13/02/2018
Thứ Ba tuần 6 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm
II) Gc 1, 12-18
"Chính Thiên
Chúa không hề cám dỗ".
Trích thư của Thánh
Giacôbê Tông đồ.
Phúc cho kẻ chịu thử
thách, vì khi đã được tinh luyện, sẽ lãnh nhận triều thiên sự sống mà Thiên
Chúa đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Người. Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị
Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng
không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ.
Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi,
thì sinh ra chết.
Anh em thân mến, anh
em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha
sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự
thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên
như của đầu mùa trong các tạo vật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a.
14-15. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo (c.
12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho
họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.
2) Vì Chúa sẽ không loại
trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường
công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.
3) Ðang lúc con nghĩ rằng
chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng
thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! -
Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều
lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 14-21
"Các con hãy ý
tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các môn đệ
quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo
các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và
men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình
không có bánh". Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại
nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối
dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc
bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh
dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". -
"Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được
bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng". Bấy giờ
Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tín thác vào
tình yêu của Chúa
Sau phép lạ hóa bánh
ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa;
Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về
những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Khi cảnh giác các môn
đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự
mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ
"men" để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế
nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy
những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các
môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ
và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà
Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu
treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của
Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng
trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Chúa Giêsu mời gọi các
môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của
Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác
cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến
với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên
xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn
chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của
Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho
chúng ta thốt lên như các vị thánh: "Tất cả đều là hồng ân của Chúa"
bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta
một niềm tin như thế, để trong mọi sự, chúng ta luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần VI TN
Bài đọc:
Jam 1:12-18; Mk 8:14-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần sống đức tin trong cuộc đời.
Đức tin không phải chỉ
là những hiểu biết về Thiên Chúa, nhưng còn là áp dụng những hiểu biết này
trong cuộc đời. Nếu chúng ta không sống những gì chúng ta tin, đức tin chỉ là
điều trong trí óc và chẳng giúp được gì cho chúng ta (Jam 2:14). Ví dụ, nếu
chúng ta tin lời Thiên Chúa nói về sự quan phòng của Ngài, chúng ta không được
phép lo lắng thái quá về việc ăn gì, uống gì, và mặc gì? Hay nếu chúng ta tin
điều quan trọng nhất trong cuộc đời là lo sao cho mọi người được cứu độ, chúng
ta sẽ dành nhiều thời giờ cho việc tìm hiểu và rao giảng Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn
chứng những mẫu gương sống và không sống đức tin. Trong Bài Đọc I, năm chẵn,
tác-giả Thư Giacôbê xác định cám dỗ không đến trực tiếp từ Thiên Chúa; nhưng cần
thiết để thử luyện đức tin của con người. Trong Phúc Âm, Chúa nhắc nhở các
tông-đồ “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisees và men Herode!” Vì
tuy các ông đã chứng kiến 2 phép lạ cả thể Chúa Giêsu đã làm để nuôi một lần
5,000, một lần 4,000 người ăn no nê; các ông vẫn bàn tán về việc không mang đủ
bánh theo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng thử thách.
2.1/ Thiên Chúa để cám dỗ
xảy đến cho con người.
(1) Nguồn gốc của cám
dỗ: Con người thường có khuynh hướng đổ lỗi cho người khá hay hoàn cảnh đưa đến
sự sa ngã của mình. Trong trình thuật về sự sa ngã đầu tiên của con người: ông
Adong đổ tội cho bà Evà, người Thiên Chúa đã dựng nên và cho ông làm bạn. Bà
Evà đổ lỗi cho con rắn đã lừa đảo và cám dỗ Bà. Câu hỏi được con người đặt ra:
"Ai là nguyên nhân chính của cám dỗ?" Có ít nhất 4 ý kiến khác nhau:
+ Thiên Chúa: Ngài dựng
nên mọi sự trong trời đất: thiên thần, quỉ thần, và con người với mọi dục vọng
trong cơ thể. Tác giả thư Giacôbê phản đối ý kiến này: "Khi bị cám dỗ, đừng
ai nói: "Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ," vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ
làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai." Hơn nữa, trình thuật tạo
dựng cũng xác tín: "mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành."
+ Quỉ thần: Rắn cám dỗ
bà Evà trong vườn Địa Đàng, và vẫn đang cám dỗ con người như lời Chúa Giêsu cảnh
cáo các môn đệ: "Thầy thấy Satan từ trời sa xuống, và sàng các con như
sàng gạo."
+ Thế gian: Những người
sống chung quanh mình, và môi trường gia đình cũng như xã hội ảnh hưởng rất nhiều
đến tội lỗi của cá nhân. Ví dụ: nghèo đói sinh ra mọi tệ nạn xã hội như ăn cắp,
ăn trộm, ăn cướp, và đĩ điếm. Tuy nhiên, con người vẫn có thể sống: "gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn."
+ Xác thịt: Không biết
kiềm chế những dục vọng trong con người mình. Thánh Giacôbê qui chế cám dỗ cho
con người: "Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn
và dùng mồi mà bắt."
(2) Trách nhiệm của
con người: Thực ra, Thiên Chúa chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp vì Ngài dựng nên
và điều khiển mọi sự; nhưng con người là nguyên nhân trực tiếp cho các hành động
tội lỗi của mình. Thiên Chúa không dựng nên các điều xấu vì tội lỗi không bén mảng
được vào Thiên Chúa. Ngài để những sự xấu xảy ra và ban cho con người có khôn
ngoan để nhận ra các nguy hiểm và tự do để chọn lựa điều tốt giữa bao điều xấu
xa. Cám dỗ cần thiết vì nó cung cấp thử thách cho con người để họ chứng minh niềm
tin yêu của con người nơi Thiên Chúa. Tác giả Thư Giacôbê nhìn ra lợi ích của
cám dỗ: "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi
đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những
ai yêu mến Người." Nhưng nếu con người không biết dùng khôn ngoan để nhận
ra những nguy hiểm của cám dỗ và sa ngã, họ là người phải chịu trách nhiệm cho
mọi hình phạt sẽ xảy đến, hình phạt nguy hiểm nhất là cái chết, như tác giả nhận
xét: "một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi,
thì sinh ra cái chết."
2.2/ Thiên Chúa là Đấng
ban phát muôn ơn lành: Tác giả tin mọi sự
Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành, như trình thuật tạo dựng trong Sách Khởi
Nguyên, khi viết: "Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều
tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay
đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng." Tác giả nhấn mạnh đến
tính bất biến của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ thay đổi: mặt trời, mặt trăng,
và các tinh thể có thể lúc sáng lúc tối; nhưng nơi Thiên Chúa hoàn toàn là sự
sáng.
Trách nhiệm của con
người là biết tận dụng tất cả những gì Chúa dựng nên cho mục đích tốt lành mà
Thiên Chúa mong muốn. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không để con người
lầm lũi bước đi trong tăm tối và bị rơi vào bẫy của ba thù (quỉ thần, thế gian,
và dục vọng xác thịt); nhưng ban cho con người một nguồn sáng không bao giờ tối
là Kinh Thánh. Con người phải biết chạy đến với nguồn sáng này để nhận ra các
cám dỗ và cách thức để vượt qua, như tác giả khuyên: "Người đã tự ý dùng Lời
chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo
của Người."
3/ Phúc Âm: Lo lắng chuyện ăn uống.
3.1/ Lo lắng chuyện thế
gian: Các môn đệ lo lắng vì quên đem bánh
theo; các ông chỉ có một chiếc bánh trên thuyền. Chúa Giêsu răn bảo các ông:
"Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisees và men Herode!"
Men là miếng bột cũ còn giữ lại từ khối bột làm bánh cũ; mục đích là để cho bột
nổi lên trước khi nướng bánh. Chỉ cần một chút men cũng đủ làm dạy cả một khối
bột lớn. Người Do-thái đôi khi đồng hoá công việc của ma quỉ với men.
(1) Men Pharisees: Niềm
tin đặt trên việc nhìn thấy phép lạ để đem lại uy quyền và lợi lộc vật chất.
Chúng ta đã nói về vấn đề này hôm qua, khi họ đến tranh luận và thách thức Chúa
Giêsu làm phép lạ, trước khi họ có thể tin vào Ngài.
(2) Men Herode: Nhà
Vua chú trọng đến uy quyền, danh vọng, và hưởng thụ các của cải vật chất. Vì thế,
ông đã từ chối sự thật và chém đầu Gioan Tẩy Giả.
Khi khuyên các môn đệ
phải đề phòng “men Pharisees và men Herode,” Chúa Giêsu muốn nói với các ông đừng
quan tâm đến những chuyện thế gian như họ. Hơn nữa, Chúa đang chuẩn bị cho các
ông chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ để cứu chuộc con người.
3.2/ Các Tông-đồ đã không
sống niềm tin: Mặc dù đã được Chúa Giêsu cảnh
cáo, các ông vẫn không hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói, vì “các ông vẫn bàn
tán với nhau về chuyện các ông không có bánh.” Chúa Giêsu cũng phải bực mình
nên Người nói với các ông: "Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không
có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! Anh em có mắt
mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Chúa Giêsu soi sáng bằng cách đặt câu hỏi
cho các ông phải suy nghĩ và trả lời:
- Khi Thầy bẻ năm chiếc
bánh cho 5,000 người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu
bánh?" Các ông đáp: "Thưa được mười hai."
- Và khi Thầy bẻ bảy
chiếc bánh cho 4,000 người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu
bánh?" Các ông nói: "Thưa được bảy." Người bảo các ông:
"Anh em chưa hiểu ư?"
Mục đích của phép lạ
là để khai mở niềm tin. Các Tông-đồ không những được khai mở một lần, mà đến
hai lần; các ông vẫn không tin Chúa Giêsu có thể làm phép lạ cho các ông có
bánh ăn! Nếu các ông được chứng kiến tận mắt hai lần phép lạ liên quan đến bánh
hoá nhiều như thế, mà vẫn cứ nói về chuyện không mang bánh, phép lạ Chúa Giêsu
làm có ảnh hưởng gì đến niềm tin của các ông?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin phải đi đôi
với hành động; đức tin không việc làm là đức tin chết (Jam 2:17). Nếu chúng ta
thực sự tin Lời Chúa, chúng ta phải áp dụng những Lời của Ngài trong cuộc sống.
- Lời cảnh cáo của
Chúa Giêsu "Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisees và men
Herode!" vẫn còn hiệu lực cho chúng ta ngày nay; vì rất nhiều lần chúng ta
đã để cho những lo lắng thế gian làm chủ cuộc đời.
- Nếu chúng ta sống
ngược lại với những gì chúng ta tin, chúng ta sẽ phải trả giá trước mặt Thiên
Chúa. Hình ảnh Lụt Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta thân phận yếu đuối và tội lỗi của
con người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
13/02/2018
THỨ BA TUẦN 6 TN
Mc 8,14-21
Mc 8,14-21
CÁI QUÊN ĐÁNG SỢ
“Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có
bánh?” (Mc 8,17)
Suy niệm: Con người rất cần ăn để sống.
Thiếu cái ăn, người ta sợ phải đói, sợ chết. Trong một chuyến đi biển, các môn
đệ Đức Giê-su quên đem theo bánh. Khi nhận ra điều đó, các ông bàn tán xôn xao
vì lo cạn lương thực trong những ngày lênh đênh trên biển này. Chúa Giê-su
trách các ông sao lại chóng quên rằng Thầy của họ đang ở bên cạnh họ đây chính
là Đấng đã từng hai lần làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Vậy thì tại sao lại sợ?
Ngài nâng tầm nhìn của họ lên hướng về Bánh Hằng Sống mà Ngài hứa ban, để biết
đề phòng điều đáng sợ nhất là thứ men gây hư thối là men Pha-ri-sêu, men
Hê-rô-đê, nghĩa là những ý xấu, những thái độ nệ luật, lòng háo danh, giả hình
của người Pha-si-sêu cũng như lối sống buông thả theo lạc thú của những người
như Hê-rô-đê; đó chính là thứ men làm hư hỏng Bánh Hằng Sống của Tin Mừng.
Mời Bạn: Trong cuộc sống, thường
chúng ta loay hoay chuyện cơm áo gạo tiền. Không ít lần chúng ta sợ lấy gì mà
ăn, lấy gì mà mặc. Đức Giê-su nhắc nhở biết sợ điều đáng sợ nhất, đó là quên mất
Chúa dù Ngài vẫn ở bên chúng ta, và rồi vì mải lo toan những nhu cầu vật chất,
chúng ta mất cảnh giác, chúng ta mải mê chạy theo những của cải chóng qua đời
này mà trở thành thù nghịch với Chúa lúc nào không hay.
Sống Lời Chúa: Luôn ý thức mình sống trước
sự hiện diện của Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Chúa Giê-su Thánh
Thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con sống trên biển đời với lắm lo
toan. Xin ban thêm cho chúng con lòng tin tưởng phó thác, để chúng con vững
tin vì có Chúa đồng hành.
(5 phút Lời Chúa)
Không nhớ sao? (13.2.2018 – Thứ ba Tuần 6 Thường niên)
Chúng ta cần ôn lại những điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ, để sống mỗi ngày trong bình an.
Suy niệm:
Tin Mừng Máccô kể ba câu
chuyện về việc Thầy trò vượt Biển hồ.
Lần đầu, Thầy Giêsu đã ra
lệnh cho sóng gió yên lặng
khiến các môn đệ tự hỏi:
Người này là ai…? (Mc 4, 35-41).
Lần thứ hai, sau khi hóa
bánh ra nhiều, Thầy đã đi trên mặt nước mà đến với họ.
Nhưng lòng các môn đệ còn
chai đá,
họ không hiểu được chuyện
bánh hóa nhiều (Mc 6, 45-52).
Bài Tin Mừng hôm nay là
lần cuối Thầy trò vượt biển qua bờ bên kia,
sau khi Thầy Giêsu đã hóa
bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8, 1-10).
Có một sự cố xảy ra khiến
các môn đệ lo âu.
Các ông quên mang bánh
khi vượt biển.
Trên thuyền chỉ có một
cái bánh duy nhất (c. 14).
Không rõ tại sao trong
bối cảnh này Thầy Giêsu lại cảnh báo các ông
về thứ men xấu làm hư
hỏng con người (x. 1 Cr 5, 6-8),
đó là thứ “men của người
Pharisêu và men của người theo Hêrôđê (c. 15).
Có lẽ vì cuộc đụng độ vừa
qua với người Pharisêu (Mc 8, 11-13).
Nhưng lời cảnh báo của
Thầy Giêsu có thể đã bị các môn đệ hiểu sai.
Các ông tưởng Thầy trách
về chuyện họ không mang đủ bánh.
Từ đó xảy ra một cuộc
tranh cãi giữa họ với nhau về chuyện này.
Thầy Giêsu chắc là giận
lắm.
Chưa khi nào chúng ta
thấy Ngài đặt nhiều câu hỏi liên tiếp như vậy.
Tùy lối chấm câu, có thể
có từ sáu đến chín câu hỏi.
Qua các câu hỏi, Ngài bày
tỏ sự thất vọng về các môn đệ.
Họ chậm hiểu, chậm nắm
bắt; tim của họ bị chai (c. 17).
Họ có mắt mà không thấy,
có tai mà không nghe (c. 18).
Trí nhớ và lòng tin của
họ khá kém,
vì dù đã chứng kiến hai
lần phép lạ bánh hóa nhiều,
một lần, năm chiếc bánh
cho năm ngàn người,
lần khác, bảy chiếc bánh
cho bốn ngàn người,
họ vẫn lo âu khi thấy
trong thuyền chỉ có một chiếc bánh dự trữ.
“Vậy mà anh em vẫn còn
chưa hiểu sao?” (c. 21).
Chúng ta cũng nghe Chúa
hỏi câu hỏi này khi chúng ta xao xuyến âu lo
trước những khó khăn của
cuộc sống.
Các môn đệ vượt biển mà
không mang đủ lương thực cần dùng.
Họ lo âu vì sợ lỡ ra có
bão hay sự cố gì thì làm sao đây.
Thực ra điều họ quên
không phải là bánh,
mà là quên Thầy Giêsu
đang ở cùng thuyền với họ.
Chúng ta cần ôn lại những
điều lạ lùng Chúa đã làm cho đời ta từ nhỏ,
để sống mỗi ngày trong
bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG HAI
Hồn Lành Trong Xác
Mạnh
Tập luyện thể dục thể
thao, đó là chúng ta trân trọng thân xác của mình. Chúng ta đạt được tình trạng
khỏe mạnh thể lý hết sức có thể, với hoa quả của nó là niềm khoan khoái lớn
lao. Trong nhãn giới đức tin, chúng ta biết rằng nhờ phép Rửa, trọn vẹn con người
– cả hồn lẫn xác – đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần: “Anh em không biết
thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em sao… và vì thế anh
em không còn thuộc về chính mình nữa? Anh em đã được trả giá để chuộc lại. Vậy
anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (ICr 6, 19 – 20).
Thể thao gắn liền với
việc phấn đấu để thắng một cuộc thi đấu hay đạt được một mục tiêu nào đó. Nhưng
với đức tin, chúng ta biết rằng “triều thiên không thể hư nát” của cuộc sống
vĩnh cửu thì giá trị hơn nhiều so với bất cứ giải thưởng nào trên trần gian.
Triều thiên đó là ân huệ của Thiên Chúa, song đó cũng là kết quả của việc
chuyên cần đào luyện nhân đức hằng ngày. Và, theo Thánh Phao-lô, đây là một cuộc
thi đấu thực sự quan trọng. Ngài nói: “Anh em hãy tha thiết tìm những ơn cao trọng
nhất” (1Cr 12, 31). Thánh Phao-lô muốn nhắc nhở chúng ta hãy hướng lòng trí về
những ân huệ góp phần tăng triển Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta kiên trì trong
cuộc chạy đua này, những ân huệ ấy sẽ đem lại một giải thưởng sinh ích lợi vĩnh
cửu cho chúng ta.
Hạnh Các Thánh
13 Tháng Hai
Thánh Ciryl và Thánh Methodius
(c. 869, c. 884)
Vì thân phụ của hai
thánh nhân là một sĩ quan trong phần đất của Hy Lạp nhưng có nhiều người Slav
chiếm ngụ, do đó hai anh em thánh nhân đã trở nên nhà truyền giáo, thầy dạy và
quan thầy của người Slav.
Sau thời gian học tập,
Cyril (thường được gọi là Constantine cho đến khi ngài trở thành tu sĩ ít lâu
trước khi từ trần) đã từ chối địa vị trong chính quyền mà anh ngài đã chấp nhận
làm việc cho những người nói tiếng Slav. Ngài gia nhập một đan viện là nơi anh
ngài, Methodius, đã là một đan sĩ sau thời gian giữ chức vụ trong chính quyền.
Một quyết định đã thay
đổi cuộc đời của các ngài khi Công Tước của Moravia xin Hoàng Ðế Micae của Ðông
Phương cho được độc lập về chính trị với nhà cầm quyền Ðức, và được tự trị về
phương diện tổ chức giáo hội (có giáo sĩ và phụng vụ riêng). Cyril và Methodius
đã lãnh nhận công việc truyền giáo này.
Công việc đầu tiên của
Cyril là sáng chế ra bản mẫu tự, giống như mẫu tự vẫn được dùng trong phụng vụ ở
các phần của Nam Tư cũ. Những người theo ngài có lẽ đã hình thành mẫu tự
Cyrillic từ các chữ cái của Hy Lạp. Ngày nay, họ dịch Phúc Âm, Thánh Thi, Thánh
Thư và các sách phụng vụ sang tiếng Slav, và sáng tác phần phụng vụ bằng tiếng
Slav rất đặc biệt.
Vì lý do đó và vì việc
xử dụng tiếng mẹ đẻ đã dẫn đến việc chống đối của hàng giáo sĩ Ðức. Các giám mục
Ðức từ chối việc tấn phong các giám mục và linh mục Slav, và Cyril buộc phải thỉnh
cầu lên Rôma. Trong chuyến viếng thăm Rôma, hai anh em thánh nhân đã vui sướng
khi thấy bản văn phụng vụ mới của họ được Ðức Giáo Hoàng Adrian II chấp thuận.
Nhưng Cyril không bao giờ trở lại Moravia nữa, ngài từ trần ở Rôma sau 50 ngày
nhận áo dòng.
Methodius tiếp tục
công cuộc truyền giáo trên 16 năm nữa. Ngài là đại diện giáo hoàng đối với toàn
thể người dân Slav, được tấn phong giám mục và được giao cho trông coi một giáo
phận cũ (thuộc Nam Tư). Khi lãnh thổ trước đây thuộc về họ nay bị tước khỏi quyền
tài phán, vị giám mục Bavaria đã trả thù với hàng loạt điều cáo buộc Ðức
Methodius. Kết quả là Hoàng Ðế Louis của Ðức đã lưu đầy Ðức Methodius trong ba
năm. Sau đó Ðức Giáo Hoàng Gioan VIII đã đảm bảo sự tự do cho ngài.
Hàng giáo sĩ người
Frank vẫn còn ấm ức nên họ tiếp tục chụp mũ, và Ðức Methodius phải sang Rôma để
bảo vệ ngài khỏi điều cáo buộc về tội lạc giáo và xin duy trì việc dùng bản văn
phụng vụ Slav. Một lần nữa ngài lại thành công.
Truyền thuyết nói rằng,
trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Methodius đã chuyển dịch toàn bộ Phúc
Âm sang tiếng Salv chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần
Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi ngài chết sự chống đối vẫn
chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận
tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã
có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm
linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam
Ba Lan.
Là quan thầy của
Moravia, và được đặc biệt sùng kính bởi người Công Giáo Czech, Slovak, Croatia,
Chính Thống Giáo Serb và người Bulgaria, Thánh Cyril và Methodius thật xứng
đáng là người bảo vệ sự hiệp nhất Ðông và Tây, là điều được mọi người khao khát
từ lâu.
Lời Bàn
Thánh thiện có nghĩa
dùng tình yêu Thiên Chúa để đối xử với thói đời: đời sống con người lúc nào
cũng vậy, luôn chằng chịt những vấn đề chính trị và văn hóa, sự mỹ miều cũng
như sự xấu xa, sự ích kỷ cũng như sự thánh thiện. Với Thánh Cyril và Methodius,
hầu như thập giá hàng ngày của các ngài là phải đương đầu với những khó khăn giống
như của chúng ta ngày nay: vấn đề ngôn ngữ trong phụng vụ. Các ngài là thánh
không phải vì đã đưa phụng vụ vào tiếng Slav, nhưng vì các ngài đã thi hành điều
ấy với sự can đảm và khiêm tốn của Ðức Kitô.
Lời Trích
"Ngay cả trong phụng
vụ, Giáo Hội không muốn áp đặt một sự đồng nhất cứng rắn nào trong các vấn đề
không liên hệ đến đức tin hay không có lợi cho toàn thể cộng đoàn. Ðúng hơn,
Giáo Hội tôn trọng và khuyến khích những tinh hoa và những đặc tính riêng của
các chủng tộc và dòng giống... Miễn sao sự hợp nhất cốt yếu của nghi lễ Rôma vẫn
được duy trì, việc tu chỉnh các sách phụng vụ phải được phép thay đổi và thích
nghi với các tổ chức khác nhau, sự sùng bái và các dân tộc khác nhau, nhất là
trong xứ truyền giáo" (Hiến Chế về Phụng Vụ, 37, 38).
13 Tháng Hai
Mang Tên Một Vị Thánh
Hiện nay, những người vẽ bản đồ tại Liên Xô
đang phải điên đầu vì tên của các thành phố. Khắp nơi trong toàn lãnh thổ, dân
chúng yêu cầu hoàn lại tên cũ cho thành phố, tên mà Stalin và những người kế vị
của ông đã xóa bỏ. Tại Leningrat chẳng hạn, dân chúng yêu cầu đòi lại đô thị của
họ với tên cũ là Petersburg hay St. Petersburg, nghĩa là đô thị của Thánh
Phêrô. Ðây là một trong những đề tài nóng bỏng mà hội đồng thành phố đang đưa
ra thảo luận. Trong một chương trình truyền hình địa phương người hướng dẫn
chương trình đã tránh dùng tên Lenigrat mà lại gọi tắt là Peter, nghĩa là tên gọi
cũ của đô thị. ngững người yêu cầu hoàn trả tên cũ lại cho các đô thị nói rằng:
cũng như những người có quyền giữ tên cha sinh mẹ đẻ của mình, thì cũng thế, một
đô thị cũng phải được quyền giữ tên khai nguyên của nó.
Tại cộng hòa Georgia, trường đại hoạc
kỹ thuật Tbilisi đã xóa bỏ tên của Lênin và ngay cả tượng của ông cũng bị đạp đổ.
Tại nhiều nơi khác, người ta cũng xóa bỏ tên mới của các đô thị để lấy lại tên
cũ vốn đã có từ thời các đô thị này được thiết lập. Gorky sẽ được phục hồi lại
như trước kia là Novgorod. Bezhnev sẽ được mang tên cũ là Nabereznye, Zhadanov
sẽ được phục hồi là Mariupol, nghĩa là đô thị của Ðức Maria.
Mỗi
người chúng ta, khi chịu phép rửa cũng đều mang một tên mới. Chúng ta thường gọi
đó là tên thánh. Thánh bởi vì đó là tên của một vị Thánh, nhưng thánh bởi vì tất
cả chúng ta đều được mời gọi để nên thánh, hay nói như Thánh Phaolô, tất cả
chúng ta đều là những người thánh. Thật thế, nhờ Phép Rửa, người tín hữu Kitô
được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa; nhờ Phép Rửa, người tín hữu
Kitô trở thành Ðền Thờ thánh thiện của Chúa Thánh Thần.
Ðó
là nguồn gốc, là căn tính của người Kitô chúng ta. Mang lấy tên của một vị
thánh, người Kitô luôn được nhắc nhở rằng bản chất của họ chính là nên thánh,
nguồn gốc của họ chính là sự thánh thiện. Chính vì nguồn gốc ấy, cho nên họ
luôn được mời gọi để làm việc thiện, để cầu nguyện, để chịu đựng, để sống tử tế,
để sống vui tươi, để sống phục vụ. Nói tóm lại, vì thông dự vào sự thánh thiện
của Thiên Chúa, người Kitô luôn được mời gọi để sống như Ðức Kitô, Ðấng qua cái
chết và sự Phục Sinh, đã thể hiện chính sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét