Ông Môshê người được kêu mởi sống
cuộc đời hành hương
Lần trước chúng ta đã tìm hiểu cuộc hành hương của dân Do
thái bắt đầu với tổ phu Abraham từ thành Ur bên Iraq ngày nay nghe theo tiếng gọi
của Thiên Chúa bỏ cuộc sống nông nghiệp định cư lang thang sang cư ngụ tại
đất Canaan. Đó là vào khoảng năm 1850 trước công nguyên. Sau đó tổ phụ Giacóp
và các con sang định cư bên Ai Cập, khi ông Giuse làm tể tướng tại đây. Vào khoảng
năm 1300 ông Môshê được Thiên Chúa kêu gọi và giao cho nhiệm vụ đưa dân Do thái
ra khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập. Cuộc xuất hành đó đã là một cuộc hành hương
kéo dài 40 năm qua Sa mạc Sinai, trước khi vào Đất Hứa khoảng năm 1250
trước công nguyên. Trong sách Xuất Hành nổi bật nhất là gương mặt của ông
Môshê, người duy nhất đã được nói chuyện mặt giáp mặt với Thiên Chúa. Và cuộc sống
của ông cũng là cuộc sống của một người lữ hành, một người bị bứng rễ, được mời
gọi từ từ bước vào cuộc sống lữ hành. Ông đã chết mà không được vào Đất Hứa.
Thật ra, khi đọc kỹ và sâu biến cố xuất hành, chúng ta thấy
đây không chỉ là việc từ một vùng đất nô lệ bước sang một miền đất tự do, cho bằng
một cắt đứt với an ninh yên ổn thoải mái của một cuộc sống định cư, và từ việc
tôn thờ tà thần là bối cảnh xã hội tôn giáo của nó, để lên đường trong niềm tin
bị Thiên Chúa thử thách. Thiên Chúa mời gọi từ bỏ “cái có” để chiếm hữu cái
“là”, từ bỏ những cái cột buộc giam cầm biến con người thành tù nhân, để chiếm
hữu phẩm giá và sự tự do là người và là con cái Chúa. Nơi chốn nở rộng ra và được
biến đổi vì sự trung thành được tìm kiếm và một căn tính được khẳng định, trong
một thách đố triệt để đối với việc tầm thường hóa sự hiện diện của Thiên Chúa.
Cuộc hành trình tiến về núi Sinai được miêu tả với các phạm
trù của cuộc hành hương. Chương 5 sách Xuất Hành viết: “Khi ấy, ông Mô-sê và
ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: "Giavê, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán
thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong sa mạc." Pha-ra-ô
đáp: "Giavê là ai, khiến ta phải nghe lời mà thả cho Ít-ra-en đi? Ta chẳng
biết Giavê, cũng sẽ không thả cho Ít-ra-en đi." Hai ông nói:
"Thiên Chúa của người Híp-ri đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi
đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ Giavê, Thiên Chúa chúng tôi; nếu không, Người
sẽ dùng dịch hạch hay gươm giáo mà giết chết chúng tôi." Vua Ai-cập
nói với các ông: "Mô-sê và A-ha-ron, sao các ngươi lại muốn xúi dân bỏ việc?
Đi lao động đi! " Pha-ra-ô nói: "Bây giờ dân trong nước thì
đông, mà các ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao động!” (Xh 5,1-5).
** Sau khi Thiên Chúa giáng xuống trên Pharao và toàn dân Ai
Cập 10 tai ương: nước biến thành máu, ếch nhái, muỗi, ruồi nhặng, ôn dịch, ung
nhọt, mưa đá, châu chấu, cảnh tối tăm và các con đầu lòng Ai cập bị sát hại,
Pharao đang đêm triệu vời ông Môshê và ông Aharon đến và nói: “Cả các ngươi lẫn
con cái Israel, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Đi mà thờ phượng
Giavê như các ngươi đã nói! Cả chiên cừu, bò bê của các ngươi cũng hãy đem đi
như các ngươi đã nói. Đi đi và cầu phúc cho cả ta nữa” (Xh 12,31-32).
Cuộc đi qua Biển Đỏ đã đuợc miêu tả như một cuộc rước kiệu
hành hương. Núi Sinai được cho thấy với các đòi buộc của trung tâm thờ tự. Lễ
nghi ký kết giao ước hoàn thành tại đó cũng nhắc tới nó. Cả các trình thuật sau
này trong Thánh Kinh cũng cho thấy việc tiến tới Đất Hứa, trở thành “đất thánh”
như một cuộc hành hương: truyền thống tư tế quan niệm nó như môt cuộc rước
có chính Thiên Chúa hướng dẫn. Chương 13 sách Xuất Hành miêu tả cuộc giải phóng
ra khỏi Ai Cập như sau: “Giavê đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để
dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban
ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trươc dân không rời, ban đêm cột lửa cũng
vậy” (Xh 13,21-22),
Bên trong lộ trình này có Lều Gặp Gỡ”, là đền thánh lưu động
trong đó Giavê Thiên Chúa hiện diện và sống trà trộn với cuộc sống của dân
Ngài, và đi trước như chiến lợi phẩm trong các cuộc di chuyển của dân Israel. Sự
kiện này làm nảy sinh ra một nền thần học về sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa
giữa dân Ngài, duới hình của ánh sáng hay đám mây gọi là Shekinah. Biểu tượng lễ
nghi này không phải là phụ thuộc chút nào, trái lại nó cống hiến cho chúng ta một
nền thần học yểm trợ cho nền tu đức thánh kinh cưu ước, sẽ được lấy lại trong các
Thánh Vịnh hành hương hay Thánh Vịnh lên đền, tức các thánh vịnh từ 119 tới
134, được tín hữu do thái hát khi đi hành hương lên Giêrusalem. Chính Chúa
Giêsu cũng đã cùng cha mẹ hát các thánh vịnh ấy mỗi khi hành hương lên
Gierusalem, và sau này cùng với đoàn tông đồ và các môn đệ.
Với biến cố định cư, tín hữu do thái, dù không lang thang
như xưa kia trong sa mạc Sinai trước khi vào Đất Hứa nữa, nhưng vẫn phải
luôn luôn có tâm tình hành hương trong cuộc sống tinh thần. Đây cũng là lý do tại
sao sách Đệ Nhị Luật, qua miệng lưỡi ông Môshê, khích lệ dân Do thái hãy duy
trì nơi mình một con tim hành hương.
** Chương 8 sách Đệ Nhị Luật viết: “Anh (em) phải nhớ lại tất
cả con đường mà Giavê, Thiên Chúa của anh (em), đã dẫn anh (em) đi suốt bốn
mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh (em) phải cùng cực; như vậy Người thử
thách anh (em) cho biết lòng dạ anh (em), xem anh (em) có giữ các mệnh lệnh của
Người hay không. Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho
anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh (em) cũng
chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Giavê phán ra. Bốn mươi năm
qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không sưng lên. Suy
nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng Giavê, Thiên Chúa của anh (em), giáo dục
anh (em), như một người giáo dục con mình. Anh (em) phải giữ các mệnh lệnh
của Giavê, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của Người và kính sợ
Người… Anh (em) hãy ý tứ đừng quên Giavê, Thiên Chúa của anh (em), mà
không giữ các mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Người, mà tôi truyền cho
anh (em) hôm nay. Khi anh (em) được ăn, được no nê, khi anh (em) xây nhà đẹp
để ở, khi anh (em) có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và nhiều mọi thứ
của cải, thì lòng anh (em) đừng kiêu ngạo mà quên Giavê, Thiên Chúa của
anh (em), Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Người
đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong
miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy
ra cho anh (em) uống. Trong sa mạc, Người đã cho anh (em) ăn man-na, thức
ăn mà cha ông anh (em) chưa từng biết, để bắt anh (em) phải cùng cực và thử
thách anh (em), hầu làm cho anh (em) được hạnh phúc trong tương ai”. (Đnl
8,2-6.11-16).
Việc hành hương được cơ cấu hoá và đuợc xác định như là phạm
trù phụng tự, qua đó người ta cử hành ơn gọi và điều kiện du hành vĩnh cửu, bởi
vì đất thật của Israel sẽ luôn luôn là sa mạc của giao ước. Như thế nó trở
thành việc thay thế điều kiện du mục: việc thực hành nó giúp ý thức về việc tuỳ
thuộc một tình huynh đệ rộng lớn hơn là khung cảnh riêng tư mà các chi tộc khác
nhau có khuynh hướng khiến cho quên đi. Và thế là nảy sinh ra nhiều trung tâm
thờ tự có nguồn gốc thời các tổ phụ như Shilo, Bethel, Sikhem, Dan, Ghilgal,
Bersabea, là các trung tâm thờ tự và hành hương nổi tiếng nhất. Dĩ nhiên là có ảnh
hưởng của dân tộc Canaan, nhưng việc đọc hiểu trở lại của dân Israel cũng độc
đáo. Bên cạnh các trung tâm thờ tự và hành hương đó người ta cũng biên soạn các
“truyền thống kinh thánh”, đưa ra ánh sáng các câu chuyện anh hùng ca thời các
tổ phụ và thời xuất hành.
** Tầm quan trọng được ban cho các trung tâm thờ tự kéo theo
hậu qủa là một loại địa phương hoá Thiên Chúa, cả khi biết rằng Thiên Chúa
không bị hạn chế hay bị cột buộc vào bất cứ nơi nào. Đó là sự trở lại việc coi
trọng các lễ nghi và các sự vật. Phụng tự, mà người ta cử hành tại các trung
tâm thờ tự đó, hướng tới chỗ tự ban cho mình một sự hữu hiệu hầu như tự động,
đe dọa sự dấn thân cá nhân. Nhiều văn bản kinh thánh cho chúng ta thấy sự căng
thẳng này. Các truyền thống cổ xưa không coi các trung tâm thờ tự như các
nơi ở của Thiên Chúa, nhưng như các nơi gắn liền với các lần hiện ra của Thiên
Chúa. Đó là nền thần học của các vụ hiện ra, chẳng hạn như kể trong chương 28
sách Sáng Thế: “Gia-cóp ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran. Cậu đến một
nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối
đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu
thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Và
kìa Giavê đứng bên trên thang mà phán: "Ta là Giavê, Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của I-xa-ác. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ
ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất;
ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi
gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ
nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ
ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi." Gia-cóp tỉnh
giấc và nói: "Quả thật, có Giavê ở nơi này mà tôi không biết!
" Cậu phát sợ và nói: "Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của
Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác." Sáng hôm sau,
Gia-cóp dậy sớm, lấy hòn đá cậu đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu
trụ. Cậu đặt tên cho nơi đó là Bết Ên; trước đó, tên thành ấy là Lút” (St
28, 10-19). Trung tâm thờ tự Betel bắt nguồn từ đó.
Điều này cũng có giá trị đối với Lều Tạm, là “ngai của
Giavê” , như kể trong chương 33 sách Xuất Hành: “Ông Mô-sê lấy một chiếc lều và
đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông gọi lều ấy là Lều Hội
Ngộ. Ai thỉnh ý Giavê thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài trại. Mỗi khi ông Mô-sê
ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê
cho đến khi ông vào trong Lều. Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột
mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Giavê đàm đạo với ông Mô-sê. Khi thấy cột
mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều
mình. Giavê đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với
nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại; nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên
Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong Lều, không rời khỏi đó.” (Xh 33, 7-11; Ds
11,16.24-26; Đnl 31, 14 tt.). Trong truyền thống Sử Biên Hòm Bia đã trở thành một
sự hiện diện năng động của Giavê, đi đầu các đạo binh của Israel và ở với họ.
Đây là nền thần học của sự hiện diện, được cải biến từ các trung tâm thờ tự của
người Canaan.
TMH 537
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét