Các cuộc hành hương tới các đền thánh kính Đức Mẹ
Sau loạt bài về đề tài các vụ Đức Mẹ hiện ra, hôm nay chúng
ta bước sang đề tài các cuộc hành hương đến các trung tâm thánh mẫu kính Đức Mẹ.
Sự kiện Đức Mẹ hiện ra đó đây trên năm châu làm nảy sinh ra các nhà nguyện, nhà
thờ, đền thánh và trung tâm thánh mẫu, lôi cuốn tín hữu hành hương cầu nguyện
và kính viếng các nơi thánh này. Một đôi khi chính Đức Mẹ xin xây đền thánh
kính Mẹ, và mời gọi tín hữu tới hành hương, rước kiệu, cầu nguyện để Mẹ ban các
ơn lành hồn xác cho những ai tin tưởng chạy đến cùng Mẹ.
Tuy trong thời đại tân tiến ngày nay việc thực thi tôn giáo
đã có nhiều thay đổi, nhưng sinh hoạt hành hương đã không bị che mờ phủ lấp,
trái lại từ thập niên 1970 trở đi nó lại bùng nổ mạnh mẽ hơn. Sau một thời gian
bị suy giảm vì sự thay đổi văn hóa, trong đó lòng đạo đức bị coi như một cái gì
lỗi thời, là chuyện của người gia và đàn bà con nít, thì ngày nay người ra chú
ý nhiều hơn đến các truyền thống lịch sử văn hóa và các lý do sâu xa hơn của
nó. Cũng vì thế đã có các đại hội hay sách báo tài liệu ít nhiều trực tiếp
liên quan tới đề tài hành hương, và các nghiên cứu này thường có tính cách liên
ngành. Các nhà nghiên cứu xã hội học tôn giáo ghi nhận độ rộng rãi và ý nghĩa của
hiện tượng hành hương, và phân tích hiện tượng học của nó trong bối cảnh rộng
rãi hơn của lòng đạo đức bình dân. Cần phải nhìn hiện tượng này với rất nhiều
chú ý, và không có các thái độ hiểu trước hay thành kiến, vì ngày nay có thể định
nghĩa hành hương là một hiện tượng của tập thể đông đảo, và nó đặt ra các vấn đề
nghiêm chỉnh ngang hàng với các tầm vóc quan trọng của nó.
Thật thế, hiện tượng hành hương liên quan tới nhiều khiá cạnh
lý thuyết cũng như thực hành. Ở đây chúng ta chỉ hạn chế trong lãnh vực kitô,
và giới hạn việc tìm hiểu: thứ nhất, vào lãnh vực nhân chủng học tôn giáo để
xem xét các gốc rễ và các nét thường hằng nhân bản của nó; thứ hai, vào lãnh vực
thần học kinh thánh nhằm tìm hiểu tính cách cứu độ và chiều kích kitô của
nó; thứ ba, vào chiều kích lịch sử là lãnh vực được nghiên cứu nhiều nhất, để
tiếp nhận các nét thường hằng trong tiến trình biến chuyển của nó qua dòng thời
gian; thứ bốn, là để đi tới các đường nét thần học giúp giải thích hiện tượng
kitô, đặc biệt là tình trạng hiện nay; và thứ năm là để đi tới kết luận mục vụ
liên quan tới hiện tượng hành hương. Khi đề cập tới hành hương thì cũng luôn
luôn phải nói về các đền thánh, vì chúng liên hệ mật thiết với nhau.
** Trên bình diện nhân chủng học tôn giáo, hành hương là một
dữ kiện nền tảng: dưới các tên gọi khác nhau, nhưng trong căn tính của thực tại
được sống, cử chỉ đi hành hương tạo thành qua các nền văn hóa các không gian,
và trong hàng ngàn năm nó là một trong các thời điểm mạnh mẽ của kinh nghiệm
tôn giáo cá nhân và tập thể. Như thế, hành hương không chỉ là một thực tại của
Kitô giáo tây phương, nhưng là một hiện tượng đại đồng, hiện hữu khắp nơi trên
thế giới. Ngoài các cuộc hành hương của tín hữu các tôn giáo khác thời xa xưa,
chúng ta cũng có thể ghi nhận các hình thức đáng chú ý nhất, chẳng hạn như sự
kiện các tín hữu hồi giáo đi hành hương La Mecca. Đây là một trong 4 cột trụ của
Hồi giáo, và là tột đỉnh cuộc sống của tín hữu hồi. Giấc mơ của tín hữu hồi là
ít nhất một lần trong đời phải hành hương đến La Mecca.
Thế rồi còn có các cuộc hành hương của tín hữu Ấn giáo tìm tới
tắm tại sông Gange, và tại các đền thánh của họ, cũng như các cuộc hành hương của
các phật tử đến các trung tâm và chùa chiền phật giáo. Đây là các thực hành đã
đâm rễ sâu trong kinh nghiệm thiên tài tôn giáo của nhiều chủng tộc trên toàn
thế giới.
Tính từ “peregrinus” trong tiếng Latinh – hay thường khi là
danh từ - phát xuất từ động từ “peragare”, có nghĩa là “rong ruổi, đi khắp, vượt
khắp, vượt qua”, diễn tả nghĩa mạnh của việc “đi xa” “peregre nghĩa là “ per
agros” đi ra ngoài thành phố, đi vào trong miền quê đi qua các cánh đồng. Vì thế
từ “peregrinus” ám chỉ “người làm một cuộc hành trình tới một xứ xa xôi hay đi
ra ngoại quốc , tới vùng xa lạ để lưu lại đó”. Qua việc trải dài ý nghĩa nó
cũng ám chỉ “người ngoại quốc”. Tất cả các ý nghĩa này đều bao hàm trong động từ
“peregrinare” và trong danh từ “peregrinatio” hành hương tiếng Latinh. Hành
hương một cách nòng cốt có nghĩa là một cuộc khởi hành, một cuộc ra đi.
Việc di chuyển trong không gian này cho chúng ta thấy người
hành hương như là “người đi qua”, cả khi hôm nay họ ngừng lại, rồi ngày mai đi
tiếp. Điều chúng ta chú ý ở đây là các không gian nhân bản mà họ đi ngang qua:
họ không chỉ xa lạ với vùng đất đi qua, mà cũng xa lạ với các nhóm người sinh sống
trong vùng đất đó, và xa lạ với cả chính mình nữa. Chứng tá của họ và ý nghĩa của
cử chỉ kéo theo một nền tu đức và một sự khổ hạnh: ngoài việc ghi dấu
tính cách đi qua của các tình trạng cuộc sống con người, nó cũng loan báo sự
tách rời trong nội tâm và việc hoán cải, là cử chỉ tuyệt đối nhất trong cuộc sống
của một người, đến độ nó kéo theo một cuộc tái sinh, bắt đầu một cung cách sống
mới.
** “Nền tu đức trên đường”, “sống con đường” là các kiểu
diễn tả ám chỉ rằng việc bứng rễ “khỏi xứ sở, khỏi quê hương, khỏi nhà mình”,
như ông Môshê đã làm, khi nghe lời Thiên Chúa mời gọi ra đi, lên đường. Thuật lại
ơn gọi của ông Abraham tổ phụ dân Do thái chương 12 sách Sáng Thế viết: “Thiên
Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà
đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ
chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một
mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ
ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc
phúc." Ông Áp-ram ra đi, như Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy
mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran. Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai,
cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có
tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.” (St 12,
1-5). Ông Abraham đã từ bỏ thành Ur, từ bỏ cuộc sống định cư văn minh,
sung túc, bảo đảm để lên đường ra đi, mà không biết tên miền đất sẽ đến. Ông chỉ
tín thác nơi lời Chúa nói, và dấn bước phiêu lưu mà không có bất cứ chắc chắn bảo
đảm nào trong tay. Việc ra đi của ông diễn tả thái độ tin tưởng tinh tuyền, trần
trụi tuyệt đối của ông.
Việc ra đi, lên đường này đòi hỏi một cởi bỏ hai chiều: cởi
bỏ đồ vật và cởi bỏ giác quan, để thừa nhận và trao trả lại sự tự do cho tinh
thần, là thực tại mà ta không thể và không được phép giam hãm cản trở.
“Đi về” cũng là một kiểu diễn tả hiện sinh việc thực hiện tôn giáo, và có nghĩa
là chiến thắng trên không gian, và gia tăng việc tạo dựng năng động trên thực tại
tĩnh.
Mặc dù có các dáng vẻ trái nghịch, nhưng con đường là điều
kiện thực của con người, mà nền văn minh và văn hóa của chúng ta đang tái vẽ lại.
Điều này cho phép tham dự vào một tâm tình vũ hoàn. Vì thế hành hương được giới
thiệu như một một biểu tượng, hay như một bắt chước thảm kịch điều kiện lữ hành
của “con người lữ hành – homo viator”. Để là dấu chỉ của việc tiếp xúc với các
mẫu mực sâu thẳm, sức mạnh và phẩm chất của việc hành hương đạt độ cao tới nỗi
các tôn giáo lớn đã phải thừa nhận giá trị “bí tích “ của nó, là dấu chỉ bề
ngoài, nhưng tạo ra các ơn ích bên trong.
Hành hương và đền thánh làm thành các dữ kiện của cuộc “gặp
gỡ” và việc “tham dự” vào sự thánh thiêng, rồi sau đó thiết lập một đơn vị có tổ
chức giữa nhóm người hành hương và sự hiện diện của Thiên Chúa. Cả hai đều được
ghi vào trong một hoạt động thành toàn, trong đó các diễn viên là con người tôn
giáo, không gian và sự thánh thiêng, bằng cách soi sáng cho sự tiếp cận ba chiều:
sự tiếp cận của thân xác con người với không gian, việc tiếp nhận hay tạo ra
nơi thánh thiêng và cuộc gặp gỡ với thế giới bên kia, thế giới siêu việt.
Việc hành hương quy chiếu về đền thánh, được gọi là “nơi
thánh”. Kiểu nói này diễn tả nguồn gốc ngoại giáo của nó. “Thánh thiêng” không
quy chiếu về sự siêu việt. Trong các tôn giáo không do thái và kitô, ý niệm
chuyển vận vòng tròn của các biến cố liên quan tới con người đã ảnh hưởng trên
hình ảnh của đền thánh và việc hành hương, được coi như một nơi có hàng rào
chung quanh, được tách rời, để thực thi tại đó, bên trong và bên ngoài, một cuộc
rước kiệu, được hiểu như là đi vòng quanh hấp dẫn nhiệm mầu, hay đi vòng quanh
để cầu khẩn.
** Quan niệm do thái về lịch sử như một đường thẳng liên tục,
một lộ trình đi từ một điểm tới một điểm khác, bắt nguồn từ hình ảnh tiến tới của
lịch sử cứu rỗi. Trong biểu tượng của việc đi hành hương và thời gian của nó,
người ta không trông thấy một di chuyển vòng tròn chung quanh một khu vực có
hàng rào nữa, mà là một chặng được sự thánh thiêng giải thoát: khoảng
không gian tôn giáo quy chiếu về một lộ trình vượt quá nó, bằng
cách gợi lên một tiếp cận cánh chung. Việc nhân hình hoá vũ trụ và nhân bản hoá
không gian sẽ được thực hiện trong tình trạng kitô, qua một quan niệm tiến hoá
và tiệm tiến của lịch sử. Nhưng việc hành hương kitô sẽ không thoát khỏi các luật
lệ đại đồng của “việc thử nghiệm không gian” và các hình thức của nó sẽ có các
dáng vẻ của tất cả các việc di chuyển cầu nguyện khác.
Tuy nhiên, cần đề phòng các quan niệm đa thần hay thờ vật
linh tiềm ẩn trong đó, qua đó hầu như người ta coi các đền thánh như thể là các
nơi canh giữ một sức mạnh thánh thiêng hay các quyền lực cứu rỗi, và làm như thể
chúng tham dự vào quyền lực thiên linh được tích tụ qua các biến cố lạ lùng hay
các biểu lộ thần thiêng. Một đàng là sự biểu tuợng mà các yếu tố thiên
nhiên tràn đầy, đàng khác là việc linh hoạt siêu nhiên không được hiểu như một
quyền lực tinh thần, nhưng phải là kết qủa cuộc gặp gỡ cá nhân, qua hai cử chỉ
chính xác là ý muốn cứu rỗi đi trước của Thiên Chúa và ý muốn của con người, được
diễn tả ra qua cử chỉ rộng mở, lắng nghe, hoán cải và dấn thân. Nơi chốn và các
sự vật như: mồ mả, thánh tích, hình ảnh, núi đồi, hang hốc, suối nguồn vv… do sự
diễn tả phong phú của chúng, hay vì chúng mang đầy tính cách lịch sử tôn
giáo qua các thế kỷ nhờ sinh hoạt lễ nghi, chúng trở thành một trung gian. Mục
đích cuộc hành hương hoạt động như “dấu chỉ tưởng niệm” giúp gắn liền với sự
can thiệp của Thiên Chúa thành lập và còn hiện thực để cử hành ơn thánh cứu
độ: ơn thánh được làm cho hiện diện trong cuộc hành hương, trong lúc tột đỉnh
trở thành sự hiệp thông. Với các minh xác trên đây chúng ta có thể chấp nhận
các yếu tố thiên nhiên cũng như các yếu tố lịch sử của việc hành hương và của đền
thánh, và hiểu các lý do của nó một cách tốt đẹp hơn.
TMH 535
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét