thương yêu dường ấy, ban cả Con Một Ngài làm ân ban cho chúng ta để nhờ
người Con này mà chúng ta được sống đời đời. Việc Con Một Thiên Chúa đến với
chúng ta và ở giữa chúng ta chứng tỏ tình thương lạ lùng của Thiên Chúa đối với
loài người. Không những chúng ta có thể nói: nhìn thấy Con Thiên Chúa là nhìn
thấy tình nhân nghĩa của Thiên Chúa. Hơn nữa chúng ta còn phải tin: Người là một
với Thiên Chúa Cha vì Người đến không phải để luận phạt mà để cứu chuộc. Tuy
nhiên cũng giống nơi Chúa Cha, không phải chỉ có nhân nghĩa mà còn có công
chính, Chúa Con đến để cứu sống những ai tin; còn kẻ không tin vào Danh Người
thì đã tự luận phạt mình.
Hiểu về Chúa Cha và
Chúa Con như vậy; Phụng vụ hôm nay rất đồng ý với Thánh Phaolô và mượn mấy lời
thư của người mà khuyên bảo chúng ta.
C. Hãy Vui Lên
Chúng ta đã quá quen với
những lời khuyên này. Nhưng đây là tâm tình của một Phaolô thông hiểu các mầu
nhiệm thần học và không biết gì khác ngoài Ðức Yêsu Kitô chịu đóng đinh. Phaolô
gặp Người lần đầu tiên trên con đường Ðama. Và ơn đầu tiên Người ban cho Phaolô
là "được thấy và được đầy Thánh Thần" (Cv 9,17). Trước đây, ông chỉ
biết Cựu Ước hay nói đến Thần trí. Và ông tin rằng Thần trí đã xuống trên Môsê
và các tiên tri. Nhưng bản thân ông thì chưa kinh nghiệm. Nay sau khi được Hananya
đặt tay, ông đã thấy và kinh nghiệm thật sự Thần trí đã xuống trên ông, thay đổi
ông hoàn toàn, khiến lập tức ông đã rao giảng trong các hội đường về Ðức Yêsu;
chính Người là Con Thiên Chúa. Từ đó, càng làm việc, ông càng thấy rõ hiệu năng
của việc đặt tay. Thánh Thần đổi mới con người ta khiến họ từ bỏ những công việc
xấu xa của nếp sống cũ và có nhiều thể hiện của nếp sống mới là: mến yêu, vui mừng,
bình an, bao dung, khoan hậu, nhân lành, tín nghĩa, hiền từ, tiết độ, mà Phaolô
gọi là hoa quả của Thánh Thần. Ðặc biệt ông thấy trong các giáo đoàn đều có rất
nhiều đặc sủng: người thì được quyền làm phép lạ, kẻ khác được ơn nói tiên tri,
kẻ khác lại được ơn biện biệt các Thần khí, người thì được nói các thứ ngôn ngữ,
người lại được ơn diễn giải các ngôn ngữ. Hết mọi điều đó, Phaolô thấy, cũng chỉ
một Thần khí độc nhất tác thành ra cả, phân chia cho mỗi người tùy theo ý Ngài.
Phải nhớ như trên mới
hiểu được những lời súc tích của thư Phaolô hôm nay, đặc biệt là câu kết. Tác
giả viết: Nguyện xin ân sủng Ðức Yêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa
Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em. Tác giả không
nói đến Chúa Cha trước, nhưng bắt đầu nài xin ân sủng của Ðức Yêsu Kitô, vì lẽ
chúng ta phải nhờ Ngài mà đến cùng Chúa Cha và được ơn Chúa Thánh Thần. Chính
Phaolô đã được ơn của Ðức Yêsu Kitô trước. Và mọi tín hữu đều phải bắt đầu tin
và chịu phép Rửa nhân Danh Ðức Kitô. Có đi qua sự chết và sự sống lại của Ngài,
người ta mới ra khỏi thế hệ tà vạy, trở thành người được ân sủng đẹp mắt Thiên
Chúa. Lúc ấy được ơn của Ðức Yêsu Kitô cứu chuộc và được sát nhập vào Thân Thể
của Ngài, người ta mới trở nên nghĩa tử, được tình yêu của Chúa Cha, được Thiên
Chúa là Cha theo một ý nghĩa đặc biệt. Mọi căng thẳng trước đây giữa sự công
chính và nhân nghĩa trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người không còn nữa,
vì người ta đã được cứu chuộc nhờ ân sủng của Ðức Yêsu Kitô. Thế nên rất nhiều
khi Phaolô không nói tình yêu của Chúa Cha, nhưng dùng chữ bình an của Chúa
Cha. Họa hiếm người mới dùng cả hai chữ bình an và tình yêu để nói về Chúa Cha
như trong thư này, mục đích để nhấn mạnh đến mối tình giao hòa giữa Thiên Chúa
và loài người do ân sủng của Ðức Yêsu Kitô mang lại. Còn Chúa Thánh Thần là ân
ban dư dật, phân phối mọi hoa quả của ơn Cứu Ðộ, nên Phaolô cầu xin cho mọi người
được ơn thông hiệp của Ngài, tức là được Ngài thông ban cho các sự phong phú tốt
lành. Thế nên Phaolô khuyên bảo mọi người hãy vui lên vì Thiên Chúa là Thiên
Chúa Ba Ngôi và cả Ba Ngôi đều nhân nghĩa. Chúa Cha thương yêu loài người đến nỗi
đã ban Con Một Ngài; Chúa Con đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội
nhân; và Chúa Thánh Thần đã đến để tác thành mọi sự trong mọi người. Nhìn Ba
Ngôi thương yêu chúng ta dường ấy, làm sao chúng ta không cố gắng nên trọn lành
và hòa thuận với nhau? Bởi lẽ chúng ta hết thảy đã được gọi trở thành các chi
thể trong một Thân Thể Ðức Kitô, để ở trong Ngài chúng ta được có Thánh Thần và
được kêu Abba, Lạy Cha!
Thánh lễ này thực hiện
những điều ấy để chúng ta thấy Thiên Chúa Ba Ngôi nhân ái, hầu khi dự lễ rồi, mọi
người sẽ chia sẻ lòng nhân ái để tương thân tương ái trong đời sống.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Ba Ngôi, Năm A
Bài đọc: Exo
34:4b-6, 8-9; 2 Cor 13:11-13; Jn 3:16-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự biểu lộ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa
Mầu nhiệm Ba Ngôi là một
trong những mầu nhiệm khó cắt nghĩa nhất. Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con
người sẽ không bao giờ hiểu được mầu nhiệm này. Tuy nhiên, con người có hiểu
hay không, mầu nhiệm này vẫn hiện hữu. Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là phát
minh từ sự tranh luận của các nhà thần học hay thần bí, nhưng là một thực tại
vì đã được mặc khải bởi chính Đức Kitô, Người Con Một của Thiên Chúa, và đã tiềm
ẩn nhiều nơi trong Cựu Ước (Gen 1:1-2:3; 18:1-15; Psa 110; Bài đọc I). Vì thế,
thay vì chú trọng vào thần luận về Ba Ngôi Thiên Chúa, các bài đọc hôm nay chú
trọng đến việc biểu lộ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người.
Trong bài đọc I, thay
vì trừng phạt và để mặc dân chết trong sa mạc - vì trong khi ông Moses lên núi
Sinai đàm đạo với Thiên Chúa để Ngài ban hành Thập Giới cho con người biết cách
sống hạnh phúc, thì ở dưới chân núi, con người gom vàng đưa cho ông Aaron đúc
con bò vàng để thờ - Thiên Chúa chọn con đường yêu thương và tha thứ. Ngài nhận
lời ông Moses để cùng đồng hành với dân chúng, không chỉ tới khi vào Đất Hứa,
mà còn ban Đấng Immanuel để ở với dân suốt đời. Trong bài đọc II, thánh Phaolô
dùng mẫu gương của Ba Ngôi để chúc lành và để khuyến khích các tín hữu sau khi
đã cảm nghiệm được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, họ biết bắt chước mẫu gương
của Ba Ngôi để sống yêu thương, tha thứ, và hiệp nhất trong cuộc đời. Trong
Phúc Âm, thánh Gioan diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cách chính xác và ngắn gọn:
Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để những ai tin vào Con
Ngài được hưởng cuộc sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Đức
Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và
thành tín.”
1.1/ Dân Do-thái phản bội
nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành thương yêu: Đang
khi Thiên Chúa gọi Moses lên núi Sinai để ban cho dân chúng Thập Giới, thì ở dưới
chân núi, dân Do-thái gom vàng đưa cho ông Aaron đúc cho họ một tượng bò vàng để
họ thờ lạy nó (Exo 32:1-6). Thiên Chúa nhìn thấy tất cả nên truyền cho Moses xuống
núi, vì lòng dân đã ra hư hỏng rồi. Khi Moses chứng kiến cảnh dân chúng sấp
mình thờ lạy bò vàng, ông nổi giận và dùng hai bia đá có in Thập Giới của Đức
Chúa đập nát con bò vàng, tán nhuyễn, cho vào nước và bắt dân chúng uống (Exo
32:19-20).
Lẽ ra Thiên Chúa phải
phạt dân chết vì tội lỗi của họ; nhưng vì tình thương Ngài không nỡ để dân phải
chết trong sa mạc, Ngài truyền cho Moses làm lại hai bia đá và lên núi gặp
Ngài. Đó là lý do có trình thuật hôm nay. Hai bia đá lần đầu do chính Thiên
Chúa viết và ban cho Moses; hai bia đá lần sau do tay Moses làm lại. Nội dung
không thay đổi, vì ông Moses đã được Đức Chúa cắt nghĩa cho biết. “Sáng sớm ông
thức dậy và lên núi Sinai theo lệnh của Đức Chúa, tay mang hai bia đá. Đức Chúa
ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Đức Chúa.”
Chính Đức Chúa mặc khải
cho ông Moses biết 5 đặc tính quan trọng của Người:
(1) Nhân hậu (rakhum)
và từ bi (khanun): Vì Thiên Chúa nhân hậu, nên Ngài không xử với con người
như con người đáng tội; nhưng Ngài thông cảm cho những yếu đuối của con người
và xét xử họ theo lượng từ bi của Ngài.
(2) Chậm giận (êrek
apayim): Thiên Chúa không phạt con người tức khắc khi con người lầm lỗi;
nhưng Ngài luôn khuyên bảo và cảnh cáo trước khi sửa phạt con người. Trình thuật
“thờ bò vàng” là một ví dụ biểu lộ đặc tính này của Thiên Chúa.
(3) Giàu nhân nghĩa (hesed)
và thành tín (emet): Hesed và emet thường
hay đi đôi với nhau khi chỉ về Thiên Chúa (2 Sam 2:6; 15:20; Psa 25:10; 61:8;
89:14), và có thể được dịch là “ân tình và tín nghĩa.” Thiên Chúa luôn đối xử tốt
lành và tử tế với con người. Ngài luôn trung thành với những gì Ngài đã hứa với
con người cho dù con người phản bội. Vì thế, Thiên Chúa phải “luôn nghĩ cách”
làm sao để cứu chuộc con người khi họ phản bội Ngài. Điều này được chứng minh
qua các giao ước Ngài thiết lập với con người.
1.2/ Ông Moses vội vàng
phục xuống đất thờ lạy và thưa: "Lạy
Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng
con.” Thiên Chúa nhận lời ông Moses và tiếp tục cùng đi với dân chúng cho đến
khi vào Đất Hứa. Lời cầu xin của ông Moses “xin Chúa cùng đi với chúng con”
mang một ý nghĩa đặc biệt: Thiên Chúa không chỉ đồng hành với dân cho tới khi
vào Đất Hứa, nhưng Ngài còn hứa ban cho dân một Đấng Immanuel, tiếng Do-thái có
nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Isa 7:14).
Đức Kitô chính là Đấng
Immanuel này. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy thân xác con người để ở với con người.
Thiên Chúa tiếp tục tha thứ những tội lỗi của dân qua Đấng Immanuel, vì Ngài đã
hiến mình chuộc tội cho con người. Nhờ Đấng Immanuel, Thiên Chúa nhận con người
đã được chuộc tội làm cơ nghiệp riêng của Ngài.
2/ Bài đọc II: Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình
yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
2.1/ Mầu nhiệm Ba Ngôi
theo thánh Phaolô: Giáo Hội lấy công thức
chúc lành đầu thánh lễ từ trong Thư Corintô II 13:13 của trình thuật hôm nay.
Đây là lần duy nhất trong toàn thể Thư Phaolô, chính thức cũng như tranh luận,
nói về sự liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa; mặc dù Phaolô đã nhiều lần phân tích
vai trò của Chúa Cha, của Chúa Con, và của Chúa Thánh Thần trong nhiều nơi
khác. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của lời chúc lành:
(1) Ân sủng của Đức Kitô:
Những ân sủng này đến từ công nghiệp của Đức Kitô qua cuộc Thương Khó, cái chết,
và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Những ân sủng của Đức Kitô được ban tặng
qua các bí-tích mà Ngài đã thiết lập.
(2) Tình yêu của Chúa
Cha: Phaolô có thể kể ra nhiều đặc tính của Chúa Cha, nhưng không có một đặc
tính nào thích hợp cho bằng tình yêu. Thánh Gioan cũng xác định điều này khi định
nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (I Jn 4:8). Vì tình yêu, Thiên Chúa đã làm mọi sự
cho con người.
(3) Ơn thông hiệp của
Chúa Thánh Thần: Thánh Thần là nguyên ủy sự hiệp nhất giữa Cha và Con. Thánh Thần
cũng là nguyên ủy sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và với nhau. Nhiều
học giả cho câu 13 này được thêm vào sau này, nhưng thực sự có trong bản
Vaticanus (4th AD). Cho dù thêm vào sau đi nữa, nhưng chắc chắn phải là một
trong những nguồn mà công đồng Nicea (325 AD) dùng để tuyên bố tín điều Chúa Ba
Ngôi.
2.2/ Các tín hữu phải bắt
chước Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong Thư Corintô
II, cộng đoàn tín hữu tại Corintô phải đương đầu với rất nhiều vấn nạn với
Phaolô cũng như với nhau. Sau khi đã giải quyết các vấn nạn, Phaolô khuyên các
tín hữu 3 điều:
(1) Hãy vui mừng và cố
gắng trở nên hoàn thiện: Nếu biết nhìn một cách tích cực, các vấn nạn xảy ra là
để giúp các tín hữu biết cách giải quyết và càng ngày càng trở nên hoàn hảo
hơn; vì thế, họ hãy vui mừng vì có cơ hội để luyện tập.
(2) Hãy đồng tâm nhất
trí và ăn ở thuận hoà: Vấn đề hiệp nhất trong cộng đoàn Corintô là điều quan
tâm chính yếu của thánh Phaolô. Để gìn giữ sự hiệp nhất, họ phải có lòng yêu
thương nhau để cùng nhau giải quyết các vấn nạn trong cộng đoàn. Nếu họ cố gắng
giải quyết như thế, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng họ.
(3) Hãy hôn chào nhau
cách thánh thiện: Khi phải đương đầu với các vấn nạn trong cộng đoàn, người tín
hữu thường có khuynh hướng khinh thường và khai trừ nhau. Thánh Phaolô khuyên
các tín hữu “hãy hôn chào nhau cách thánh thiện,” để cùng nhau giải quyết các vấn
đề.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
3.1/ Tình yêu Thiên Chúa
dành cho con người biểu lộ qua sự kiện Ngài trao Người Con Một trong tay con
người (Jn 3:16). Thiên Chúa chưa ai xem thấy
bao giờ; nhưng mỗi khi nhìn lên Thập Giá, con người hiểu được tình yêu của
Thiên Chúa dành cho họ. Đây là một câu nói thời danh của Tin Mừng Gioan mà
chúng ta phải ghi khắc trong tâm khảm. Trên các sân thể thao của người Mỹ hay
trưng câu này. Cầu thủ football lừng danh của đại học Florida, Tim Tebow, vẽ
câu này trên mắt khi thi đấu.
Mục đích của việc
Thiên Chúa cho Người Con là: “để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời.” Thánh Phaolô giải thích thêm về tình yêu Thiên Chúa
khi Ngài nói: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng
rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rom 8:32).
3.2/ Con người tự kết án
chính mình: Thiên Chúa chỉ quan tâm đến việc
cứu độ. Khi cho Người Con Một, Ngài không quan tâm đến việc lên án con người.
Con người kết án chính mình, vì: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên
án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa.”
Khi đối diện với Đức
Kitô, con người bắt buộc phải lựa chọn: tin hay không tin nơi Ngài? Tình yêu của
Thiên Chúa không còn trừu tượng nữa, để con người có lý do biện hộ họ không
nhìn thấy Thiên Chúa, làm sao họ cảm nghiệm được tình yêu của Ngài? Nhưng tình
yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ cách cụ thể qua Người Con Một, sẵn sàng hiến
thân chịu chết cho con người. Nếu con người từ chối tin vào Đức Kitô, họ cũng từ
chối tình yêu Thiên Chúa dành cho họ; và như thế, họ từ chối được sống hạnh
phúc đời đời với Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có một địa
vị cao cả trước Ba Ngôi Thiên Chúa, đến nỗi cả ba đều đã vì yêu thương mà hy
sinh tất cả cho chúng ta.
- Sau khi đã cảm nghiệm
được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cũng biết bắt chước các Ngài để
hy sinh cho tha nhân, để họ cũng được lãnh nhận ơn cứu độ.
- Một trong những biểu
lộ cụ thể nhất của sự liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là sự liên hệ giữa cha, mẹ,
và con cái trong gia đình. Chúng ta hãy học gương Ba Ngôi Thiên Chúa để luôn biết
vâng lời, yêu thương, và hy sinh cho nhau, để gia đình chúng ta luôn được hiệp
nhất và hạnh phúc đời này; đồng thời xứng đáng được sống đời đời với Ba Ngôi
trên Thiên Đàng.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
CHÚA BA NGÔI
Ga 3,16-18
TÔI TIN
THIÊN CHÚA BA NGÔI
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để
ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
Suy
niệm: Khi tạo dựng
loài người, Thiên Chúa đã phú ban cho con người một khả năng để hướng về Thiên
Chúa và nhận biết Ngài. Hơn nữa, qua tiến trình mặc khải, Thiên Chúa cho con
người nhận biết được các phẩm tính của Thiên Chúa cũng như chương trình và ý
định của Ngài; mà đỉnh cao của công trình mặc khải là chính Đức Giê-su Ki-tô,
Con Một Thiên Chúa. Ngài đã đến để mặc khải cho chúng ta biết được trọn vẹn về
Ngài: Chúa là Thiên Chúa duy nhất và Ngài có Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. Chúng ta tin nhận và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất là do bởi
Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta: Ngài là Cha yêu thương và hằng muốn cứu vớt
tất cả mọi người. Xác tín được điều này, chúng ta an tâm vững bước trên hành
trình đức tin với lòng thờ phượng tôn kính và quyết tâm sống cho phải đạo làm
con với Thiên Chúa là cha của mình.
Mời Bạn: Người con thảo hiếu,
ngoan hiền là người con biết vâng nghe và thực hiện lời răn dạy của cha mẹ. Nhờ
bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được nhận là con cái của Thiên Chúa, chúng ta sống
tốt bổn phận thảo hiếu đối với Ngài: tin kính, mến yêu, thờ phượng, vâng nghe
và thực hành Lời Chúa.
Chia sẻ: Bạn có cảm thấy an tâm
vững dạ vì mình được gọi là Con của Thiên Chúa không? Bạn đã làm gì để sống là
người con thảo với Chúa?
Sống Lời Chúa: Muốn biết ý muốn của
Chúa để thi hành, bạn dành ít phút mỗi ngày để đọc và suy niệm Lời Chúa.
Cầu
nguyện: Làm dấu thánh giá và
đọc kinh Lạy Cha.
(5 phút lời Chúa)
Thiên Chúa yêu
thế gian (11.6.2017 – Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi
năm A)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn,
đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực,
làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh,
không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn,
khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực,
làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh,
không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn,
khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian
đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…”
Không phải chỉ là trao một quà tặng,
hay một cái gì ở ngoài mình,
nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Ðiều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha
là người Con Một của Ngài, Ðức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Ðấng bị treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết
để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian
đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…”
Không phải chỉ là trao một quà tặng,
hay một cái gì ở ngoài mình,
nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Ðiều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha
là người Con Một của Ngài, Ðức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Ðấng bị treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết
để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ,
tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu:
“…để bất cứ ai tin vào Người Con ấy
thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Ðược sống là được đưa vào thế giới thần linh,
được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân.
Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt
thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác,
nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối,
mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu:
“…để bất cứ ai tin vào Người Con ấy
thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Ðược sống là được đưa vào thế giới thần linh,
được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân.
Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt
thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác,
nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối,
mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi:
Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha.
Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ:
Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo
khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài;
Ngài là Tình Yêu cứu độ
khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Ðức Giêsu;
Ngài là Tình Yêu thánh hóa
khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi:
Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha.
Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ:
Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo
khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài;
Ngài là Tình Yêu cứu độ
khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Ðức Giêsu;
Ngài là Tình Yêu thánh hóa
khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa
nếu chúng ta xa lạ với tình yêu.
“Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).
Ai không ở lại trong tình yêu
thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu,
để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu
bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
nếu chúng ta xa lạ với tình yêu.
“Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8).
Ai không ở lại trong tình yêu
thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu,
để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu
bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con.
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con.
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG SÁU
Biết Phân Định Tốt
Xấu
Con người được tạo dựng
“theo hình ảnh của Thiên Chúa”; mầu nhiệm này còn được trình bày trong
các sách khác của Thánh Kinh. Chẳng hạn, ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức
Chúa lấy đất mà tạo ra con người… rồi lại đưa con người trở về đất. Người cho
nó quyền thống trị vạn vật trên mặt đất. Người mặc cho nó sức mạnh tương xứng với
mình, và theo hình ảnh mình mà làm ra nó. Người phú bẩm cho mọi xác phàm lòng
kính sợ Người, để chúng thống trị muôn chim cầm thú. Người ban cho chúng trí
khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng đầy kiến
thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Người đặt con mắt mình
vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người … Người còn
ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống; Người đã lập với
chúng một giao ước muôn đời, và tỏ cho thấy những điều Người phán quyết” (Hc
17,1. 2b – 7. 9 – 10).
Cần phải suy niệm thật
kỹ bản văn phong phú và sâu sắc trên của Sách Huấn Ca. Hãy ôm ấp những lời ấy
trong lòng mình và hãy xích lại gần hơn với Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
11 Tháng Sáu
Kẻ Tháo Ðinh
Một trong những chi
tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các họa sĩ:
đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại
việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu tên là Giuse
Arimahtia đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi Thập giá.
Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình ảnh tiều
tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ đỡ xuống khỏi thập
giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi
chân Ngài.
Một họa sĩ nọ, thay
vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu đã chọn những khuôn mặt
của thời đại ông. Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu không ai
khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý do tai sao ông lại đồng hóa mình với một
trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã giải thích như sau: "Những người như
tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những đinh sắt tôi dùng để
đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo
gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác của Ngài".
Chúng ta tuyên xưng
trong Kinh Tin Kính: "Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng
tôi". Ðiều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần vào
việc đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thập giá vẫn luôn mãi
là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng đó không chỉ là một biểu tượng,
mà là một hiện thực. Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là Một, nếu Ðức
Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và nếu tội lỗi là một chối bỏ,
thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính Ngài, chúng ta đóng
đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử
con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất là những kẻ khốn cùng, những
kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước từ hay xúc phạm đến
người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá.
Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu
đóng đinh.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét