Trang

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2024

GẶP GỠ 'LUCE': LINH VẬT HOẠT HÌNH CỦA VATICAN CHO NĂM THÁNH 2025

 

Gặp gỡ ‘Luce’: Linh vật hoạt hình của Vatican cho Năm Thánh 2025

Vũ Văn An  29/Oct/2024

 


Linh vật chính thức cho Năm Thánh 2025 của Giáo Hội Công Giáo có tên là “Luce”, trong tiếng Ý có nghĩa là “ánh sáng”. | Nguồn: Simone Legno/tokidoki/Vatican Media

Courtney Mares, trên CNA ngày 28 tháng 10 năm 2024,có tường thuật dí dỏm về linh vật hoạt hình của Vatican về Năm Thánh 2025:

Trước thềm Năm Thánh 2025, Vatican đã ra mắt một linh vật hoạt hình được công bố vào thứ Hai như là khuôn mặt tươi vui của năm thánh sắp tới của Giáo Hội Công Giáo.

Linh vật có tên là Luce — có nghĩa là “ánh sáng” trong tiếng Ý — nhằm thu hút khán giả trẻ tuổi và hướng dẫn du khách trong suốt năm thánh.

Tổng giám mục Rino Fisichella, người tổ chức chính của Vatican cho năm thánh, mô tả linh vật này là một phần trong mục tiêu của Vatican nhằm thu hút “nền văn hóa đại chúng được những người trẻ tuổi của chúng ta yêu thích”.

Linh vật sẽ ra mắt vào tuần này tại Lucca Comics and Games, một hội nghị nổi tiếng của Ý về mọi thứ liên quan đến truyện tranh, trò chơi điện tử và truyện giả tưởng, nơi Bộ Truyền giáo của Vatican sẽ tổ chức một không gian dành riêng cho "Luce và những người bạn".

Đây sẽ là lần đầu tiên một bộ của Vatican tham gia vào một hội nghị truyện tranh. Fisichella, người giữ chức phó giám đốc bộ phận truyền giáo mới của Bộ Truyền giáo, cho biết ngài hy vọng việc tham gia hội nghị "sẽ cho phép chúng ta nói với các thế hệ trẻ về chủ đề hy vọng, vốn là trọng tâm hơn bao giờ hết trong thông điệp truyền giáo".

Mặc một chiếc áo mưa màu vàng, đôi bốt lấm bùn và cây thánh giá của người hành hương, sứ mệnh của Luce là hướng dẫn những người hành hương trẻ tuổi hướng tới hy vọng và đức tin với chú chó trung thành Santino bên cạnh. Những chiếc vỏ sò lấp lánh trong mắt cô, gợi nhớ đến vỏ sò điệp của Camino de Santiago (đường hành hương Compostella) biểu tượng của hành trình hành hương.

Phát biểu tại một cuộc họp báo của Vatican vào ngày 28 tháng 10 bên cạnh một bức tượng nhựa của Luce, ĐTGM Fisichella mô tả đôi mắt sáng ngời của Luce là "biểu tượng của hy vọng trong trái tim".

Luce, ngài cho biết, cũng sẽ là gương mặt đại diện cho gian hàng của Tòa thánh tại Expo 2025 ở Osaka, Nhật Bản, nơi cô sẽ đại diện cho chủ đề gian hàng của Vatican, "Vẻ đẹp mang lại hy vọng", cùng với "Sự chôn cất Chúa Kitô" của Caravaggio, một bức tranh sẽ được Bảo tàng Vatican tạm thời cho mượn để trưng bày tại triển lãm.

Simone Legno, người đồng sáng lập người Ý của thương hiệu văn hóa đại chúng tokidoki, đã thiết kế Luce và "những người bạn hành hương" của cô — Fe, Xin và Sky, mỗi người đều mặc những chiếc áo khoác nhiều màu sắc.

 


Vào ngày 28 tháng 10 năm 2024, Vatican đã công bố linh vật chính thức cho Năm Thánh 2025 của Giáo Hội Công Giáo: "Luce", trong tiếng Ý có nghĩa là "ánh sáng". Tín dụng: Simone Legno/tokidoki/Vatican Media

 

Áo mưa thủy thủ màu vàng của Luce là sự tôn vinh cả lá cờ Vatican và hành trình vượt qua những cơn bão của cuộc đời. Đôi ủng lấm bùn của linh vật tượng trưng cho một hành trình dài và khó khăn, trong khi cây gậy của cô tượng trưng cho cuộc hành hương hướng đến cõi vĩnh hằng.

Legno, người thừa nhận tình yêu trọn đời dành cho văn hóa nhạc pop Nhật Bản, cho biết ông hy vọng rằng "Luce có thể đại diện cho những tình cảm vang vọng trong trái tim của các thế hệ trẻ".

"Tôi vô cùng biết ơn Bộ Truyền giáo vì đã mở cửa đón nhận cả văn hóa nhạc pop", ông nói.

Năm thánh là một năm thánh đặc biệt của ân sủng và hành hương trong Giáo Hội Công Giáo. Nó thường diễn ra sau mỗi 25 năm, mặc dù Đức Giáo Hoàng có thể kêu gọi những năm thánh đặc biệt thường xuyên hơn, chẳng hạn như trong trường hợp của Năm Lòng Thương Xót 2016 hoặc Năm Đức Tin 2013.

Vatican đã lên kế hoạch cho một loạt các biến cố văn hóa để đi kèm với quá trình chuẩn bị cho năm thánh, bao gồm một buổi hòa nhạc vào ngày 3 tháng 11 về "Bản giao hưởng số 5" của Shostakovich và một cuộc triển lãm nghệ thuật về bức tranh "White Crucifixion" của Marc Chagall, sẽ được Viện Nghệ thuật Chicago cho mượn để trưng bày tại Bảo tàng Museo del Corso của Rome từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 27 tháng 1.

Chính năm thánh sẽ bắt đầu bằng việc mở Cửa Thánh của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào Đêm Giáng sinh năm 2024, chào đón 30 triệu người hành hương dự kiến đến Rome vào thời điểm Năm Thánh kết thúc vào ngày 6 tháng 1 năm 2026.

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024

SYNODALITY: A CONVERSION AIMED AT BECOMING MORE MISSIONARY

 


Synodality: A conversion aimed at becoming more missionary

The Final Document of the second session of the Sixteenth Ordinary General Assembly of the Synod recounts and relaunches an experience of Church as communion, participation, and mission, with a concrete proposal of a new vision that overturns established practices.

By Giampaolo Mattei

The Final Document, adopted today after each of its 155 paragraphs were approved, has been published, and will not become the basis of an Exhortation by the Pope, who has decided that it should be released immediately in order to inspire the life of the Church.

“The synodal process does not conclude with the end of the current Assembly of the Synod of Bishops, but it also includes the implementation phase” (9), involving all in the “daily journey with a synodal methodology of consultation and discernment, identifying concrete ways and formation pathways to bring about a tangible synodal conversion in the various ecclesial contexts” (9).

In particular, the Document challenges Bishops on their commitment to transparency and accountability, while noting, with Cardinal Victor Fernandez, the Prefect of the Dicastery for the Doctrine of the Faith, that work continues to provide women greater roles and greater power within the Church.

Two key words that emerge from the text – permeated by the perspective and proposal of conversion – are “relationships”, a way of being Church; and “bonds”, marked by the “exchange of gifts” between the Churches lived dynamically and, therefore, converting processes. It is precisely the local Churches that are at the centre in the missionary horizon, which is the foundation of the experience of plurality of synodality, with all the structures at the service of mission, with the laity increasingly fulfilling their role as subjects, or protagonists, of the process.

In this perspective, the Final Document emphasizes the concrete reality of being rooted in a “place”. Notably, the Synod Fathers and Mothers propose that the Dicasteries of the Holy See initiate substantive consultations “before publishing important normative documents” (135).

The structure of the Final Document

The Final Document comprises five parts, rooted in the Gospel accounts of the Resurrected Jesus appearing to the Apostles.

The first identifies “The Heart of Synodality”. The second part, “On the Boat, Together”, is dedicated “to the conversion of the relationships that build the Christian community and shape the mission in the intertwining of vocations, charisms and ministries”; while the third, “Cast the Net”, “identifies three practices that are intimately connected: ecclesial discernment, decision-making processes, and a culture of transparency, accountability and evaluation”.

The fourth part, “An Abundant Catch”, “outlines how it is possible to cultivate in new forms the exchange of gifts and the intertwining of the bonds that unite us in the Church, at a time when the experience of being rooted in a place is changing profoundly”; with the fifth, “So I Send You”, “allows us to look at the first step to be taken: caring for the formation of all, of the People of God, all synodal missionaries”.

The Wounds of the Risen One continue to bleed…

The introduction of the Document (1-12) immediately clarifies the essence of the Synod as “a renewed experience of the disciples’ encounter with the Risen One in the Upper Room on Easter evening”. “Contemplating the Risen One”, the Document continues, “we have seen the mark of His Wounds (…) that continue to bleed in the bodies of many brothers and sisters, including through our own faults. Looking upon the Lord does not distance us from the tragedies of history. Instead, it opens our eyes to the suffering of those around us and penetrates us: the faces of war-stricken terrorised children, weeping mothers, the shattered dreams of so many young people, refugees who face terrible journeys, the victims of climate change and social injustice” (2).

The Synod, recalling the many ongoing wars, joins Pope Francis in “his repeated appeals for peace, condemning the logic of violence, hatred, and revenge” (2).

Further, the synodal way is markedly ecumenical, oriented towards “a full and visible unity of Christians” (4) – and “constitutes an authentic further act of reception of the [Second Vatican] Council, thus deepening its inspiration and reinvigorating its prophetic force for today’s world” (5).

It was not easy, the Document recognizes: “We cannot deny that we have faced fatigue, resistance to change, and the temptation to let our own ideas prevail over listening to the Gospel and the practice of discernment” (6)

The heart of synodality

The first part of the document (13-48) begins with the shared reflections on “the Church as the People of God, Sacrament of Unity” (15-20) and on “The Sacramental Roots of the People of God” (21-27).

It is through the “experience of recent years” that the meaning of the terms “synodality” and “synodal” have come “to be better understood, and what they represent more vibrantly lived. They have become ever more deeply associated with the desire for a Church that is closer to people and more relational – a Church that is God's home and family.

“In simple and concise terms, synodality is a path of spiritual renewal and structural reform that enables the Church to be more participatory and missionary, so that it can walk with every man and woman, radiating the light of Christ” (28).

Recognizing that the unity of the Church does not mean uniformity, “the appreciation of contexts, cultures and diversities, and of the relationships between them, is key to growing as a missionary synodal Church” (40). And with the revival of relations with other religious traditions, the Church strives “together with them to build a better world” (41).

The conversion of relationships

The second part of the Document (49-77) opens with the recognition of “the call for a Church with a greater capacity to nurture relationships: with the Lord, between men and women, in the family, in the local community, among social groups and religions, with the earth itself” (50).

At the same time the Synod recognizes that some “continued to experience the pain of feeling excluded or judged because of their marital situation, identity, or sexuality” (ibid.).

“To be a synodal Church, we are required to open ourselves to a genuine relational conversion that redirects each person’s priorities and we must once again learn from the Gospel that attending to relationships is not merely a strategy or a tool for greater organisational effectiveness. Relationships and bonds are the means by which God the Father has revealed Himself in Jesus and the Spirit” (ibid.).

They final document goes on to acknowledge “the widely expressed pain and suffering on the part of many women from every region and continent, both lay and consecrated, during the synodal process”, which “reveal how often we fail to live up to this vision” (52).

In particular, “the call to renewed relationships in the Lord Jesus flourishes in the different contexts in which His disciples live”, joined to “the plurality of cultures”; yet “interaction by people from diverse cultural contexts can also lead to distorted relationships that are not in keeping with the Gospel” (53).

“The evils that plague our world… are rooted in these dynamics”, the Document affirms, noting that “the most radical and dramatic rejection is that of human life itself; this leads to the rejection of the unborn, as well as of the elderly” (54).

Ministries for Mission

“Charisms, Vocations, and Ministries for Mission” (57-67) lie at the heart of the document, which focuses especially on a greater participation of lay men and women. The ordained ministry is “at the service of harmony” (68); and the ministry of the bishop aims at “discerning and bringing together in unity” the gifts of the Holy Spirit (69-71).

Within the discussion of the episcopal ministry, the Document notes that “in the case of titular bishops today, the constitutive relationship between the bishop and the local Church does not appear with sufficient clarity, for example, in the case of papal representatives and those who serve in the Roman Curia” (70).

Priests and deacons serve with the bishops for a “collaboration between ordained ministers within a synodal Church” (74). So, the experience of “Synodal Spirituality” is significant, for if “spiritual depth at both personal and communitarian levels is lacking, synodality is reduced to organisational expediency” (44).

For this reason, the Document notes, “practised with humility, the synodal style enables the Church to be a prophetic voice in today’s world.”

The conversion of processes

In the third part of the Document (79-108), the Synod notes that “in prayer and dialogue, we have recognised that ecclesial discernment, the care for decision-making processes, the commitment to accountability and the evaluation of our decisions are practices through which we respond to the Word that shows us the paths of mission” (79).

In particular, it notes, “These three practices are closely intertwined. Decision-making processes need ecclesial discernment, which requires listening in a climate of trust that is supported by transparency and accountability. Trust must be mutual: decision-makers need to be able to trust and listen to the People of God. The latter, in turn, needs to be able to trust those in authority” (80).

In fact, “Ecclesial Discernment for Mission” “is not an organisational technique but rather a spiritual practice grounded in a living faith” and “is never just a setting out of one’s own personal or group point of view or a summing up of differing individual opinions” (82).

“The Structure of the Decision-making Process” (87-94), “Transparency, Accountability, and Evaluation” (95-102), and “Synodality and Participatory Bodies” (103-108) are central points of the proposals contained in the Document, arising from the experience of the Synod.

The Conversion of Bonds

The essence of the fourth part of the Final Document (109-139) is expressed in its first paragraph: “In a time when there is great change occurring in the places where the Church is rooted and on pilgrimage, we need to cultivate new forms of the exchange of gifts and the network of bonds that unite us. In this we are sustained by the ministry of the bishops in communion amongst themselves and with the Bishop of Rome” (109).

The expression “Firmly Rooted yet Pilgrims” (110-119) recalls that “The Church cannot be understood apart from its roots in a specific territory, in that space and time where a shared experience of encounter with the saving God occurs” (110).

This part of the Document also gives due consideration to the phenomena of “population mobility” (112) and “the spread of digital culture” (113).

In this perspective, “our walking together as disciples of Jesus, with our diverse charisms and ministries, while at the same time engaging in the exchange of gifts among the Churches, is an effective sign of the love and mercy of God in Christ” (120).

“The guiding principle of the relationship among churches is the perspective of communion through the sharing of gifts” (124). From this starting point, the Document elaborates “The Bonds of Unity: Episcopal Conferences and Ecclesial Assemblies” (124-129).

The synodal reflection on “The Service of the Bishop of Rome” (130-139) is particularly significant. With reference precisely to the promotion of greater collaboration and listening, the Synod exhorts Dicasteries “to initiate a consultation with Episcopal Conferences and with the corresponding structures of the Eastern Churches sui iuris” before publishing “important normative documents” (135).

Forming a People for Missionary Discipleship

“The Holy People of God require proper formation so that they can witness to the joy of the Gospel and grow in the practice of synodality: first of all, in the freedom of sons and daughters of God in following Jesus Christ, contemplated in prayer and recognised in those who are poor” (141), the Document affirms at the beginning of the fifth part (140-151).

“One of the requests that emerged most strongly and from all contexts during the synodal process is that the formation provided by the Christian community be integral and continuing” (143). In this regard, too, we see the urgent need for “an exchange of gifts between different vocations (communion), in the perspective of a service to be performed (mission) and in a style of involvement and education in differentiated co-responsibility (participation)” (147).

“Another area of great importance is the promotion in all ecclesial contexts of a culture of safeguarding, making communities ever safer places for minors and vulnerable persons” (150).

Finally, “The themes of the Church's social doctrine, such as commitment to peace and justice, care for our common home and intercultural and interreligious dialogue, must also be more widely shared among the People of God” (151).

Entrustment to Mary

“Living through the synodal process again, we have become aware that the salvation to be received and proclaimed is inherently relational”, the Document says in its penultimate paragraph. “We live it and witness to it together. History reveals itself to us tragically marked by war, rivalry for power, and thousands of injustices and abuses. We know, however, that the Spirit has placed the desire for authentic relationships and true bonds in the heart of every human being. Creation itself speaks of unity and sharing, of diversity and of variously interconnected forms of life” (154).

The text concludes with a prayer entrusting “the results of this Synod to the Virgin Mary”. “May she… teach us to be a people of disciples and missionaries together, to be a synodal Church” (155).

https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2024-10/synodality-a-conversion-aimed-at-becoming-more-missionary.html

SƠ LƯỢC VĂN KIỆN CHUNG KẾT CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THỨ XVI VỀ TÍNH HIỆP HÀNH

 


Sơ lược Văn kiện Chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16 về tính hiệp hành

Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 16 đã chính thức kết thúc vào Chúa Nhật ngày 27/10/2024 với Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày hôm trước, 26/10, Văn kiện Chung kết đã được thông qua với hơn 2/3 số phiếu thuận, sau khi mỗi đoạn trong số 155 đoạn của văn kiện được tán thành. Văn kiện thuật lại và tái khởi động một kinh nghiệm về Giáo hội như sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ, với một đề xuất cụ thể về một tầm nhìn mới vượt lên các thực hành đã được thiết lập.

Vatican News

Đức Thánh Cha đã tuyên bố rằng ngài đã chọn không viết Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, nhưng nói rằng Tài liệu Thượng Hội đồng sẽ được cung cấp ngay cho tất cả mọi người. Ngài giải thích: “Đã có những chỉ dẫn rất cụ thể trong Tài liệu có thể là kim chỉ nam cho sứ mạng của các Giáo hội, tại các châu lục và bối cảnh cụ thể của họ”. Ngài bày tỏ sự tin tưởng rằng trải nghiệm chung này sẽ truyền cảm hứng cho “những hành động cụ thể phục vụ dân Chúa”.

“Tiến trình hiệp hành không kết thúc khi Đại hội hiện tại của Thượng Hội đồng Giám mục kết thúc, nhưng nó cũng bao gồm giai đoạn thực hiện” (9), bao gồm tất cả mọi người trong “hành trình hàng ngày với phương pháp tham vấn và phân định theo phong cách hiệp hành, xác định những cách thức cụ thể và lộ trình đào tạo để mang lại sự hoán cải hiệp hành hữu hình trong các bối cảnh Giáo hội khác nhau” (9).

Đặc biệt, Tài liệu yêu cầu các Giám mục dấn thân đối với tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời lưu ý, như Đức Hồng y Victor Fernandez, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã nói, rằng công việc được tiếp tục để mang lại cho phụ nữ những vai trò và quyền hạn lớn hơn trong Giáo hội.

Hai từ khóa nổi lên từ văn bản - được thể hiện qua viễn cảnh và đề xuất hoán cải - là “các mối quan hệ”, một cách để trở thành Giáo hội; và “các mối liên kết”, được đánh dấu bằng “sự trao đổi các ân sủng” giữa các Giáo hội được sống một cách năng động và do đó, để hoán cải các quá trình. Chính các Giáo hội địa phương là trung tâm của chân trời truyền giáo, là nền tảng của kinh nghiệm về tính đa nguyên của sự hiệp hành, với tất cả các cấu trúc phục vụ cho sứ vụ, với giáo dân ngày càng ở trung tâm và là người giữ vai chính.

Trong viễn tượng này, tính chất cụ thể của việc được bám rễ vào “nơi chốn” nổi bật cách mạnh mẽ trong Văn kiện Chung kết này. Điều lưu ý là các tham dự viên đã đề xuất rằng các Bộ của Tòa Thánh khởi động các cuộc tham vấn “trước khi công bố các tài liệu chuẩn mực quan trọng” (135).

Cấu trúc của Tài liệu Chung kết

Tài liệu Chung kết gồm năm phần (11). Phần đầu tiên có tựa đề “Trái tim của tính Hiệp hành”. Phần thứ hai, “Cùng nhau, trên thuyền của Phêrô”, nói về “việc hoán cải các mối quan hệ xây dựng cộng đoàn Kitô giáo và định hình sứ vụ trong sự đan xen của các ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ”; trong khi phần thứ ba, “Theo Lời Người”, “xác định ba thực hành có liên quan chặt chẽ với nhau: sự phân định của Giáo hội, các tiến trình ra quyết định và một nền văn hóa minh bạch, trách nhiệm giải trình và đánh giá”.

Phần thứ tư, “Một mẻ cá dồi dào”, “phác thảo cách thức có thể vun đắp theo những hình thức mới của việc trao đổi các đặc sủng và sự đan xen của các mối liên kết hiệp nhất chúng ta trong Giáo hội, tại thời điểm mà kinh nghiệm về việc bám rễ vào một nơi chốn đang thay đổi sâu sắc”. Cuối cùng, phần thứ năm, “Thầy cũng sai các con”, “cho phép chúng ta nhìn vào bước đầu tiên cần thực hiện: quan tâm đến việc đào tạo tất cả mọi người theo tinh thần truyền giáo hiệp hành”. Đặc biệt, cần lưu ý rằng việc khai triển Văn kiện này được hướng dẫn bởi các trình thuật Tin Mừng về sự Phục Sinh (12).

Những vết thương của Đấng Phục sinh vẫn tiếp tục rỉ máu…

Phần giới thiệu của Tài liệu (1-12) ngay lập tức làm sáng tỏ bản chất của Thượng Hội đồng như là “một trải nghiệm được đổi mới về cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Đấng Phục sinh trong Phòng Tiệc ly vào chiều ngày Phục sinh” (1). Văn kiện khẳng định, “Khi chiêm ngắm Đấng Phục sinh, chúng ta đã thấy dấu vết của những thương tích của Người (…) vẫn tiếp tục rỉ máu trên cơ thể của nhiều anh chị em, kể cả do những lỗi lầm của chính chúng ta. Việc nhìn lên Chúa không làm chúng ta xa rời những bi kịch của lịch sử. Ngược lại, nó mở mắt chúng ta nhìn thấy nỗi đau khổ của những người xung quanh và thấm sâu vào chúng ta: khuôn mặt của những đứa trẻ hoảng sợ vì chiến tranh, những giọt nước mắt của các bà mẹ, những giấc mơ tan vỡ của rất nhiều người trẻ, những người tị nạn phải đối mặt với những hành trình khủng khiếp, những nạn nhân của biến đổi khí hậu và bất công xã hội” (2).

Nhắc lại nhiều cuộc chiến tranh đang diễn ra, Thượng Hội đồng đã hợp với Đức Thánh Cha Phanxicô trong “việc không ngừng kêu gọi, lên án logic của bạo lực, hận thù và trả thù” (2).

Hơn nữa, hành trình hiệp hành rõ ràng là hành trình đại kết, hướng đến “sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của các Kitô hữu” (4) – và “cấu thành một hành động tiếp nhận Công đồng [Vatican II] cách đích thực hơn nữa, do đó đào sâu thêm nguồn cảm hứng của Công đồng và tiếp thêm sức mạnh ngôn sứ của Công đồng cho thế giới ngày nay” (5).

Tài liệu thừa nhận rằng điều đó không dễ dàng: “Chúng ta không thể phủ nhận rằng chúng ta đã phải đối mặt với sự mệt mỏi, việc kháng cự lại sự thay đổi và cám dỗ để những ý tưởng của riêng mình lấn át việc lắng nghe Tin Mừng và thực hành sự phân định” (6)

Trọng tâm của tính hiệp hành

Phần đầu tiên của tài liệu (13-48) bắt đầu bằng những suy tư chung về “Giáo hội như Dân Chúa, Bí tích Hiệp nhất” (15-20) và về “Những Cội rễ Bí tích của Dân Chúa” (21-27).

Chính qua “kinh nghiệm của những năm gần đây” mà ý nghĩa của các thuật ngữ “tính hiệp hành” và “hiệp hành” đã “được hiểu rõ hơn, và được sống cách sống động hơn. Chúng ngày càng được kết nối cách sâu sắc hơn với mong muốn về một Giáo hội gần gũi hơn với mọi người và có tương quan hơn – một Giáo hội là nhà và gia đình của Thiên Chúa (28).

“Nói một cách đơn giản và súc tích, tính hiệp hành là một hành trình canh tân thiêng liêng và cải cách cơ cấu giúp Giáo hội có thể tham gia và truyền giáo nhiều hơn, để có thể đồng hành với mọi người và tỏa sáng ánh sáng của Chúa Kitô” (28).

Khi nhìn nhận rằng sự hiệp nhất của Giáo hội không có nghĩa là đồng nhất, “việc đánh giá cao các bối cảnh, nền văn hóa và sự đa dạng, cũng như các mối quan hệ giữa chúng, là chìa khóa để phát triển như một Giáo hội hiệp hành truyền giáo” (40). Và với sự hồi sinh của các mối quan hệ với các truyền thống tôn giáo khác, Giáo hội phấn đấu “cùng với họ để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” (41).

Hoán cải về các tương quan

Phần thứ hai của Tài liệu (49-77) mở đầu bằng “lời kêu gọi một Giáo hội có nhiều khả năng hơn trong việc nuôi dưỡng các mối tương quan: với Chúa, giữa người nam và người nữ, trong gia đình, trong cộng đồng địa phương, giữa các nhóm xã hội và tôn giáo, với công trình tạo dựng” (50). Đồng thời, Thượng Hội đồng nhìn nhận rằng một số người “tiếp tục trải qua nỗi đau khi cảm thấy bị loại trừ hoặc bị xét đoán vì tình trạng hôn nhân, căn tính hoặc khuynh hướng tính dục của họ” (ibid.).

“Để trở thành một Giáo hội có tính hiệp hành, chúng ta cần phải mở lòng mình hướng đến một sự hoán cải thật sự trong các tương quan, điều sẽ định hướng lại các ưu tiên của mỗi người và một lần nữa chúng ta phải học hỏi từ Tin Mừng rằng quan tâm chú ý đến các tương quan không chỉ đơn thuần là một chiến lược hay một công cụ để tăng hiệu quả tổ chức. Các mối tương quan và liên kết là phương tiện mà qua đó Chúa Cha đã mặc khải chính Người trong Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần” (50).

Tài liệu chung kết tiếp tục với việc nhìn nhận “nỗi đau và sự đau khổ được diễn tả bởi nhiều phụ nữ từ mọi khu vực và châu lục, cả giáo dân và những người thánh hiến, trong suốt tiến trình hiệp hành”, điều “cho thấy chúng ta thường không sống theo tầm nhìn này” (52).

Đặc biệt, “lời kêu gọi canh tân tương quan trong Chúa Giêsu phát triển mạnh mẽ trong các bối cảnh khác nhau, nơi các môn đệ của Người đang sống”, kết hợp với “sự đa dạng của các nền văn hóa”; tuy nhiên “sự tương tác của những người từ các bối cảnh văn hóa khác nhau cũng có thể dẫn đến các mối quan hệ méo mó không phù hợp với Tin Mừng” (53).

Tài liệu khẳng định rằng “Những sự dữ đang hoành hành trên thế giới của chúng ta bắt nguồn từ những động lực này” và lưu ý rằng “sự từ chối triệt để và mạnh mẽ nhất chính là sự từ chối chính sự sống con người; điều này dẫn đến sự từ chối những đứa trẻ chưa chào đời, cũng như người già” (54).

Các Thừa tác vụ Truyền giáo

“Đặc sủng, Ơn gọi và Các Thừa tác vụ Truyền giáo” (57-67) nằm ở trung tâm của tài liệu, nhấn mạnh đặc biệt đến sự tham gia nhiều hơn của giáo dân. Thừa tác vụ thánh chức là “phục vụ cho sự hòa hợp” (68); và thừa tác vụ Giám mục là nhằm mục đích “phân định và quy tụ trong sự hiệp nhất” các ân huệ của Chúa Thánh Thần (69-71).

Trong cuộc thảo luận về thừa tác vụ Giám mục, Tài liệu lưu ý rằng “mối quan hệ mang tính cấu thành giữa giám mục và Giáo hội địa phương dường như không thể hiện rõ ràng trong trường hợp của các giám mục hiệu tòa ngày nay, ví dụ, trong trường hợp của các đại diện Giáo hoàng và những người phục vụ trong Giáo triều Roma” (70).

Cùng với các Giám mục, có các linh mục và phó tế, để “cộng tác giữa các thừa tác viên có chức thánh trong một Giáo hội hiệp hành” (74). Vì vậy, kinh nghiệm về “Linh đạo hiệp hành” rất quan trọng, vì nếu “thiếu chiều sâu thiêng liêng ở cả cấp độ cá nhân và cộng đoàn, thì tính hiệp hành sẽ bị giảm xuống thành sự tiện lợi về mặt tổ chức” (44).

Vì lý do này, Tài liệu lưu ý, “khi được thực hành với sự khiêm tốn, phong cách hiệp hành cho phép Giáo hội trở thành tiếng nói ngôn sứ trong thế giới ngày nay”.

Hoán cải về các tiến trình

Trong phần thứ ba của Tài liệu (79-108), Thượng Hội đồng lưu ý rằng “trong cầu nguyện và đối thoại, chúng ta đã nhận ra rằng sự phân định của Giáo hội, việc quan tâm đến các tiến trình ra quyết định, sự dấn thân chịu trách nhiệm và đánh giá các quyết định của chúng ta là những thực hành mà qua đó chúng ta đáp lại Lời Chúa chỉ cho chúng ta những con đường của sứ vụ” (79).

Đặc biệt, tài liệu lưu ý rằng “Ba thực hành này gắn bó chặt chẽ với nhau. Các tiến trình ra quyết định cần có sự phân định của Giáo hội, đòi phải lắng nghe trong bầu không khí tin tưởng được hỗ trợ bởi sự minh bạch và chịu trách nhiệm. Sự tin tưởng phải là của cả hai bên: những người ra quyết định cần có khả năng tin tưởng và lắng nghe Dân Chúa. Ngược lại, Dân Chúa cần có thể tin tưởng những người nắm giữ quyền bính” (80).

Trên thực tế, “Sự phân định của Giáo hội cho Sứ vụ” “không phải là một kỹ thuật tổ chức mà là một thực hành thiêng liêng dựa trên đức tin sống động” và “không bao giờ chỉ là việc đưa ra quan điểm cá nhân hoặc của nhóm hoặc là tổng hợp các ý kiến ​​cá nhân khác nhau” (82).

“Cấu trúc của quá trình ra quyết định” (87-94), “tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự đánh giá” (95-102) và “tính hiệp hành và các cơ quan tham gia” (103-108) là những điểm chính của các đề xuất có trong Tài liệu, phát sinh từ kinh nghiệm của Thượng Hội đồng.

Hoán cải về các mối liên kết

Bản chất của phần thứ tư của Tài liệu Chung kết (109-139) được diễn tả trong đoạn đầu tiên: “Trong thời điểm có sự thay đổi lớn lao đang diễn ra ở những địa điểm cội nguồn và hành hương của Giáo hội, chúng ta cần vun đắp những hình thức mới để trao đổi các ân huệ và đan dệt các mối liên kết hiệp nhất chúng ta. Trong điều này, chúng ta được nâng đỡ bởi thừa tác vụ của các Giám mục trong sự hiệp thông giữa họ và với Giám mục Roma” (109).

Cụm từ “được bén rễ vững chắc nhưng vẫn là những người hành hương” (110-119) nhắc lại rằng “không thể hiểu được Giáo hội nếu không bén rễ trong một lãnh thổ cụ thể, trong một không gian và thời gian nơi hình thành kinh nghiệm chung về cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng cứu độ” (110). 

Phần này của Tài liệu cũng nhấn mạnh đến hiện tượng “dịch chuyển dân số” (112) và “sự lan truyền của văn hóa kỹ thuật số” (113).

Theo viễn cảnh này, “việc chúng ta cùng nhau bước đi như những môn đệ của Chúa Giêsu, với các đặc sủng và thừa tác vụ đa dạng của chúng ta, đồng thời tham gia vào việc trao đổi các ân huệ giữa các Giáo hội, là một dấu chỉ hữu hiệu về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa trong Chúa Kitô” (120).

“Nguyên tắc chỉ đạo mối tương quan giữa các Giáo hội là cái nhìn hiệp thông thông qua việc chia sẻ các ân huệ” (124). Từ điểm khởi đầu này, Tài liệu trình bày chi tiết “Những mối dây hiệp nhất: Các Hội đồng Giám mục và các Hội nghị Giáo hội” (124-129).

Suy tư của Thượng hội đồng về “Sự phục vụ của Giám mục Roma” (130-139) đặc biệt có ý nghĩa. Đề cập chính xác đến việc thúc đẩy sự hợp tác và lắng nghe nhiều hơn, Thượng Hội đồng kêu gọi các Bộ “khởi xướng một cuộc tham vấn với các Hội đồng Giám mục và với các cơ quan tương ứng của các Giáo hội Đông phương tự quản” trước khi công bố “các văn kiện chuẩn mực quan trọng” (135).

Đào tạo một Dân tộc các Môn đệ Truyền giáo

Tài liệu khẳng định ở phần đầu của phần thứ năm (140-151): “Dân thánh của Thiên Chúa cần được đào tạo thích đáng để họ có thể làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng và phát triển trong việc thực hành tính hiệp hành: trước hết, trong sự tự do của con cái Thiên Chúa khi theo Chúa Giêsu Kitô, được chiêm niệm trong cầu nguyện và được nhìn nhận nơi những người nghèo” (141).

“Một trong những yêu cầu nổi lên mạnh mẽ nhất và từ mọi bối cảnh trong tiến trình hiệp hành là việc đào tạo do cộng đoàn Kitô giáo cung cấp phải toàn diện và liên tục” (143). Về vấn đề này, chúng ta cũng thấy nhu cầu cấp thiết về “việc trao đổi các ân huệ giữa các ơn gọi khác nhau (hiệp thông), theo quan điểm thực thi việc phục vụ (sứ vụ) và theo phong cách tham gia và giáo dục trong sự đồng trách nhiệm khác biệt (sự tham gia)” (147).

“Một lĩnh vực khác có tầm quan trọng lớn là việc thúc đẩy trong mọi bối cảnh giáo hội một nền văn hóa bảo vệ, biến cộng đoàn thành nơi an toàn hơn bao giờ hết cho trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương” (150).

Cuối cùng, “các chủ đề trong học thuyết xã hội của Giáo hội, ví dụ như dấn thân vì hòa bình và công lý, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và đối thoại liên văn hóa và liên tôn, cũng phải được chia sẻ rộng rãi hơn trong Dân Chúa” (151).

Phó thác cho Đức Maria

Tài liệu nói trong đoạn áp chót: “Bằng cách sống lại tiến trình hiệp hành, chúng ta đã nhận ra rằng ơn cứu độ được đón nhận và được loan báo có mối quan hệ thiết yếu. Chúng ta cùng nhau sống và làm chứng cho ơn cứu độ đó. Đối với chúng ta, lịch sử dường như được đánh dấu một cách bi thảm bởi chiến tranh, sự tranh giành quyền lực, hàng ngàn bất công và lạm dụng. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần đã đặt vào tâm hồn mỗi người một ước muốn sâu xa và thầm lặng về những mối quan hệ đích thực và những mối liên kết thực sự. Chính công trình tạo dựng nói lên sự hiệp nhất và chia sẻ, sự đa dạng và đan xen giữa các dạng sống khác nhau” (154).

Tài liệu kết thúc bằng lời cầu nguyện phó thác “kết quả của Thượng Hội đồng này cho Đức Trinh Nữ Maria”. “Xin Mẹ dạy chúng con trở thành một dân tộc của các môn đệ truyền giáo cùng nhau bước đi, trở thành một Giáo hội hiệp hành” (155).

https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2024-10/van-kien-chung-ket-thuong-hoi-dong-giam-muc-hiep-hanh.html

TÀI LIỆU CUỐI CÙNG CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GỒM 155 ĐOẠN: CÁC ĐỀ XUẤT VÀ CHỦ ĐỀ CHÍNH


 

Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng gồm 155 đoạn: Các đề xuất và chủ đề chính

Vũ Văn An  28/Oct/2024

 

Tạp chí ALETEIA, ngày 28 tháng 10, 2024, đăng tải các điểm chính của Tài liệu Sau cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, một tài liệu, lần đầu tiên trong lịch sử, được Đức Phanxicô chính thức chấp nhận đưa vào huấn quyền thông thường của ngài.

Phụ nữ và giáo dân, phân quyền, minh bạch: Đây là những chủ đề chính của tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị được công bố vào ngày 26 tháng 10 năm 2024.

Sau ba năm suy gẫm, Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã kết thúc vào tối ngày 26 tháng 10 năm 2024, khi 356 thành viên của nó tập trung để bỏ phiếu cho một tài liệu sau cùng.

Trong một hành động bất ngờ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức chấp thuận tài liệu này, nói rằng ngài sẽ không công bố tông huấn hậu thượng hội đồng, đây là loại tài liệu giáo hoàng thường được công bố sau một thượng hội đồng. Do đó, văn bản này ngay lập tức nằm trong huấn quyền của Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, ngài đã nêu rõ rằng nó không phải là chuẩn mực.

Văn kiện gồm 155 đoạn văn, chứa đựng nhiều gợi ý và đề xuất. Vấn đề về vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, được tranh luận nhiều trong những năm làm việc vừa qua, hiện đang rất cấp thiết.

Vấn đề cụ thể liên quan đến các nữ phó tế, mà Đức Giáo Hoàng đã bỏ qua trong phiên họp cuối cùng này, lại xuất hiện trong một đoạn văn, cho thấy quyết tâm của một số thành viên nhằm bảo đảm việc suy nghĩ này không bị mất đi.

Ngoài các đề xuất riêng lẻ - chẳng hạn như tổ chức một Thượng hội đồng cho Trung Đông, xem xét liệu giáo dân có thể là nhân chứng cho hôn nhân hay không, hoặc suy tư về thừa tác vụ lắng nghe - Thượng hội đồng này đặt nền tảng cho việc nhấn mạnh hơn nữa vào vai trò của giáo dân.

Văn kiện khẳng định mong muốn thấy giáo dân đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn trong việc quản lý các giáo xứ và giáo phận. Văn kiện cũng đưa ra nhiều lời kêu gọi thiết lập một nền văn hóa minh bạch trong Giáo hội, nhằm chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị và mọi loại lạm dụng.

Aleteia xem xét kỹ hơn các xu hướng và hướng đi chính mà tài liệu đề xuất.

1.Những người nam và nữ giáo dân nên tham gia nhiều hơn vào đời sống của Giáo hội

Suy tư về các phó tế nữ đã trở lại

Một chủ đề cực kỳ nhạy cảm kể từ khi bắt đầu Thượng hội đồng về tính đồng nghị, vấn đề cho phép phụ nữ được thụ phong phó tế đã không nhận được sự chấp thuận nhất trí tại hội nghị. Đoạn 60 của tài liệu cuối cùng đã gây ra nhiều sự phản đối nhất: 97 người đã bày tỏ sự phản đối của họ trong cuộc bỏ phiếu.

Đoạn văn quả quyết rằng "vấn đề về quyền tiếp cận chức phó tế của phụ nữ vẫn còn bỏ ngỏ". Theo các nguồn tin của Aleteia, tài liệu tham khảo này không có trong bản dự thảo tài liệu và do đó đã được thêm vào các sửa đổi được các thành viên Thượng hội đồng đệ trình trong tuần này. Tài liệu nêu rõ "cần phải tiếp tục phân định" về vấn đề này.

Câu hỏi này đã bị loại khỏi các cuộc tranh luận của Phiên Họp; Đức Giáo Hoàng đã giao phó các chủ đề nhạy cảm nhất của Thượng hội đồng cho 10 nhóm làm việc, những nhóm này sẽ đưa ra kết luận vào tháng 6 năm 2025, và chức phó tế nữ nằm trong số đó.

"Không có lý do hay trở ngại nào có thể ngăn cản phụ nữ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội", văn bản nêu rõ. "Phụ nữ tiếp tục gặp phải những trở ngại trong việc đạt được sự công nhận đầy đủ hơn về các đặc sủng, ơn gọi và vai trò của họ trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội".

Liên quan đến các phó tế vĩnh viễn, một chức vụ dành riêng cho nam giới, văn bản kêu gọi vai trò này được đào sâu và thúc đẩy ở những khu vực mà nó vẫn chưa được biết đến nhiều.

Các hội đồng giáo xứ bắt buộc có thành viên là giáo dân

Để khuyến khích "tăng cường sự tham gia của giáo dân nam và nữ vào các quá trình phân định của Giáo hội và tất cả các giai đoạn của quá trình ra quyết định (soạn thảo, đưa ra và xác nhận quyết định)", Thượng hội đồng kêu gọi "các cơ quan tham gia" trong Giáo hội phải có tính "bắt buộc" (điểm 104).

Những điều này được quy định trong Giáo luật và bao gồm các cơ quan như Hội đồng Mục vụ Giáo phận, Hội đồng Mục vụ Giáo xứ hoặc Hội đồng Kinh tế. Bản chất bắt buộc của biện pháp này có thể thay đổi cách quản lý của nhiều Giáo hội địa phương, mặc dù nhiều giáo hội, đặc biệt là ở phương Tây, đã có những cấu trúc như vậy.

Nhiều thừa tác vụ giáo dân hơn?

"Một Giáo hội truyền giáo theo tinh thần đồng nghị sẽ khuyến khích nhiều hình thức thừa tác vụ giáo dân hơn, tức là các thừa tác vụ không đòi hỏi bí tích Truyền chức thánh", tài liệu thúc giục trong đoạn 66.

Các thừa tác vụ này có thể bao gồm thừa tác vụ đọc sách và thừa tác vụ giúp lễ (lần lượt là người đọc sách và người giúp linh mục trong thánh lễ), gần đây cũng mở cho phụ nữ, và thừa tác vụ giáo lý viên, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức thành lập vào năm 2021.

Các mục tử được thúc giục "đáp ứng bằng sự sáng tạo và lòng dũng cảm đối với các nhu cầu của sứ mệnh" và "không chỉ trong phạm vi phụng vụ".

Một thừa tác vụ lắng nghe?

Trong số các thừa tác vụ mới mà thượng hội đồng nghiên cứu trong tháng thảo luận này có thừa tác vụ "lắng nghe và đồng hành". Trong văn kiện cuối cùng, đề xuất này không được nhất trí thông qua. Một số người phản đối, ví dụ, nói rằng đây là “nhiệm vụ của tất cả những người đã chịu phép rửa tội”. Những người khác đề xuất rằng thừa tác vụ này “nên được đặc biệt nhằm chào đón những người ở bên lề cộng đồng Giáo hội, những người trở về sau khi đã trôi dạt và những người đang tìm kiếm sự thật và mong muốn được giúp đỡ để gặp Chúa.” Các thành viên giải thích rằng cần phải có sự phân định rõ ràng hơn về vấn đề này (đoạn 78).

Giáo dân cử hành hôn nhân?

Vẫn phù hợp với cuộc thảo luận này liên quan đến các thừa tác vụ khác nhau, hội đồng đã viết rằng “cần cân nhắc việc mở rộng và ổn định” khả năng cho phép giáo dân cử hành lễ rửa tội và hôn nhân (đoạn 76). Hiện tại, điều này được phép như một ngoại lệ trong một số điều kiện chuyên biệt. (Ở phương Tây, bí tích hôn nhân được hiểu là do chính cặp đôi trao ban, với sự chứng kiến của linh mục.)

Nhiều giáo dân tham gia hơn trong phụng vụ

Các thành viên Thượng hội đồng kêu gọi thành lập một nhóm nghiên cứu mới để đánh giá mối liên hệ giữa “phụng vụ và tính đồng nghị” nhằm “áp dụng các phong cách cử hành làm nổi bật khuôn mặt của một Giáo hội đồng nghị.” Nhóm này “cũng có thể xem xét chủ đề thuyết giảng trong các nghi lễ phụng vụ”, văn bản nêu trong đoạn 27. Đoạn văn này là một trong những đoạn ít nhất trí nhất trong cuộc bỏ phiếu.

Vấn đề cho phép giáo dân thuyết giảng trong Thánh lễ nằm trong chương trình nghị sự cho các cuộc thảo luận trong tháng này tại Rome. Mặc dù không có sự đồng thuận, nhưng khi đưa ra yêu cầu này, các thành viên của Thượng hội đồng dường như muốn theo đuổi sự suy nghĩ của họ. Hiện nay, giáo luật dành quyền thuyết giảng cho các thành viên hàng giáo sĩ (giám mục, linh mục hoặc phó tế).

Phụ nữ trong các chủng viện

Văn bản kêu gọi xem xét kỹ lưỡng việc đào tạo tại chủng viện, để chuẩn bị cho các ứng viên chức linh mục theo “cách thức đồng nghị” (đoạn 148). “Cần phải có sự hiện diện đáng kể của phụ nữ”, đoạn văn nêu rõ, thu hút 40 phiếu chống.

Tài liệu đề cập đến tầm quan trọng của “việc đào tạo để có thể cộng tác với mọi người trong Giáo hội”, và cũng mời gọi thực hiện một hình thức giáo dục chung và trách nhiệm (giữa nam và nữ, và giữa các trạng thái sống khác nhau) trong các nghiên cứu thần học, bao gồm cả những người đang học để trở thành linh mục. “Do đó, việc đào tạo phải bao gồm tất cả các chiều kích của con người (trí tuệ, tình cảm, quan hệ và tâm linh)”, tài liệu nhấn mạnh.

2. Tản quyền Giáo hội

Hiểu rõ hơn về phạm vi của Giám mục Rôma

Văn bản nhấn mạnh vào vị trí đặc biệt của Giáo hoàng, nhắc lại rằng trong các sách Tin Mừng, Phêrô đã đóng “một vai trò đặc biệt” với Chúa Giêsu, đáng chú ý là trong câu chuyện về mẻ cá kỳ diệu (đoạn 109).

“Quá trình đồng nghị cũng đã xem xét lại câu hỏi về cách thức mà Giám mục Rôma thực hiện thừa tác vụ của mình”, tài liệu viết. “Là Người kế vị Thánh Phêrô, ngài có vai trò độc nhất trong việc bảo vệ kho tàng đức tin và luân lý, đảm bảo rằng các tiến trình đồng nghị hướng đến sự hiệp nhất và chứng tá (đoạn 131).”

Vấn đề bổ trợ cũng được giải quyết: “người ta có thể khởi xướng một nghiên cứu thần học và giáo luật có nhiệm vụ xác định những vấn đề cần trình lên Đức Giáo Hoàng (reservatio papalis) và những vấn đề có thể trình lên các giám mục trong Giáo hội hoặc nhóm Giáo hội của họ.”

Hiểu rõ hơn về thẩm quyền của các hội đồng giám mục

Những người tham gia thượng hội đồng cũng kêu gọi suy gẫm thêm về “quy chế thần học và pháp lý”, và làm rõ về “thẩm quyền về tín lý và kỷ luật” của các hội đồng giám mục (đoạn 125).

Tài liệu này cũng khuyến khích “một quá trình đánh giá” mối quan hệ “cụ thể” giữa Giáo triều Rôma và các giám mục địa phương để đánh giá xem có cần thực hiện cải cách hay không. Các thành viên của Thượng hội đồng đề xuất đưa những chủ đề này vào chương trình nghị sự của các chuyến viếng thăm ad limina sắp tới, tức là các chuyến viếng thăm mà tất cả các giám mục trên thế giới được cho là sẽ thực hiện tại Rome năm năm một lần.

Văn kiện này cũng kêu gọi làm rõ hơn về "tình trạng thần học và giáo luật" của các hội đồng lục địa và các hội đồng giáo hội lục địa, bao gồm cả giáo dân. Những người tham gia yêu cầu các cơ quan này được tăng cường theo "di sản" mà họ để lại với những trải nghiệm tích cực của tiến trình đồng nghị.

Những người tham gia cũng kêu gọi khôi phục lại "các hội đồng đặc thù" mà họ coi là một công cụ để "phân quyền lành mạnh" (đoạn 129). Giáo Hội Công Giáo tại Úc đã tiến hành một thử nghiệm như vậy từ năm 2018 đến năm 2022, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lạm dụng.

Các cơ quan "nghị bàn" cùng với các giám mục?

Các thành viên của Thượng hội đồng rất muốn nhấn mạnh giá trị của các hội đồng tham vấn. Trong đoạn 92, một trong những đoạn gây tranh cãi nhất trong quá trình bỏ phiếu cho văn kiện sau cùng, có nêu rằng khi các hội đồng như vậy đưa ra sự phân định đúng đắn, thì chúng không nên bị thẩm quyền giám mục bỏ qua.

Trong khi thừa nhận rằng giám mục vẫn giữ quyền ra quyết định, họ kêu gọi sửa đổi giáo luật để đề cao hơn khía cạnh "nghị bàn" [deliberative] chứ không chỉ là khía cạnh tham vấn của các cơ quan như vậy.

Các giám mục nên ủy quyền nhiều hơn

“Điều quan trọng là giúp các tín hữu tránh những kỳ vọng quá mức và không thực tế vào giám mục, hãy nhớ rằng ngài cũng là một người anh em yếu đuối, dễ bị cám dỗ, cần được giúp đỡ như mọi người khác”, tài liệu của Thượng hội đồng nhấn mạnh trong đoạn 71. “Một hình ảnh lý tưởng về thừa tác vụ của giám mục có thể cản trở bản chất đôi khi yếu đuối của thừa tác vụ của ngài. Mặt khác, thừa tác vụ của ngài được nâng cao rất nhiều khi, trong một Giáo hội thực sự theo tinh thần đồng nghị, thừa tác vụ được hỗ trợ bởi sự tham gia tích cực của toàn thể dân Chúa”.

Rộng hơn, Thượng hội đồng kêu gọi “một sự phân định can đảm hơn về những gì thực sự thuộc về thừa tác vụ và những gì có thể và phải được ủy quyền cho người khác” (đoạn 74). Sự phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm này sẽ giúp chống lại tình trạng lạm dụng dưới mọi hình thức như “tình dục hoặc kinh tế” hoặc “lương tâm và quyền lực, bởi các mục tử của Giáo hội”.

Sự liên đới có cấu trúc tốt hơn giữa các giáo hội

Tài liệu này liên tục sử dụng cụm từ “trao đổi hồng ân” để khuyến khích các giáo hội địa phương hỗ trợ lẫn nhau theo điểm mạnh và điểm yếu của họ. Đặc biệt, văn bản hoan nghênh các hình thức hợp tác mới của giáo hội đang nổi lên “trong các khu vực địa lý xuyên quốc gia và liên văn hóa rộng lớn như Amazon, lưu vực sông Congo và Biển Địa Trung Hải”.

Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ khác nhau cần được định hình tốt hơn, đặc biệt là liên quan đến phong trào linh mục. “Các linh mục giúp đỡ các Giáo hội đang thiếu hụt giáo sĩ không chỉ là biện pháp khắc phục chức năng mà còn là nguồn lực cho sự phát triển của Giáo hội gửi họ và nơi tiếp nhận họ”, văn bản nhấn mạnh. “Tương tự như vậy, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành chủ nghĩa phúc lợi, mà thúc đẩy tình liên đới truyền giáo và được quản lý theo cách minh bạch và đáng tin cậy” (đoạn 121).

3. Một nền văn hóa minh bạch và đánh giá để chống lạm dụng

Tiếp tục cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội

Trong một số trường hợp, văn bản cuối cùng đề cập đến “vụ tai tiếng” về các vụ lạm dụng xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo. Để đáp lại, các thành viên của Thượng hội đồng nhấn mạnh vào nền văn hóa bảo vệ, để Giáo hội luôn là nơi an toàn cho trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương (đoạn 150).

Ghi nhận những nỗ lực đã thực hiện trong cuộc chiến chống lạm dụng, những người tham gia Thượng hội đồng kêu gọi Giáo hội tiếp tục con đường này, và đặc biệt là đào tạo bắt buộc cho tất cả những người làm việc với trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương trong Giáo hội. Ở cấp địa phương, tài liệu cũng kêu gọi lập báo cáo thường niên về các sáng kiến bảo vệ.

Minh bạch chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị

Quản trị minh bạch sẽ giúp chống lại nền văn hóa giáo sĩ trị, các thành viên Thượng hội đồng giải thích trong văn bản. “Minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ nên được áp dụng khi nói đến lạm dụng tình dục, tài chính và các hình thức lạm dụng khác. Những thực hành này cũng liên quan đến lối sống của các mục tử, kế hoạch mục vụ, phương pháp truyền giáo và cách Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, ví dụ, liên quan đến điều kiện làm việc trong các tổ chức của mình”, đoạn 98 của tài liệu sau cùng nêu rõ.

Tiếp theo, văn bản nhấn mạnh đến sự tham gia của “các thành viên có năng lực” vào việc lập kế hoạch mục vụ và kinh tế của các Giáo hội địa phương. Về việc tạo ra một nền văn hóa có trách nhiệm, Phiên họp Thượng hội đồng nhấn mạnh đến việc lập các báo cáo thường niên, đặc biệt là về các vấn đề tài chính.

Đánh giá các nỗ lực theo hướng đồng nghị

Các thành viên Thượng hội đồng có kế hoạch đánh giá “tiến trình đạt được theo hướng đồng nghị và sự tham gia của tất cả những người đã chịu phép rửa tội vào đời sống của Giáo hội”. Tài liệu sau cùng khuyên các Hội đồng Giám mục xác định những người có khả năng đồng hành với phong trào này, liên lạc với Văn phòng Tổnt thư ký Thượng hội đồng tại Rome. Nói rộng hơn, họ khuyến nghị rằng các thủ tục được đưa ra để “đánh giá định kỳ tất cả các thừa tác vụ và vai trò trong Giáo hội”.

4. Tập chú vào người khuyết tật và các Giáo hội Đông phương

Một Thượng hội đồng về các Giáo hội Đông phương?

“Phiên họp [Thượng hội đồng] đề xuất Đức Thánh Cha triệu tập một Thượng hội đồng đặc biệt để thúc đẩy việc củng cố và tái phát triển các Giáo Hội Công Giáo Đông phương”, tài liệu nêu trong đoạn 133. Năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã triệu tập một Thượng hội đồng cho Trung Đông, nhưng tình hình của các Giáo hội này đã thay đổi đáng kể sau hơn một thập niên khủng hoảng lớn trong khu vực.

Tài liệu sau cùng cũng đề xuất thành lập một “Hội đồng các Thượng phụ, Tổng giám mục và Giám mục Đô thị của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương do Đức Giáo Hoàng chủ trì”.

Cuối cùng, tài liệu kêu gọi tạo ra các công cụ để hỗ trợ sự hợp tác giữa các Giáo Hội Công Giáo Latinh và Đông phương, đặc biệt liên quan đến những người Công Giáo Đông phương lưu vong ở các quốc gia có truyền thống Latinh. Điều này sẽ giúp bảo vệ truyền thống của họ và thúc đẩy “trao đổi hồng ân”.

Một trung tâm nghiên cứu về khuyết tật

Văn bản cũng kêu gọi thành lập một “trung tâm nghiên cứu về khuyết tật dựa trên Giáo hội” trong đoạn 63. Các thành viên của Thượng hội đồng mạnh mẽy lên án mọi sự phân biệt đối xử với người khuyết tật và kêu gọi coi trọng họ như “những tác nhân tích cực của công cuộc truyền giáo”.

“Chúng tôi thừa nhận những trải nghiệm đau khổ, bị gạt ra ngoài lề và bị phân biệt đối xử của [những người khuyết tật], đôi khi ngay cả trong cộng đồng Kitô giáo cũng phải chịu đựng do những nỗ lực thể hiện lòng trắc ẩn có thể mang tính cha chú”, văn bản giải thích.

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

CONCLUSION OF THE ORDINARY GENERAL ASSEMBLY OF THE SYNOD OF BISHOPS - HOMILY OF THE HOLY FATHER FRANCIS

 


CONCLUSION OF THE ORDINARY GENERAL ASSEMBLY OF THE SYNOD OF BISHOPS

HOLY MASS

PAPAL CHAPEL

HOMILY OF THE HOLY FATHER FRANCIS

Saint Peter's Basilica
XXX Sunday in Ordinary Time, 27 October 2024

[Multimedia]

_________________________________________

Today’s Gospel presents us with Bartimaeus, a blind man forced to beg at the side of the road, an outcast lacking hope. Yet, when he heard Jesus passing by, he began to shout after him. All Bartimaeus could do was to cry out in pain to Jesus and express his desire that he might regain his sight. While others were troubled by his cries and rebuked him, Jesus paused. For God always hears the cry of the poor, and no cry of pain goes unheard by him.

Today, at the conclusion of the General Assembly of the Synod of Bishops, with our hearts filled with gratitude for the moments we have shared, let us reflect on what happened to Bartimaeus. Initially he was “sitting by the roadside” (Mk 10:46), but by the end he was called by Jesus, recovered his sight and “followed him on the way” (v. 52).

The first thing that the Gospel tells us about Bartimaeus is that he was begging by the roadside. His position is typical of someone who sits by the side of a road, caught up in his own grief, as if there were nothing else to do but receive something from the many pilgrims passing through the city of Jericho as Passover drew near. Yet, as we know, if we are truly to live, we cannot remain seated. Life entails being on the move, setting out, dreaming, planning, opening up to the future. Blind Bartimaeus, then, represents that inner blindness which restrains us, keeps us stuck in one place, holds us back from the dynamism of life and destroys our hope.

This can help us reflect not only on our own lives, but also on what it means to be the Lord’s Church. So many things along the way can make us blind, incapable of perceiving the presence of the Lord, unprepared to face the challenges of reality, sometimes unable to offer adequate responses to the questions of so many who cry out to us, as Bartimaeus did to Jesus. We cannot remain inert before the questions raised by the women and men of today, before the challenges of our time, the urgency of evangelization and the many wounds that afflict humanity. Sisters and brothers, we cannot afford to sit back. A sedentary Church, that inadvertently withdraws from life and confines itself to the margins of reality, is a Church that risks remaining blind and becoming comfortable with its own unease. If we remain stuck in our blindness, we will continuously fail to grasp the urgency of giving a pastoral response to the many problems of our world. Let us ask the Lord to send us the Holy Spirit, so that we do not sit in our blindness, which in other words can be a worldliness, complacency, or closed heart. We cannot stay sitting in our blindness.

Yet, we should remember that the Lord passes by every day. The Lord always passes by and pauses in order to attend to our blindness. We should ask ourselves, “Do I hear him passing by? Do I have the capacity to hear the Lord’s footsteps? Do I have the capacity to discern when the Lord is passing by?” It is good if the Synod is urging us as a Church to be like Bartimaeus: a community of disciples who, hearing that the Lord is passing by, feel the joy of salvation, allow ourselves to be awakened by the power of the Gospel, and to cry out to him. The Church does this when it takes up the cry of all the women and men of the world, of those who wish to discover the joy of the Gospel, and of those who have turned away; the silent cry of those who are indifferent; the cry of those who suffer, of the poor and marginalized, of children who are enslaved in so many parts of the world for work; the broken voice of those who no longer have the strength to cry out to God, either because they have no voice or because they are in despair. We do not need a sedentary and defeatist Church, but a Church that hears the cry of the world – I wish to say this even if some might be scandalised – a Church that gets its hands dirty in serving.

Thus, we come to the second aspect. The Gospel tells us that if initially Bartimaeus was seated, at the end we see him following Jesus along the road.  This is a typical expression in the Gospel, meaning that he has become the Lord’s disciple and has followed in his footsteps. When the beggar cried out to him, Jesus stopped and called for him. Bartimaeus, from where he was sitting, jumped up on his feet and immediately afterwards regained his sight. Now he can see the Lord; he can recognize God’s action in his life and finally set out to follow him. Let us do likewise. Whenever we are seated and settled, when as a Church we cannot find the strength, the courage or the boldness to arise and continue along the way, let us always remember to return to the Lord and his Gospel. We always need to return to the Lord and the Gospel. As he passes by again and again, we need to listen to his call so that we can get back on our feet and he can heal our blindness; and then we can follow him once more, and walk with him along the way.

I would like to reiterate that the Gospel says of Bartimaeus that he “followed him on the way”. This is an image of the synodal Church. The Lord is calling us, lifting us up when we are seated or fallen down, restoring our sight so that we can perceive the anxieties and sufferings of the world in the light of the Gospel. And when the Lord puts us back on our feet, we experience the joy of following him on the way. We follow the Lord along the way, we do not follow him enclosed in our comforts or we do not follow him in the mazes of our minds. We follow him only along the way. Let us remember never to walk alone or according to worldly criteria, but to walk on the way alongside him.

Brothers and sisters, not a seated Church, but a Church on her feet. Not a silent Church, but a Church that embraces the cry of humanity. Not a blind Church, but a Church, enlightened by Christ, that brings the light of the Gospel to others. Not a static Church, but a missionary Church that walks with her Lord through the streets of the world.

Today, as we give thanks to the Lord for the journey we have made together, we will be able to see and venerate the relic of the carefully restored ancient Chair of Saint Peter. As we contemplate it with the wonder of faith, let us remember that this is the Chair of love, unity and mercy, according to Jesus’ command to the Apostle Peter not to lord it over others, but to serve them in charity. And, as we admire the majestic Bernini Baldachin, more sublime than ever, we can rediscover that it frames the true focal point of the entire basilica, namely the glory of the Holy Spirit. This is the synodal Church: a community whose primacy lies in the gift of the Spirit, who makes us all brothers and sisters in Christ and raises us up to him.

Sisters and brothers, let us therefore continue our journey together with confidence. Today, the word of God speaks to us, as to Bartimaeus: “Take heart; get up, he is calling you”. Do I feel called? Do I feel weak and cannot get up? Do I call for help? Let us throw off the cloak of resignation; let us entrust our blindness to the Lord; let us stand once more and carry the joy of the Gospel through the streets of the world.




Copyright © Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana

 

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ TRONG THÁNH LỄ BẾ MẠC THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ

 


Bài Giảng Của Đức Thánh Cha Phanxicô Trong Thánh Lễ Bế Mạc Thượng Hội Đồng Về Tính Đồng Nghị

Vũ Văn An27/Oct/2024

 


Theo tin Tòa Thánh, ngày 27 tháng 10, 2024, Đức Phanxicô đã chủ trì Thánh Lễ tại Nhà Nguyện Giáo Hoàng trong Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô nhân dịp bế mạc Phiên họp thường lệ lần thứ 16 của Thượng hội đồng Giám mục về tính đồng nghị kéo dài từ 2021 tới nay. Nhân dịp này ngài đã giảng bài giảng sau đây, căn cứ vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh.

Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về Bartimaeus, một người mù bị bắt phải ăn xin bên vệ đường, một kẻ bị ruồng bỏ không còn hy vọng. Tuy nhiên, khi nghe thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta bắt đầu la lên với Người. Tất cả những gì Bartimaeus có thể làm là kêu lên đau đớn với Chúa Giêsu và bày tỏ mong muốn được nhìn thấy lại. Trong khi những người khác bối rối vì tiếng la của anh ta và khiển trách anh ta, Chúa Giêsu đã dừng lại. Vì Thiên Chúa luôn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, và không có tiếng kêu đau đớn nào mà Người không lắng nghe.

Hôm nay, khi bế mạc Phiên họp Toàn thể của Thượng hội đồng giám mục, với lòng tràn đầy biết ơn về những khoảnh khắc chúng ta đã chia sẻ, chúng ta hãy cùng suy gẫm về những gì đã xảy ra với Bartimaeus. Ban đầu, anh ta “ngồi bên vệ đường” (Mc 10:46), nhưng đến cuối cùng, anh ta được Chúa Giêsu gọi, phục hồi thị lực và “đi theo Người trên đường” (c. 52).

Điều đầu tiên mà Tin Mừng kể cho chúng ta về Bartimaeus là anh ta đang ăn xin bên vệ đường. Tư thế của anh ta giống như một người ngồi bên vệ đường, chìm đắm trong nỗi đau của chính mình, như thể không còn việc gì khác để làm ngoài việc nhận thứ gì đó từ nhiều người hành hương đi qua thành phố Jericho khi Lễ Vượt qua đang đến gần. Tuy nhiên, như chúng ta biết, nếu chúng ta thực sự muốn sống, chúng ta không thể ngồi yên một chỗ. Cuộc sống đòi hỏi phải di chuyển, lên đường, mơ ước, lập kế hoạch, mở ra tương lai. Vậy thì, người mù Bartimaeus tượng trưng cho sự mù quáng bên trong kìm hãm chúng ta, khiến chúng ta bị kẹt ở một nơi, ngăn cản chúng ta khỏi sự năng động của cuộc sống và phá hủy hy vọng của chúng ta.

Điều này có thể giúp chúng ta suy gẫm không những về cuộc sống của chính mình mà còn về ý nghĩa của việc trở thành Giáo hội của Chúa. Có quá nhiều thứ trên đường đi có thể khiến chúng ta mù quáng, không có khả năng nhận ra sự hiện diện của Chúa, không chuẩn bị để đối diện với những thách thức của thực tại, đôi khi không thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi của rất nhiều người đang kêu cầu chúng ta, như Bartimaeus đã làm với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể tiếp tục thụ động trước những câu hỏi mà những người đàn bà và đàn ông ngày nay nêu ra, trước những thách thức của thời đại chúng ta, sự cấp bách của công cuộc truyền giáo và nhiều vết thương đang hành hạ nhân loại. Thưa anh chị em, chúng ta không thể ngồi yên. Một Giáo hội thụ động, vô tình rút lui khỏi cuộc sống và tự giới hạn mình vào bên lề của thực tại, là một Giáo hội có nguy cơ vẫn mù quáng và trở nên thoải mái với sự bất an của chính mình. Nếu chúng ta vẫn mắc kẹt trong sự mù quáng của mình, chúng ta sẽ liên tục không nắm bắt được tính cấp thiết của việc đưa ra phản ứng mục vụ cho nhiều vấn đề của thế giới chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để chúng ta không ngồi trong sự mù quáng của mình, nói cách khác có thể là sự thế tục, sự tự mãn hoặc trái tim khép kín. Chúng ta không thể ngồi yên trong sự mù quáng của mình.

Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng Chúa đi qua mỗi ngày. Chúa luôn đi qua và dừng lại để chăm sóc sự mù quáng của chúng ta. Chúng ta nên tự hỏi, "Tôi có nghe thấy Chúa đi qua không? Tôi có khả năng nghe thấy tiếng bước chân của Chúa không? Tôi có khả năng phân định khi Chúa đi qua không?" Thật tốt nếu Thượng hội đồng thúc giục chúng ta với tư cách là một Giáo hội hãy giống như Bartimaeus: một cộng đồng các môn đệ, khi nghe thấy Chúa đang đi qua, cảm thấy niềm vui cứu rỗi, cho phép bản thân được đánh thức bởi sức mạnh của Tin Mừng và kêu cầu Người. Giáo hội làm điều này khi đón nhận tiếng kêu của tất cả đàn bà và đàn ông trên thế giới, của những người muốn khám phá niềm vui của Tin Mừng, và của những người đã quay lưng; tiếng kêu thầm lặng của những người thờ ơ; tiếng kêu của những người đau khổ, của người nghèo và người bị thiệt thòi, của trẻ em bị bắt làm nô lệ ở rất nhiều nơi trên thế giới để làm việc; tiếng nói tan vỡ của những người không còn sức lực để kêu lên với Chúa, hoặc vì họ không có tiếng nói hoặc vì họ đang tuyệt vọng. Chúng ta không cần một Giáo hội thụ động và bi quan, mà là một Giáo hội lắng nghe tiếng kêu của thế giới - tôi muốn nói điều này ngay cả khi một số người có thể bị xúc phạm - một Giáo hội làm bẩn tay mình trong việc phục vụ.

Vì vậy, chúng ta đến với khía cạnh thứ hai. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng nếu ban đầu Bartimaeus ngồi, thì đến phút cuối chúng ta thấy anh ta đi theo Chúa Giêsu trên đường. Đây là một cách diễn đạt điển hình trong Tin Mừng, có nghĩa là anh ta đã trở thành môn đệ của Chúa và đã đi theo bước chân của Người. Khi người ăn xin kêu lên với Người, Chúa Giêsu dừng lại và gọi anh ta. Bartimaeus, từ chỗ ngồi của mình, nhảy lên và ngay sau đó lấy lại được thị lực. Bây giờ anh ta có thể nhìn thấy Chúa; anh ta có thể nhận ra hành động của Chúa trong cuộc sống của mình và cuối cùng lên đường theo Người. Chúng ta hãy làm như vậy. Bất cứ khi nào chúng ta ngồi xuống và ổn định, khi với tư cách là một Giáo hội, chúng ta không thể tìm thấy sức mạnh, lòng can đảm hoặc sự táo bạo để đứng dậy và tiếp tục trên con đường, chúng ta hãy luôn nhớ quay trở lại với Chúa và Tin Mừng của Người. Chúng ta luôn cần quay trở lại với Chúa và Tin Mừng. Khi Người đi qua hết lần này đến lần khác, chúng ta cần lắng nghe tiếng gọi của Người để chúng ta có thể đứng dậy và Người có thể chữa lành sự mù lòa của chúng ta; và rồi chúng ta có thể một lần nữa theo Người, và đồng hành cùng Người trên đường đi.

Tôi muốn nhắc lại rằng Tin Mừng nói về Bartimaeus rằng ông “đã theo Người trên đường đi”. Đây là hình ảnh của Giáo hội đồng nghị. Chúa đang gọi chúng ta, nâng chúng ta lên khi chúng ta ngồi hoặc ngã xuống, phục hồi thị lực của chúng ta để chúng ta có thể cảm nhận được những lo lắng và đau khổ của thế giới dưới ánh sáng của Tin Mừng. Và khi Chúa đặt chúng ta đứng dậy, chúng ta trải nghiệm niềm vui khi theo Người trên đường đi. Chúng ta theo Chúa trên đường đi, chúng ta không theo Người trong sự thoải mái của mình hoặc chúng ta không theo Người trong mê cung của tâm trí mình. Chúng ta chỉ theo Người trên đường đi. Chúng ta hãy nhớ rằng đừng bao giờ bước đi một mình hoặc theo các tiêu chuẩn thế gian, nhưng hãy bước đi trên đường cùng với Người.

Thưa anh chị em, không phải là một Giáo hội ngồi, mà là một Giáo hội đứng dậy. Không phải là một Giáo hội im lặng, mà là một Giáo hội ôm lấy tiếng kêu của nhân loại. Không phải là một Giáo hội mù quáng, mà là một Giáo hội được Chúa Kitô soi sáng, mang ánh sáng Tin Mừng đến cho người khác. Không phải là một Giáo hội tĩnh tại, mà là một Giáo hội truyền giáo đồng hành cùng Chúa trên khắp các nẻo đường của thế giới.

Hôm nay, khi chúng ta tạ ơn Chúa vì hành trình chúng ta đã cùng nhau thực hiện, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy và tôn kính thánh tích của Ngai tòa Thánh Phêrô cổ xưa đã được phục hồi cẩn thận. Khi chúng ta chiêm ngưỡng nó với sự ngạc nhiên của đức tin, chúng ta hãy nhớ rằng đây là Ngai tòa của tình yêu, sự hiệp nhất và lòng thương xót, theo lệnh truyền của Chúa Giêsu với Tông đồ Phêrô là không được thống trị người khác, nhưng phải phục vụ họ trong đức ái. Và, khi chúng ta chiêm ngưỡng Bernini Baldachin uy nghiêm, cao cả hơn bao giờ hết, chúng ta có thể khám phá lại rằng nó đóng khung điểm tập trung thực sự của toàn bộ Vương cung thánh đường, cụ thể là vinh quang của Chúa Thánh Thần. Đây là Giáo hội đồng nghị: một cộng đồng mà quyền tối thượng nằm ở hồng ân Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho tất cả chúng ta trở thành anh chị em trong Chúa Kitô và nâng chúng ta lên với Người.

Thưa anh chị em, vì vậy chúng ta hãy cùng nhau tiếp tục hành trình của mình với sự tin tưởng. Hôm nay, Lời Chúa nói với chúng ta, như với Bartimaeus: “Hãy can đảm; hãy đứng dậy, Người đang gọi anh”. Tôi có cảm thấy được gọi không? Tôi có cảm thấy yếu đuối và không thể đứng dậy không? Tôi có kêu cứu không? Chúng ta hãy cởi bỏ chiếc áo choàng của sự cam chịu; chúng ta hãy phó thác sự mù quáng của mình cho Chúa; chúng ta hãy đứng lên một lần nữa và mang niềm vui của Tin Mừng qua các con phố của thế giới.

 

https://vietcatholic.net/News/Html/292457.htm

 

CUỐI CÙNG, ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ ĐÃ ĐƯA THƯỢNG HỘI ĐỒNG CỦA MÌNH ĐẾN MỘT SỰ HẠ CÁNH NHẸ NHÀNG

 


Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa thượng hội đồng của mình đến một sự hạ cánh nhẹ nhàng

Vũ Văn An  27/Oct/2024

John L. Allen Jr. Của tạp chí Crux, ngày 27 tháng 10 năm 2024, nhận định rằng ngay từ đầu, một trong những cáo buộc dai dẳng nhất chống lại Thượng Hội đồng Giám mục về Tính đồng nghị của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, được tiến hành vào năm 2021 và kết thúc vào đêm qua tại Rome, là thượng hội đồng này được xếp đầy những tiếng nói tiến bộ, tạo ra cảm giác không đại diện cho toàn bộ ý kiến Công Giáo hoàn cầu.

Để trích dẫn một ví dụ cổ điển, các nhà phê bình đã lưu ý rằng rất nhiều người ủng hộ một hàng nữ giáo sĩ và hoạt động tiếp cận LGBTQ+ đã được đưa vào danh sách các đại biểu chính thức, nhưng không có người sùng Thánh lễ La tinh truyền thống và một số ít người phò sinh nổi tiếng nào. (Đáng chú ý là từ "phá thai" không bao giờ xuất hiện trong tài liệu kết luận dài 52 trang.)

Một cái nhìn hời hợt về cuộc bỏ phiếu thông cho tài liệu sau cùng, được thông qua vào tối thứ Bảy, có thể ủng hộ ấn tượng về một sự tuân thủ sai lầm. Hầu hết 155 đoạn văn của nó đã được thông qua bởi đa số áp đảo trong số 355 người tham gia bỏ phiếu, với kết quả điển hình là 352-3 hoặc 350-5.

Trường hợp duy nhất mà phiếu "có" giảm xuống dưới 300 là đối với đoạn 60, liên quan đến các phó tế nữ, nhưng ngay cả 97 phiếu chống mà nó thu được cũng không nhất thiết đại diện cho một sổ đăng ký bất đồng chính kiến bảo thủ.

Hãy xem xét cách diễn đạt: "Câu hỏi về quyền tiếp cận chức phó tế của phụ nữ vẫn còn bỏ ngỏ. Sự phân định này cần phải tiếp tục." Điều đó có thể làm phật lòng một người bảo thủ thích câu trả lời "không" thẳng thắn, nhưng nó cũng có thể làm phật lòng một người cấp tiến thất vọng với tất cả những lời bàn tán và tin rằng đã đến lúc phải bóp cò.

Tinh thần thiên tả của Thượng hội đồng có lẽ rõ ràng nhất vào ngày 24 tháng 10, khi Hồng Y người Argentina Victor Manuel Fernandez, Tổng trưởng Bộ Đức tin của Vatican, đã tổ chức một cuộc họp công khai với khoảng 100 người tham gia để thảo luận về vai trò của phụ nữ, bao gồm một tuyên bố trước đó của ĐHY Fernandez rằng "vẫn chưa có chỗ cho một quyết định tích cực" về chức phó tế nữ.

Để rõ hơn, ĐHY Fernandez khó lòng cho bất cứ ai đó nghĩ là một người theo chủ nghĩa truyền thống. Ngài là người viết bí mật của Amoris Laetitia năm 2016, mở ra một cánh cửa thận trọng cho phép những người Công Giáo đã ly hôn và tái hôn dân sự được rước lễ, và là người soạn thảo chính thức Fiducia Supplicans, văn bản tháng 12 năm 2023 cho phép ban phước lành cho những người trong mối quan hệ đồng tính.

Tuy nhiên, ngài đã buộc phải dành phần lớn thời gian thảo luận kéo dài một tiếng rưỡi vào thứ năm tuần trước để thuyết phục những người nổi loạn của Thượng hội đồng rằng ngài đủ cấp tiến.

(Chúng tôi biết nội dung của cuộc thảo luận này vì Vatican đã công bố bản ghi âm về cuộc thảo luận này, mặc dù thông tin chung về các cuộc thảo luận nội bộ của Thượng hội đồng đã bị che giấu.)

Trong suốt cuộc thảo luận, ĐHY Fernandez đã trả lời tổng cộng 12 câu hỏi, hầu hết trong số đó, ở một mức độ nào đó, đều mang tính chỉ trích.

Ví dụ, một người đặt câu hỏi tại sao trong số mười nhóm nghiên cứu do Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập để xem xét các vấn đề nhạy cảm do Thượng hội đồng nêu ra, nhóm giải quyết các vấn đề về thừa tác vụ, bao gồm cả các phó tế nữ, lại là nhóm duy nhất được giao cho một bộ phận của Vatican, cho rằng đây không phải là một sự sắp xếp "thượng hội đồng" thực sự.

Một người khác chế giễu khi hỏi về những tuyên bố lặp đi lặp lại rằng các điều kiện chưa "trưởng thành" để giải quyết vấn đề về các phó tế nữ. Ngài nói rằng với trái cây, người ta xác định được sự chín mùi bằng cách nhìn vào màu sắc, mùi thơm và kết cấu. Ngài hỏi, đâu là các định mốc cho giáo hội? Nếu không có những tiêu chuẩn rõ ràng như vậy, ngài cảnh cáo, "Chúng ta có thể làm điều này trong suốt quãng đời còn lại của mình". (Câu đó chỉ nhận được một trong ba tràng pháo tay trong phiên họp.)

Một người đặt câu hỏi khác lưu ý rằng một nghiên cứu năm 1997 của Ủy ban Thần học Quốc tế ủng hộ ý tưởng về nữ phó tế chưa bao giờ được công bố và cho biết "có nghi ngờ điều gì đó tương tự" đang diễn ra hiện nay.

Người đặt câu hỏi cuối cùng chỉ ra quyết định gần đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc mở các thừa tác vụ giúp lễ, đọc sách và dạy giáo lý cho phụ nữ, nói rằng khi ông bắt đầu làm việc trong giáo hội cách đây nhiều thập niên, cộng đồng địa phương của ông đã có phụ nữ đảm nhiệm những vai trò đó. Ông tự hỏi, chúng ta sẽ phải đợi bao lâu nữa để Đức Giáo Hoàng và Vatican thừa nhận rằng một lần nữa, họ đã chậm năm mươi năm?

Trong suốt buổi họp, ĐHY Fernandez thường có vẻ hơi phòng thủ, cố gắng đảm bảo với mọi người rằng ông không phải là viên chức Vatican khuôn mẫu của những năm trước.

"Tôi không nổi tiếng trong giáo hội vì bị mắc kẹt ở thời Trung cổ", ngài nhấn mạnh vào cuối buổi họp. "Bạn có thể thoải mái, biết rằng tôi có một trái tim rộng mở để nhìn thấy Chúa Thánh Thần đưa chúng ta đến đâu".

Với tất cả những điều đó, câu hỏi thực sự về thượng hội đồng năm 2024 có thể là làm thế nào mà một hội nghị có vẻ lệch lạc như vậy lại tạo ra một kết quả về cơ bản là thận trọng và không mang tính cách mạng. Khi xem xét tài liệu cuối cùng, về hầu hết các điểm, có vẻ như nó hết sức khổ công cố gắng tạo ra sự cân bằng giữa đổi mới và tính liên tục, và không bao giờ thực sự ủng hộ sự thay đổi triệt để trên bất cứ mặt trận nào. Thực thế, trận động đất mà nhiều người mong đợi cách đây ba năm hóa ra lại là một cơn chấn động nhỏ.

Một lời giải thích có thể là nhóm thiểu số bảo thủ hơn trong thượng hội đồng đã đấm quá trọng lượng của mình, một lời giải thích khác là sự mệt mỏi chung của những người tham gia với các lập luận nổ ra lần trước và mong muốn kết thúc bằng một nốt nhạc hòa bình. Tuy nhiên, phần lớn, người ta phải nói rằng chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô là người đã đưa Thượng hội đồng đến một sự hạ cánh nhẹ nhàng này, loại bỏ hầu hết các vấn đề nóng hổi khỏi bàn đàm phán và gửi đi những tín hiệu rằng ngài muốn tập trung vào hành trình chứ không phải đích đến.

Đức Giáo Hoàng cũng tuyên bố vào tối thứ Bảy rằng không giống như các Thượng hội đồng trước đây, lần này sẽ không có tông huấn nào để đưa ra kết luận - tài liệu cuối cùng sẽ tự đứng vững như một hành động kết thúc. Theo cách này, Đức Giáo Hoàng đã loại bỏ khả năng các nhà hoạt động thất vọng vì thiếu đột phá từ Thượng hội đồng có thể hy vọng nhận được chúng từ Đức Giáo Hoàng.

Về lý do tại sao Đức Giáo Hoàng lại chọn con đường này, có nhiều lời giải thích khác nhau. Có lẽ điển hình Con đường Đồng nghị Đức, với nguy cơ có vẻ thực sự ly giáo, đã đưa ra một cảnh cáo; có lẽ Đức Giáo Hoàng không muốn năm thánh vào năm 2025 bị lu mờ bởi những câu chuyện về một cuộc nội chiến Công Giáo.

Dù lý do là gì, Đức Phanxicô đã tạo ra một kết cục cho hội đồng của mình mà có thể không khuấy động trí tưởng tượng của bất cứ ai, nhưng cũng sẽ không tạo ra nhiều đường đứt gãy mới. Nói cách khác, phe bảo thủ của giáo hội có thể không được đại diện tốt trong hội trường của thượng hội đồng, nhưng có vẻ như họ đã hiện diện trong các tính toán của người sáng lập ra thượng hội đồng.

Vậy, kết quả của thượng hội đồng có phải là một sự thất vọng - một trường hợp ra đi trong tiếng rên rỉ thay vì một tiếng hô vang? Có lẽ vậy, mặc dù có một góc nhìn khác cần xem xét. Trong một thời đại chia rẽ và phân cực sâu sắc, sự kiện Giáo Hội Công Giáo có thể dàn dựng một cuộc tham vấn lớn như vậy và bằng cách nào đó vẫn xoay xở để giữ mọi người lại với nhau vào cuối cùng, ngay cả khi không ai hoàn toàn hài lòng, phải được coi là một phép lạ nhỏ - và, nghĩ lại thì, có lẽ không quá nhỏ gì.

 

https://vietcatholic.net/News/Html/292465.htm

10 CÂU HỎI VỀ VĂN KIỆN CUỐI CÙNG CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG VỀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ

 


10 câu hỏi về văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị

Vũ Văn An  27/Oct/2024

Jonathan Liedl của tạp chí mạng National Catholic Register, ngày 27 tháng 10 năm 2024, tường trình rằng hôm thứ Bảy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra quyết định chưa từng có là chấp nhận văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị như là giáo huấn có thẩm quyền của Giáo hội.

Văn bản dài 52 trang này bao gồm một bài suy tư thần học về bản chất của tính đồng nghị, được cho là sự hoàn thành các cải cách của Công đồng Vatican II, cũng như các đề xuất về cách áp dụng tính đồng nghị vào các mối quan hệ, cấu trúc và quy trình trong Giáo Hội Công Giáo.

Mục tiêu cuối cùng là làm cho Giáo hội hiệu quả hơn trong việc truyền giáo bằng cách làm cho nó có tính tham gia và bao trùm hơn.

Sau đây là câu trả lời cho những câu hỏi lớn về văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị:

1. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã biến văn kiện này thành văn kiện mang tính giáo huấn như thế nào?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức phê chuẩn văn kiện cuối cùng sau khi các thành viên của Thượng hội đồng bỏ phiếu thông qua. Theo những cải cách mà ngài đã thực hiện vào năm 2018, văn bản cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị do đó là một phần trong giáo huấn thông thường của ngài.

Quyết định này là một sự thay đổi so với thông lệ trước đây, theo đó Đức Giáo Hoàng thường sử dụng văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng làm cơ sở để soạn thảo tông huấn của riêng mình về chủ đề này (hãy nghĩ đến Amoris Laetitia sau Thượng hội đồng về Gia đình năm 2015). Thực tế là một cơ quan Thượng hội đồng có 27% thành viên là những người không phải giám mục vừa mới đưa ra một văn bản mang tính giáo huấn chắc chắn sẽ khiến các nhà thần học và chuyên gia giáo luật có nhiều điều để nói.

2. Văn kiện này liên quan đến Công đồng Vatican II như thế nào?

Văn kiện nói rằng Thượng hội đồng về tính đồng nghị là sản phẩm của việc “thực hành những gì công đồng đã dạy về Giáo hội như một mầu nhiệm và Giáo hội như dân Thiên Chúa”.

Do đó, tài liệu cho biết, tiến trình đồng nghị “cấu thành một hành động tiếp nhận đích thực” Công đồng Vatican II, “do đó làm hồi sinh sức mạnh tiên tri của nó đối với thế giới ngày nay”.

3. Báo cáo cuối cùng nói gì về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội (bao gồm cả điều gọi là “nữ phó tế”)?

Văn bản cuối cùng nói rằng phụ nữ “tiếp tục gặp phải những trở ngại” trong việc sống “các đặc sủng, ơn gọi và vai trò” của họ trong Giáo hội.

Thượng hội đồng kêu gọi phụ nữ được chấp nhận vào bất cứ vai trò nào hiện được giáo luật cho phép, bao gồm cả các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội.

Liên quan đến câu hỏi về “quyền tiếp cận của phụ nữ với chức phó tế”, văn bản cho biết câu hỏi “vẫn còn bỏ ngỏ” và “cần phải tiếp tục phân định”. Một nhóm nghiên cứu riêng của Vatican hiện đang xem xét chủ đề đó, với báo cáo cuối cùng dự kiến vào tháng 6 năm 2025.

4. Văn bản nói gì về “sự phân quyền?”

Tài liệu kêu gọi các hội đồng giám mục đóng vai trò lớn hơn trong việc đưa đức tin vào bối cảnh địa phương và yêu cầu làm rõ về mức độ thẩm quyền tín lý hiện tại của họ. Tuy nhiên, tài liệu nhấn mạnh rằng các hội đồng giám mục không thể phủ nhận thẩm quyền của giám mục địa phương cũng như không "gây nguy cơ cho sự hiệp nhất hoặc tính Công Giáo của Giáo hội".

Tài liệu cũng kêu gọi nhiều công đồng toàn thể và công đồng tỉnh hơn, và Vatican chấp nhận kết luận của các cơ quan này nhanh hơn.

5. Văn bản có đề cập đến việc bao gồm LGBTQ không?

Mặc dù lên án việc loại trừ những người khác vì "tình trạng hôn nhân, bản dạng hoặc khuynh hướng tình dục của họ", nhưng văn bản không sử dụng thuật ngữ "LGBTQ".

6. Tài liệu cuối cùng nói gì về những thay đổi trong quá trình ra quyết định của Giáo hội?

Tài liệu cuối cùng kêu gọi cải cách một cách "đồng nghị" giáo luật, bao gồm cả việc xóa bỏ công thức cho rằng các cơ quan tham vấn "chỉ có quyền bỏ phiếu tham vấn". Tài liệu kêu gọi sự tham gia nhiều hơn của giáo dân vào "quy trình ra quyết định" và thực hiện thông qua các cơ cấu và thể chế đồng nghị mới.

Theo tài liệu, các nhà chức trách của Giáo hội không được bỏ qua các kết luận đạt được bởi các cơ quan tham vấn, có tính tham gia.

7. Tài liệu nói gì về “sensus fidei” [cảm thức đức tin]?

Tài liệu mô tả “sensus fidei” là “bản năng tìm kiếm chân lý Tin Mừng” nhận được qua phép rửa tội. Tài liệu cũng lưu ý rằng dân Chúa không thể sai lầm “khi họ thể hiện sự đồng thuận chung trong các vấn đề về đức tin và đạo đức”.

Điều đáng lưu ý là tài liệu cuối cùng không bao gồm ngôn ngữ bổ sung về nhu cầu “môn đệ đích thực” để thực hiện trưởng thành sensus fidei, đã được đưa vào tài liệu tổng hợp năm ngoái và được tìm thấy trong một tài liệu quan trọng của Vatican về chủ đề này.

8. Giáo hội có thể thay đổi theo những cách cụ thể nào sau Thượng hội đồng về tính đồng nghị?

Tùy thuộc vào cách thực hiện, tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng có thể tác động cụ thể đến mọi điều, từ cách các giám mục được lựa chọn đến cách các quyết định quản trị được đưa ra ở các giáo xứ, giáo phận và Vatican, với sự nhấn mạnh lớn hơn vào việc tham vấn rộng rãi. Nó cũng có thể tạo ra các cơ quan đồng nghị mới, như các hội đồng lục địa và một hội đồng các nhà lãnh đạo Công Giáo Đông phương để cố vấn cho Đức Giáo Hoàng.

9. Những đoạn nào nhận được nhiều sự phản đối nhất?

Hơn 27% đại biểu đã bỏ phiếu chống lại việc tiếp tục khám phá khả năng phụ nữ được phong phó tế.

Mười ba phần trăm bỏ phiếu chống lại đoạn văn nhấn mạnh tầm quan trọng của các hội đồng giám mục, điều này dường như cũng ràng buộc một giám mục vào các quyết định do hội đồng của mình đưa ra.

Mười hai phần trăm bỏ phiếu chống lại việc thành lập một nhóm nghiên cứu để xem xét việc biến các nghi lễ phụng vụ thành "biểu hiện của tính đồng nghị nhiều hơn", bao gồm cả những gì có thể là nhắc đến việc giảng thuyết của giáo dân trong phụng vụ.

Và 11% đại biểu phản đối đề xuất sửa đổi luật giáo luật "theo quan điểm đồng nghị".

10. Một lần nữa: Đồng nghị có nghĩa là gì?

Tài liệu cuối cùng mô tả tính đồng nghị là "con đường đổi mới tinh thần và cải cách cơ cấu cho phép Giáo hội tham gia và truyền giáo nhiều hơn, để có thể đồng hành với mọi người nam và nữ, tỏa ánh sáng của Chúa Kitô".

Tài liệu nêu rõ, mô hình đồng nghị là Đức Maria vì bà "lắng nghe, cầu nguyện, suy gẫm, đối thoại, đồng hành, phân định, quyết định và hành động".

 

https://vietcatholic.net/News/Html/292458.htm

THÔNG ĐIỆP 'DILEXIT NOS' CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ (Tiếng Việt)

 


THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ, VỀ TÌNH YÊU NHÂN BẢN VÀ THẦN LINH CỦA TRÁI TIM CHÚA GIÊSU KITÔ

Vũ Văn An  25/Oct/2024

 

THÔNG ĐIỆP DILEXIT NOS CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ, VỀ TÌNH YÊU NHÂN BẢN VÀ THẦN LINH CỦA TRÁI TIM CHÚA GIÊSU KITÔ

1. “NGƯỜI ĐÃ YÊU CHÚNG TA”, Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô (x. Rm 8:37), để chúng ta nhận ra rằng không có gì có thể “tách biệt chúng ta” khỏi tình yêu đó (Rm 8:39). Thánh Phaolô có thể nói điều này một cách chắc chắn vì chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Thầy đã yêu các con” (Ga 15:9, 12). Ngay cả bây giờ, Chúa vẫn nói với chúng ta rằng: “Thầy đã gọi các con là bạn hữu” (Ga 15:15). Trái tim rộng mở của Người đã đi trước chúng ta và chờ đợi chúng ta, vô điều kiện, chỉ xin trao cho chúng ta tình yêu và tình bạn của Người. Vì “Người đã yêu chúng ta trước” (x. 1 Ga 4:10). Nhờ Chúa Giêsu, “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4:16).

 

CHƯƠNG MỘT: TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRÁI TIM

2. Biểu tượng trái tim thường được dùng để mô tả tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Một số người đặt câu hỏi liệu biểu tượng này có còn ý nghĩa ngày nay không. Tuy nhiên, khi sống trong thời đại hời hợt, vội vã từ việc này sang việc khác mà không thực sự biết lý do tại sao, và trở thành những người tiêu dùng không biết chán và nô lệ cho các cơ chế của thị trường mà không quan tâm đến ý nghĩa sâu xa hơn của cuộc sống, tất cả chúng ta cần khám phá lại tầm quan trọng của trái tim. [1]

CHÚNG TA MUỐN NÓI GÌ KHI NÓI “TRÁI TIM”?

3. Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ kardía chỉ phần sâu thẳm nhất của con người, động vật và thực vật. Đối với Homer, nó không những chỉ trung tâm của cơ thể mà còn chỉ tâm hồn và tinh thần của con người. Trong Iliad, những suy nghĩ và cảm xúc xuất phát từ trái tim và gắn kết chặt chẽ với nhau. [2] Trái tim xuất hiện như nơi chứa đựng ham muốn và là nơi hình thành nên những quyết định quan trọng. [3] Trong Pla-tông, trái tim đóng vai trò như thể thống nhất các khía cạnh lý trí và bản năng của con người, vì các xung lực của cả các khả năng cao hơn và các đam mê được cho là đi qua các mạch máu hội tụ trong trái tim. [4] Từ thời xa xưa, người ta đã đánh giá cao sự kiện này: con người không chỉ là tổng hợp của các kỹ năng khác nhau, mà là sự thống nhất của cơ thể và tâm hồn với một trung tâm điều hợp cung cấp bối cảnh ý nghĩa và định hướng cho tất cả những gì người ta trải nghiệm.

4. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng, “Lời Chúa là lời sống động và hữu hiệu... có khả năng phán đoán những tư tưởng và ý định trong lòng” (Dt 4:12). Theo cách này, nó nói với chúng ta về trái tim như một cốt lõi ẩn giấu bên dưới mọi vẻ bề ngoài, thậm chí bên dưới những suy nghĩ hời hợt có thể khiến chúng ta lạc lối. Các môn đệ ở Emmaus, trong hành trình mầu nhiệm của họ cùng với Chúa Kitô phục sinh, đã trải qua một khoảnh khắc đau khổ, bối rối, tuyệt vọng và thất vọng. Tuy nhiên, vượt xa và bất chấp điều này, có điều gì đó đang xảy ra sâu thẳm bên trong họ: “Lòng chúng ta há chẳng bừng cháy lên khi Người nói chuyện với chúng ta dọc đường sao?” (Lc 24:32).

5. Trái tim cũng là nơi của sự chân thành, nơi không có sự gian dối và ngụy trang. Nó thường chỉ ra ý định thực sự của chúng ta, những gì chúng ta thực sự nghĩ, tin và mong muốn, những “bí mật” mà chúng ta không nói với ai: nói một cách ngắn gọn, sự thật trần trụi về chính chúng ta. Đó là phần trong chúng ta không phải là vẻ bề ngoài hay ảo tưởng, mà thay vào đó là chân thực, thực sự, hoàn toàn là “con người thật của chúng ta”. Đó là lý do tại sao Sam-song, người đã giấu Đa-li-đa bí mật về sức mạnh của mình, đã bị cô ấy hỏi, “Làm sao anh có thể nói, ‘Anh yêu em’, khi trái tim anh không ở cùng em?” (Tl 16:15). Chỉ khi Sam-song mở lòng mình với cô ấy, cô ấy mới nhận ra “rằng anh đã tiết lộ toàn bộ bí mật của mình” (Tl 16:18).

6. Thực tại bên trong của mỗi người thường ẩn sau rất nhiều “lá cành”, khiến chúng ta không những khó hiểu bản thân mà còn khó hiểu người khác: “Lòng người ta gian trá hơn mọi vật; nó là gian tà, ai hiểu được?” (Grm 17:9). Do đó, chúng ta có thể hiểu lời khuyên trong Sách Châm ngôn: “Hãy cẩn thận giữ lòng mình, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra; hãy tránh xa lời gian dối” (4:23-24). Vẻ bề ngoài, sự không trung thực và lừa dối sẽ gây hại và làm hư hỏng lòng người. Bất chấp mọi nỗ lực của chúng ta để tỏ ra mình không phải là ai, thì lòng người chính là thẩm phán cuối cùng, không phải về những gì chúng ta tỏ bầy hay che giấu với người khác, mà là về con người thật của chúng ta. Đó là nền tảng cho bất cứ dự án cuộc sống lành mạnh nào; không thể thực hiện bất cứ điều gì đáng giá nào ngoài trái tim. Vẻ bề ngoài giả tạo và sự không trung thực cuối cùng sẽ khiến chúng ta trắng tay.

7. Để minh họa cho điều này, tôi xin nhắc lại một câu chuyện mà tôi đã kể vào một dịp khác. “Đối với lễ hội hóa trang, khi chúng tôi còn nhỏ, bà tôi sẽ làm bánh ngọt bằng bột rất mỏng. Khi bà thả các dải bột vào dầu, chúng sẽ nở ra, nhưng sau đó, khi chúng tôi cắn vào, chúng rỗng bên trong. Trong phương ngữ chúng tôi nói, những chiếc bánh quy đó được gọi là 'lời nói dối'... Bà tôi giải thích lý do tại sao: 'Giống như lời nói dối, chúng trông to, nhưng bên trong rỗng; chúng là giả dối, không có thật'”. [5]

8. Thay vì chạy theo những sự thỏa mãn hời hợt và đóng vai trò vì lợi ích của người khác, chúng ta nên suy nghĩ tốt hơn về những câu hỏi thực sự quan trọng trong cuộc sống. Tôi thực sự là ai? Tôi là gì? Tôi chờ mong điều chi? Tôi muốn định hướng cuộc sống, quyết định và hành động của mình theo hướng nào? Tại sao và vì mục đích gì tôi ở thế giới này? Tôi muốn nhìn lại cuộc sống của mình như thế nào khi nó kết thúc? Tôi muốn mang lại ý nghĩa gì cho tất cả những trải nghiệm của mình? Tôi muốn trở thành ai đối với người khác? Tôi là ai đối với Thiên Chúa? Tất cả những câu hỏi này dẫn chúng ta trở lại với trái tim.

TRỞ VỀ TRÁI TIM

9. Trong thế giới “lỏng” này của chúng ta, chúng ta cần bắt đầu nói thêm về trái tim và suy nghĩ về nơi trong đó mỗi người, ở mọi tầng lớp và điều kiện, tạo ra sự tổng hợp, nơi họ gặp được nguồn gốc cơ bản của sức mạnh, niềm tin, đam mê và quyết định của mình. Tuy nhiên, chúng ta thấy mình đắm chìm trong xã hội của những người tiêu dùng nối tiếp nhau, những người sống từng ngày, bị chi phối bởi nhịp độ hối hả và bị công nghệ tấn công, thiếu sự kiên nhẫn cần thiết để tham gia vào các quá trình mà bản chất của cuộc sống nội tâm đòi hỏi. Trong xã hội đương thời, mọi người “có nguy cơ đánh mất trung tâm của mình, trung tâm của chính bản thân họ”. [6] “Thật vậy, những người đàn ông và đàn bà thời đại chúng ta thường thấy mình bối rối và bị xé nát, gần như mất đi nguyên tắc bên trong có thể tạo ra sự thống nhất và hòa hợp trong cuộc sống và hành động của họ. Các mô hình hành vi, thật đáng buồn, hiện đang lan rộng, phóng đại chiều kích lý trí-công nghệ của chúng ta hoặc ngược lại, chiều kích bản năng của chúng ta”. [7] Không còn chỗ cho trái tim.

10. Các vấn đề do xã hội lỏng ngày nay nêu ra được thảo luận nhiều, nhưng sự mất giá trị của cốt lõi sâu xa của nhân loại chúng ta - trái tim - đã có lịch sử lâu đời hơn nhiều. Chúng ta thấy nó đã hiện diện trong chủ nghĩa duy lý Hy Lạp và tiền Kitô giáo, trong chủ nghĩa duy tâm hậu Kitô giáo và trong chủ nghĩa duy vật dưới nhiều hình thức khác nhau. Trái tim đã bị bỏ qua trong nhân học, và truyền thống triết học vĩ đại coi nó là một khái niệm xa lạ, thích các khái niệm khác như lý trí, ý chí hoặc tự do. Bản thân ý nghĩa của thuật ngữ này không chính xác và khó có thể định vị trong trải nghiệm của con người chúng ta. Có lẽ điều này là do khó khăn khi coi nó là một “ý tưởng rõ ràng và riêng biệt”, hoặc vì nó bao hàm câu hỏi về sự tự hiểu, nơi mà phần sâu thẳm nhất trong chúng ta cũng là phần ít được biết đến nhất. Ngay cả việc gặp gỡ người khác cũng không nhất thiết chứng tỏ là một cách để gặp gỡ chính mình, vì các khuôn mẫu suy nghĩ của chúng ta bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân không lành mạnh. Nhiều người cảm thấy an toàn hơn khi xây dựng hệ thống tư duy của họ trong phạm vi dễ kiểm soát hơn của trí tuệ và ý chí. Việc không dành chỗ cho trái tim, khác biệt với sức mạnh và đam mê của con người khi được xem xét tách biệt với nhau, đã dẫn đến sự cản trở ý tưởng về một trung tâm cá nhân, trong đó tình yêu, cuối cùng, là thực tại duy nhất có thể thống nhất tất cả những thứ khác.

11. Nếu chúng ta hạ thấp giá trị của trái tim, chúng ta cũng hạ thấp giá trị của việc nói từ trái tim, hành động bằng trái tim, vun đắp và chữa lành trái tim. Nếu chúng ta không đánh giá cao tính cụ thể của trái tim, chúng ta sẽ bỏ lỡ những thông điệp mà chỉ riêng trí hiểu không thể truyền đạt được; chúng ta bỏ lỡ sự phong phú trong những cuộc gặp gỡ của chúng ta với người khác; chúng ta bỏ lỡ thi ca. Chúng ta cũng mất dấu vết lịch sử và quá khứ của chính mình, vì lịch sử cá nhân thực sự của chúng ta được xây dựng bằng trái tim. Vào cuối cuộc đời, chỉ có điều đó mới quan trọng.

12. Vậy thì phải nói rằng chúng ta có một trái tim, một trái tim cùng tồn tại với những trái tim khác giúp tạo nên một “Ngài”. Vì chúng ta không thể phát triển chủ đề này một cách chi tiết, nên chúng ta sẽ lấy một nhân vật trong một trong những tiểu thuyết của Dostoevsky, Nikolai Stavrogin. [8] Romano Guardini lập luận rằng Stavrogin chính là hiện thân của cái ác, vì đặc điểm chính của anh ta là sự vô tâm: “Stavrogin không có trái tim, do đó tâm trí anh ta lạnh lùng và trống rỗng, cơ thể anh ta chìm đắm trong sự lười biếng và dục vọng của loài thú. Anh ta không có trái tim, do đó anh ta không thể gần gũi với bất cứ ai và không ai có thể thực sự gần gũi với anh ta. Vì chỉ có trái tim mới tạo ra sự thân mật, sự gần gũi thực sự giữa hai người. Chỉ có trái tim mới có thể chào đón và cung cấp lòng hiếu khách. Sự thân mật là hoạt động thích hợp và là phạm vi của trái tim. Stavrogin luôn vô cùng xa cách, ngay cả với chính mình, bởi vì người ta chỉ có thể đi vào bên trong chính mình bằng trái tim, chứ không phải bằng lý trí. Con người không có khả năng đi vào bên trong chính mình bằng lý trí. Do đó, nếu trái tim không sống động, con người vẫn là người xa lạ với chính mình”. [9]

13. Mọi hành động của chúng ta cần phải được đặt dưới “quy tắc chính trị” của trái tim. Theo cách này, tính hung hăng và ham muốn ám ảnh của chúng ta sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi trong điều tốt đẹp hơn mà trái tim đề nghị và trong sức mạnh của trái tim để chống lại cái ác. Tâm trí và ý chí được đưa vào phục vụ cho điều tốt đẹp hơn bằng cách cảm nhận và thưởng thức chân lý, thay vì tìm cách làm chủ chúng như khoa học có xu hướng làm. Ý chí mong muốn điều tốt đẹp hơn mà trái tim nhận ra, trong khi trí tưởng tượng và cảm xúc tự chúng được hướng dẫn bởi nhịp đập của trái tim.

14. Do đó, có thể nói rằng tôi là trái tim của tôi, vì trái tim là thứ khiến tôi khác biệt, định hình bản sắc tinh thần của tôi và đưa tôi vào sự hiệp thông với những người khác. Các thuật toán hoạt động trong thế giới kỹ thuật số cho thấy rằng suy nghĩ và ý chí của chúng ta “đồng nhất” hơn nhiều so với những gì chúng ta từng nghĩ trước đây. Chúng dễ dự đoán và do đó có thể bị thao túng. Nhưng trái tim thì không như vậy.

15. Chữ “trái tim” chứng minh giá trị của nó đối với triết học và thần học trong nỗ lực đạt được sự tổng hợp toàn diện. Ý nghĩa của nó cũng không thể được khai thác hết trong sinh học, tâm lý học, nhân chủng học hay bất cứ khoa học nào khác. Đây là một trong những từ nguyên thủy “mô tả thực tại thuộc về con người chính xác trong chừng mực con người là một tổng thể (như một con người có thân xác-tinh thần)”. [10] Do đó, các nhà sinh học không “thực tế” hơn khi họ thảo luận về trái tim, vì họ chỉ nhìn thấy một khía cạnh của nó; tổng thể không phải là ít thực hơn, mà thậm chí còn thực hơn. Ngôn ngữ trừu tượng cũng không bao giờ có thể có được cùng một ý nghĩa cụ thể và tổng hợp. Chữ “trái tim” gợi lên cốt lõi sâu thẳm nhất của con người chúng ta, và do đó, nó cho phép chúng ta hiểu bản thân mình trong sự toàn vẹn của mình chứ không chỉ dưới một khía cạnh biệt lập.

16. Sức mạnh độc đáo này của trái tim cũng giúp chúng ta hiểu tại sao, khi chúng ta nắm bắt một thực tại bằng trái tim, chúng ta biết nó tốt hơn và đầy đủ hơn. Điều này tất yếu dẫn chúng ta đến tình yêu mà trái tim có khả năng, vì “cốt lõi sâu thẳm nhất của thực tại là tình yêu”. [11] Đối với Heidegger, như được một nhà tư tưởng đương thời diễn giải, triết học không bắt đầu bằng một khái niệm đơn giản hay sự chắc chắn, mà bằng một cú sốc: “Suy nghĩ phải được khơi dậy trước khi nó bắt đầu làm việc với các khái niệm hoặc trong khi nó làm việc với chúng. Nếu không có cảm xúc sâu sắc, suy nghĩ không thể bắt đầu. Do đó, hình ảnh tinh thần đầu tiên sẽ là nổi da gà. Điều đầu tiên khiến người ta suy nghĩ và đặt câu hỏi là cảm xúc sâu sắc. Triết học luôn diễn ra trong một tâm trạng cơ bản (Stimmung)”. [12] Đó là lúc trái tim xuất hiện, vì nó “chứa đựng các trạng thái của tâm trí và hoạt động như một ‘người giữ trạng thái của tâm trí’. ‘Trái tim’ lắng nghe theo một cách phi ẩn dụ ‘giọng nói thầm lặng’ của bản thể, cho phép bản thân được tôi luyện và xác định bởi nó”. [13]

TRÁI TIM KẾT HỢP CÁC MẢNH VỠ

17. Đồng thời, trái tim làm cho mọi sự gắn kết chân thực trở nên khả hữu, vì một mối quan hệ không được định hình bởi trái tim thì không thể vượt qua được sự phân mảnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Hai đơn tử có thể tiếp cận nhau, nhưng chúng sẽ không bao giờ thực sự kết nối. Một xã hội bị chi phối bởi chủ nghĩa tự luyến và ích kỷ sẽ ngày càng trở nên “vô tâm”. Điều này sẽ dẫn đến “mất đi ham muốn”, vì khi những người khác biến mất khỏi đường chân trời, chúng ta thấy mình bị mắc kẹt trong những bức tường do chính mình tạo ra, không còn khả năng có những mối quan hệ lành mạnh. [14] Kết quả là, chúng ta cũng trở nên không có khả năng cởi mở với Thiên Chúa. Như Heidegger đã nói, để cởi mở với điều thần thiêng, chúng ta cần xây dựng một “nhà khách”. [15]

18. Vậy thì, chúng ta thấy rằng trong trái tim của mỗi người có một mối liên hệ mầu nhiệm giữa sự tự nhận thức và sự cởi mở với người khác, giữa cuộc gặp gỡ với sự độc đáo của cá nhân và sự sẵn lòng trao tặng bản thân cho người khác. Chúng ta chỉ trở thành chính mình khi chúng ta có khả năng thừa nhận người khác, trong khi chỉ những ai có thể thừa nhận và chấp nhận bản thân mình mới có thể gặp gỡ người khác.

19. Trái tim cũng có khả năng thống nhất và hài hòa lịch sử bản thân của chúng ta, có vẻ như bị phân mảnh một cách vô vọng, nhưng lại là nơi mà mọi sự có thể có ý nghĩa. Tin Mừng cho chúng ta biết điều này khi nói về Đức Mẹ, người đã nhìn thấy mọi thứ bằng trái tim. Mẹ có thể đối thoại với những điều Mẹ đã trải qua bằng cách suy gẫm chúng trong lòng, trân trọng ký ức về chúng và nhìn nhận chúng theo một góc nhìn rộng hơn. Cách diễn đạt hay nhất về cách trái tim suy nghĩ được tìm thấy trong hai đoạn văn trong Tin Mừng Thánh Luca nói với chúng ta về cách Đức Maria “trân trọng (synetérei) tất cả những điều này và suy ngẫm (symbállousa) chúng trong lòng” (x. Lc 2:19 và 51). Động từ tiếng Hy Lạp symbállein, “suy gẫm”, gợi lên hình ảnh ghép hai thứ lại với nhau (“biểu tượng”) trong tâm trí của một người và suy gẫm về chúng, trong một cuộc đối thoại với chính mình. Trong Luca 2:51, động từ được sử dụng là dietérei, có nghĩa là “giữ lại”. Điều Đức Maria “giữ lại” không chỉ là ký ức của ngài về những gì ngài đã thấy và nghe, mà còn là những khía cạnh mà ngài vẫn chưa hiểu; tuy nhiên, những điều này vẫn hiện diện và sống động trong ký ức của ngài, chờ đợi để được “gắn kết” trong trái tim ngài.

20. Trong thời đại trí tuệ nhân tạo này, chúng ta không thể quên rằng thi ca và tình yêu là cần thiết để cứu rỗi nhân loại của chúng ta. Không có thuật toán nào có thể nắm bắt được, ví dụ, nỗi nhớ mà tất cả chúng ta đều cảm thấy, bất kể tuổi tác và bất kể chúng ta sống ở đâu, khi chúng ta nhớ lại lần đầu tiên chúng ta dùng nĩa để dán mép những chiếc bánh mà chúng ta giúp mẹ hoặc bà của mình làm ở nhà. Đó là khoảnh khắc học nghề nấu nướng, ở đâu đó giữa trò chơi trẻ con và tuổi trưởng thành, khi chúng ta lần đầu tiên cảm thấy có trách nhiệm làm việc và giúp đỡ lẫn nhau. Cùng với chiếc nĩa, tôi cũng có thể kể đến hàng ngàn điều nhỏ nhặt khác đóng vai trò quý giá trong cuộc sống của mỗi người: nụ cười chúng ta nhận được khi kể một câu chuyện cười, bức tranh chúng ta phác họa dưới ánh sáng của cửa sổ, trận bóng đá đầu tiên chúng ta chơi với một quả bóng vải, những con giun chúng ta thu thập được trong một hộp giày, một bông hoa chúng ta ép vào trang sách, nỗi lo lắng của chúng ta về một chú chim non rơi khỏi tổ, một điều ước chúng ta thực hiện khi hái một bông hoa cúc. Tất cả những điều nhỏ nhặt này, bình thường trong chính chúng nhưng lại phi thường đối với chúng ta, không bao giờ có thể được thuật toán nắm bắt. Cái nĩa, trò đùa, cửa sổ, quả bóng, hộp giày, cuốn sách, chú chim, bông hoa: tất cả những thứ này sống mãi như những kỷ niệm quý giá được "lưu giữ" sâu trong trái tim chúng ta.

21. Cái cốt lõi sâu sắc này, hiện diện trong mỗi người đàn ông và đàn bà, không phải là cốt lõi của tâm hồn, mà là của toàn bộ con người trong bản sắc tâm lý độc đáo của họ. Mọi thứ đều tìm thấy sự thống nhất của nó trong trái tim, nơi có thể là nơi trú ngụ của tình yêu trong tất cả các chiều kích tâm linh, tâm lý và thậm chí là thể chất. Nói tóm lại, nếu tình yêu ngự trị trong trái tim chúng ta, chúng ta sẽ trở thành, theo cách trọn vẹn và sáng ngời, những con người mà chúng ta được định sẵn, vì mỗi con người được tạo ra trên hết là để yêu. Trong tận sâu thẳm hữu thể của chúng ta, chúng ta được tạo ra để yêu và được yêu.

22. Vì lý do này, khi chúng ta chứng kiến sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh mới, với sự đồng lõa, khoan dung hoặc thờ ơ của các quốc gia khác, hoặc các cuộc đấu tranh quyền lực nhỏ nhen vì lợi ích đảng phái, chúng ta có thể bị cám dỗ kết luận rằng thế giới của chúng ta đang mất đi trái tim. Chúng ta chỉ cần nhìn và lắng nghe những người phụ nữ lớn tuổi - từ cả hai phía - những người đang phải chịu đựng những cuộc xung đột tàn khốc này. Thật đau lòng khi thấy họ than khóc cho những đứa cháu bị sát hại của mình, hoặc mong muốn được chết sau khi mất đi ngôi nhà nơi họ đã sống cả cuộc đời. Những người phụ nữ đó, những người thường là trụ cột của sức mạnh và khả năng phục hồi giữa những khó khăn và gian khổ của cuộc sống, giờ đây, vào cuối đời, họ chỉ trải qua nỗi đau khổ, sợ hãi và phẫn nộ thay vì sự nghỉ ngơi xứng đáng. Đổ lỗi cho người khác không giải quyết được những tình huống đáng xấu hổ và bi thảm này. Việc nhìn thấy những người phụ nữ lớn tuổi này khóc, và không cảm thấy đây là điều không thể chịu đựng được, là dấu hiệu của một thế giới đã trở nên vô cảm.

23. Bất cứ khi nào một người suy nghĩ, đặt câu hỏi và suy gẫm về bản sắc thực sự của mình, cố gắng hiểu những câu hỏi sâu sắc hơn của cuộc sống và tìm kiếm Thiên Chúa, hoặc trải nghiệm cảm giác hồi hộp khi thoáng thấy chân lý, điều đó dẫn đến việc nhận ra rằng sự viên mãn của chúng ta với tư cách là con người được tìm thấy trong tình yêu. Khi yêu, chúng ta cảm thấy chúng ta biết được mục đích và mục tiêu cuộc hiện hữu của mình trên thế giới này. Mọi thứ kết hợp lại với nhau trong trạng thái mạch lạc và hài hòa. Do đó, khi suy gẫm về ý nghĩa cuộc sống của mình, có lẽ câu hỏi quyết định nhất mà chúng ta có thể hỏi là: "Tôi có trái tim không?"

LỬA

24. Tất cả những gì chúng ta đã nói đều có ý nghĩa đối với đời sống tâm linh. Ví dụ, thần học cơ bản trong linh thao của Thánh I-nha-xi-ô thành Loyola dựa trên "tình cảm" (affectus). Cấu trúc của Linh thao giả định một mong muốn vững chắc và chân thành để "sắp xếp lại" cuộc sống của người ta, một mong muốn, ngược lại, đã cung cấp sức mạnh và phương tiện để đạt được mục tiêu đó. Các quy tắc và thành phần của nơi chốn mà Thánh I-nha-xi-ô cung cấp phục vụ cho một điều gì đó quan trọng hơn nhiều, cụ thể là, sự mầu nhiệm của trái tim con người. Michel de Certeau cho thấy cách mà “các chuyển động” được Thánh I-nha-xi-ô nói đến là sự “thâm nhập” mong muốn của Thiên Chúa và mong muốn của chính trái tim chúng ta giữa sự tiến triển có trật tự của các cuộc suy niệm. Một điều gì đó bất ngờ và chưa từng biết đến bắt đầu nói trong trái tim chúng ta, phá vỡ kiến thức hời hợt của chúng ta và đặt câu hỏi về nó. Đây là khởi đầu của một quá trình mới “sắp xếp cuộc sống của chúng ta theo trật tự”, bắt đầu từ trái tim. Không phải là về các khái niệm trí thức cần được đưa vào thực hành trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, như thể tình cảm và thực hành chỉ là những tác động của – và phụ thuộc vào – dữ kiện của kiến thức. [16]

25. Nơi mà tư duy của triết gia dừng lại, thì ở đó trái tim của tín hữu tiếp tục thúc đẩy trong tình yêu và sự tôn thờ, trong việc cầu xin sự tha thứ và trong sự sẵn lòng phục vụ ở bất cứ nơi nào Chúa cho phép chúng ta lựa chọn, để noi theo bước chân của Người. Vào thời điểm đó, chúng ta nhận ra rằng trong mắt Thiên Chúa, chúng ta là một “Con” [Thou], và vì lý do đó, chúng ta có thể là một “Tôi”. Thật vậy, chỉ có Chúa mới có thể đối xử với mỗi người chúng ta như một “Con” [Thou], luôn luôn và mãi mãi. Việc chấp nhận tình bạn của Người là vấn đề của trái tim; đó là điều tạo nên chúng ta như những con người theo nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ đó.

26. Thánh Bonaventura nói với chúng ta rằng cuối cùng, chúng ta không nên cầu xin ánh sáng, mà là cầu xin “ngọn lửa dữ dội”. [17] Ngài dạy rằng, “đức tin ở trong trí tuệ, theo cách khơi dậy tình cảm. Theo nghĩa này, ví dụ, việc biết rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta không còn là kiến thức nữa, mà nhất thiết phải trở thành tình cảm, tình yêu”. [18] Theo cùng một đường hướng, Thánh John Henry Newman đã lấy cụm từ Cor ad cor loquitur [lòng nói với lòng] làm phương châm của mình, vì, vượt ra ngoài mọi suy nghĩ và ý tưởng của chúng ta, Chúa cứu chúng ta bằng cách nói với trái tim chúng ta từ Thánh Tâm của Người. Nhận thức này đã dẫn ngài, một trí thức lỗi lạc, đến với nhận thức rằng cuộc gặp gỡ sâu sắc nhất của ngài với chính mình và với Chúa không đến từ việc đọc sách hay suy gẫm, mà đến từ cuộc đối thoại cầu nguyện, từ trái tim với trái tim, với Chúa Kitô, sống động và hiện diện. Chính trong Bí tích Thánh Thể mà Newman đã gặp được trái tim sống động của Chúa Giêsu, có khả năng giải thoát chúng ta, mang lại ý nghĩa cho từng khoảnh khắc trong cuộc sống của chúng ta và ban tặng sự bình an đích thực: “Lạy Trái Tim Thánh Thiêng, yêu thương nhất của Chúa Giêsu, Chúa ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và Chúa vẫn đập vì chúng con… Con tôn thờ Chúa với tất cả tình yêu và sự kính sợ tốt nhất của con, với tình cảm nồng nhiệt của con, với ý chí kiên quyết và khiêm nhường nhất của con. Lạy Chúa, khi Chúa hạ mình để con tiếp nhận Chúa, ăn và uống Chúa, và trong một thời gian Chúa ngự trong con, xin hãy làm cho trái tim con đập cùng Trái Tim Chúa. Xin thanh tẩy trái tim con khỏi mọi thứ trần tục, mọi thứ kiêu hãnh và nhục dục, mọi thứ cứng rắn và tàn nhẫn, khỏi mọi sự đồi trụy, mọi sự hỗn loạn, mọi sự chết chóc. Xin lấp đầy trái tim con bằng Chúa, để những sự kiện trong ngày hay hoàn cảnh của thời gian không có sức mạnh làm xáo trộn trái tim con, nhưng trong tình yêu và sự kính sợ Chúa, trái tim con có được sự bình an”. [19]

27. Trước trái tim của Chúa Giêsu, sống động và hiện diện, tâm trí chúng ta, được Chúa Thánh Thần soi sáng, phát triển trong sự hiểu biết về lời Người và ý chí của chúng ta được thúc đẩy để đưa chúng vào thực hành. Điều này có thể dễ dàng ở mức độ của một loại chủ nghĩa đạo đức tự lực. Tuy nhiên, lắng nghe và nếm trải Chúa, và tôn vinh Người một cách xứng đáng là vấn đề của trái tim. Chỉ có trái tim mới có khả năng đặt các sức mạnh và đam mê khác của chúng ta, và toàn bộ con người chúng ta, vào tư thế tôn kính và vâng phục yêu thương trước Chúa.

THẾ GIỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI, BẮT ĐẦU TỪ TRÁI TIM

28. Chỉ bằng cách bắt đầu từ trái tim, các cộng đồng của chúng ta mới có thể thành công trong việc hợp nhất và hòa giải những tâm trí và ý chí khác nhau, để Chúa Thánh Thần có thể hướng dẫn chúng ta trong sự hiệp nhất như anh chị em. Sự hòa giải và hòa bình cũng nảy sinh từ trái tim. Trái tim của Chúa Kitô là “sự ngây ngất xuất thần”, cởi mở, ban tặng và gặp gỡ. Trong trái tim đó, chúng ta học cách liên hệ với nhau theo những cách lành mạnh và hạnh phúc, và xây dựng vương quốc tình yêu và công lý của Thiên Chúa trên thế giới này. Trái tim chúng ta, hợp nhất với trái tim của Chúa Kitô, có khả năng tạo nên phép lạ xã hội này.

29. Do đó, việc coi trọng trái tim sẽ có hậu quả đối với toàn thể xã hội. Công đồng Vatican II dạy rằng, “mỗi người chúng ta cần thay đổi trái tim; chúng ta phải hướng mắt nhìn toàn thế giới và hướng đến những nhiệm vụ mà tất cả chúng ta có thể cùng nhau thực hiện để mang lại sự cải thiện cho giống nòi của chúng ta”. [20] Vì “sự mất cân bằng đang ảnh hưởng đến thế giới ngày nay thực chất là triệu chứng của sự mất cân bằng sâu sắc hơn bắt nguồn từ trái tim con người”. [21] Khi suy gẫm về những bi kịch đang gây đau khổ cho thế giới của chúng ta, Công đồng thúc giục chúng ta quay trở lại với trái tim. Công đồng giải thích rằng con người “bằng đời sống nội tâm của mình, vượt qua toàn bộ vũ trụ vật chất; họ trải nghiệm được sự sâu sắc bên trong này khi họ đi vào trái tim của chính mình, nơi Thiên Chúa, Đấng thăm dò trái tim, đang chờ đợi họ, và nơi họ quyết định số phận của chính mình trước mặt Thiên Chúa”. [22]

30. Điều này không có nghĩa là chúng ta quá phụ thuộc vào khả năng của chính mình. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng trái tim chúng ta không tự túc, mà yếu đuối và bị tổn thương. Chúng sở hữu một phẩm giá hữu thể học, nhưng đồng thời phải tìm kiếm một cuộc sống ngày càng có phẩm giá hơn. [23] Công đồng Vatican II chỉ ra rằng “men Tin Mừng đã khơi dậy và tiếp tục khơi dậy trong trái tim con người một cơn khát không thể dập tắt đối với phẩm giá con người”. [24] Tuy nhiên, để sống theo phẩm giá này, chỉ biết Tin Mừng hoặc thực hiện một cách máy móc các yêu cầu của Tin Mừng là chưa đủ. Chúng ta cần sự giúp đỡ của tình yêu Thiên Chúa. Vậy thì, chúng ta hãy hướng về trái tim của Chúa Kitô, cốt lõi của hữu thể Người, là lò lửa rực cháy của tình yêu thần linh và nhân bản và là sự viên mãn cao cả nhất mà nhân loại có thể khao khát. Ở đó, trong trái tim đó, cuối cùng chúng ta thực sự biết được chính mình và chúng ta học cách yêu thương.

31. Cuối cùng, Thánh Tâm là nguyên lý thống nhất của mọi thực tại, vì “Chúa Kitô là trái tim của thế giới, và mầu nhiệm vượt qua về cái chết và sự phục sinh của Người là trung tâm của lịch sử, mà vì Người, là lịch sử cứu độ”. [25] Mọi loài thụ tạo “đang tiến về phía trước cùng với chúng ta và thông qua chúng ta hướng đến một điểm đến chung, đó là Thiên Chúa, trong sự viên mãn siêu việt đó, nơi Chúa Kitô phục sinh ôm ấp và soi sáng mọi sự”. [26] Trước sự hiện diện của trái tim Chúa Kitô, một lần nữa tôi cầu xin Chúa thương xót thế giới đau khổ này, nơi Người đã chọn ngự trị như một trong chúng ta. Xin Người đổ tràn kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người, để thế giới của chúng ta, thế giới đang tiến về phía trước bất chấp chiến tranh, chênh lệch kinh tế xã hội và việc sử dụng công nghệ đe dọa nhân loại của chúng ta, có thể lấy lại được điều quan trọng và cần thiết nhất trong tất cả: trái tim của nó.


CHƯƠNG HAI: HÀNH ĐỘNG VÀ LỜI YÊU THƯƠNG

32. Trái tim của Chúa Kitô, như biểu tượng của nguồn tình yêu sâu sắc và bản thân nhất của Người dành cho chúng ta, chính là cốt lõi của lời rao giảng đầu tiên về Tin Mừng. Nó đứng ở nguồn gốc đức tin của chúng ta, như nguồn suối làm mới và làm sống động niềm tin Kitô giáo của chúng ta.

HÀNH ĐỘNG PHẢN ẢNH TRÁI TIM

33. Chúa Kitô đã cho thấy chiều sâu tình yêu của Người dành cho chúng ta không phải bằng những lời giải thích dài dòng mà bằng những hành động cụ thể. Bằng cách xem xét các tương tác của Người với những người khác, chúng ta có thể nhận ra cách Người đối xử với mỗi người chúng ta, mặc dù đôi khi điều này có thể khó thấy. Bây giờ chúng ta hãy hướng đến nơi đức tin của chúng ta có thể gặp được chân lý này: lời Chúa.

34. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu “đã đến với những người nhà của Người” (x. Ga 1:11). Những lời đó ám chỉ đến chúng ta, vì Chúa không đối xử với chúng ta như người xa lạ mà như một sở hữu mà Người trông coi và trân trọng. Người thực sự đối xử với chúng ta như “của riêng Người”. Điều này không có nghĩa là chúng ta là nô lệ của Người, điều mà chính Người phủ nhận: “Thầy không gọi các con là tôi tớ” (Ga 15:15). Đúng hơn, nó ám chỉ đến cảm giác thân thuộc lẫn nhau đặc trưng của bạn bè. Chúa Giêsu đã đến gặp chúng ta, thu hẹp mọi khoảng cách; Người trở nên gần gũi với chúng ta như những thực tại đơn giản nhất, hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, Người có một tên khác, “Emmanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa như một phần của cuộc sống chúng ta, Thiên Chúa như đang sống giữa chúng ta. Con Thiên Chúa đã nhập thể và “tự hủy mình, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2:7).

35. Điều này trở nên rõ ràng khi chúng ta thấy Chúa Giêsu làm việc. Người tìm kiếm mọi người, tiếp cận họ, luôn mở lòng để gặp gỡ họ. Chúng ta thấy điều đó khi Người dừng lại để trò chuyện với người phụ nữ Samaritanô tại giếng nơi bà đến lấy nước (x. Ga 4:5-7). Chúng ta thấy điều đó khi, trong bóng tối của đêm, Người gặp Nicôđêmô, người sợ bị nhìn thấy trước mặt Người (x. Ga 3:1-2). Chúng ta ngạc nhiên khi Người để một gái điếm rửa chân cho mình (x. Lc 7:36-50), khi Người nói với người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình, “Tôi cũng không lên án chị đâu” (Ga 8:11), hoặc một lần nữa khi Người khiển trách các môn đệ vì sự thờ ơ của họ và lặng lẽ hỏi người mù bên vệ đường, “Ông muốn Tôi làm gì cho ông?” (Mc 10:51). Đức Kitô cho thấy rằng Thiên Chúa là sự gần gũi, lòng cảm thương và tình yêu dịu dàng.

36. Bất cứ khi nào Chúa Giêsu chữa lành cho ai đó, Người thích làm điều đó, không phải từ xa mà là ở gần: “Người giơ tay chạm vào người ấy” (Mt 8:3). “Người chạm vào tay bà” (Mt 8:15). “Người chạm vào mắt họ” (Mt 9:29). Thậm chí có lần Người dừng lại để chữa lành một người điếc bằng chính nước bọt của Người (x. Mc 7:33), như một người mẹ vẫn làm, để mọi người không nghĩ Người xa lạ với cuộc sống của họ. “Chúa biết khoa học tinh tế của sự âu yếm. Trong lòng cảm thương của Người, Thiên Chúa không yêu thương chúng ta bằng lời nói; Người đến gặp chúng ta và bằng sự gần gũi của Người, Người cho chúng ta thấy chiều sâu của tình yêu dịu dàng của Người”. [27]

37. Nếu chúng ta thấy khó tin tưởng người khác vì chúng ta đã bị tổn thương bởi những lời nói dối, tổn thương và thất vọng, Chúa thì thầm vào tai chúng ta: “Hãy can đảm lên, hỡi con!” (Mt 9:2), “Hãy can đảm lên, hỡi con gái!” (Mt 9:22). Người khuyến khích chúng ta vượt qua nỗi sợ hãi và nhận ra rằng, khi có Người bên cạnh, chúng ta không còn gì để mất. Đối với Phêrô, trong lúc sợ hãi, “Đức Giêsu liền giơ tay nắm lấy ông và nói: “Hỡi người kém tin, sao con lại nghi ngờ?” (Mt 14:31). Bạn cũng đừng sợ. Hãy để Người đến gần và ngồi bên cạnh bạn. Có thể có nhiều người không được chúng ta tin tưởng, nhưng không phải Người. Đừng ngần ngại vì tội lỗi của bạn. Hãy nhớ rằng nhiều tội nhân “đã đến và ngồi với Người” (Mt 9:10), nhưng Chúa Giêsu không hề bị xúc phạm bởi bất cứ ai trong số họ. Chính giới tinh hoa tôn giáo đã phàn nàn và đối xử với Người như “một kẻ phàm ăn và say sưa, một người bạn của những người thu thuế và tội lỗi” (Mt 11:19). Khi những người Pharisiêu chỉ trích Người vì gần gũi với những người bị coi là đê tiện hoặc tội lỗi, Chúa Giêsu trả lời: “Ta muốn lòng thương xót, chứ không muốn hy lễ” (Mt 9:13).

38. Cũng chính Chúa Giêsu đó giờ đây đang chờ bạn trao cho Người cơ hội mang ánh sáng đến cho cuộc đời bạn, nâng bạn lên và đổ đầy sức mạnh của Người vào bạn. Trước khi chết, Người đã bảo đảm với các môn đệ rằng: “Thầy sẽ không để các con mồ côi; Thầy sẽ đến cùng các con. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy nữa, nhưng các con sẽ thấy Thầy” (Ga 14:18-19). Chúa Giêsu luôn tìm cách hiện diện trong cuộc đời bạn, để bạn có thể gặp gỡ Người.

ÁNH NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU

39. Tin Mừng kể cho chúng ta rằng một người đàn ông giàu có đã đến gặp Chúa Giêsu, đầy lý tưởng nhưng lại thiếu sức mạnh cần thiết để thay đổi cuộc đời mình. Sau đó, Chúa Giêsu “nhìn ông ta” (Mc 10:21). Bạn có thể tưởng tượng được khoảnh khắc đó, cuộc gặp gỡ giữa đôi mắt của người đó và đôi mắt của Chúa Giêsu không? Nếu Chúa Giêsu gọi bạn và triệu tập bạn để thực hiện sứ mệnh, trước tiên Người nhìn bạn, thăm dò sâu thẳm trái tim bạn và biết mọi điều về bạn, Người sẽ nhìn thẳng vào bạn. Cũng vậy, khi “khi Người đi dọc theo Biển Galilê, Người thấy hai anh em... và khi Người đi khỏi đó, Người thấy hai anh em khác” (Mt 4:18, 21).

40. Nhiều trang trong Tin Mừng minh họa cách Chúa Giêsu quan tâm đến từng cá nhân và trên hết là đến các vấn đề và nhu cầu của họ. Chúng ta được kể rằng, “khi Người thấy đám đông, Người chạnh lòng thương họ, vì họ bị quấy rầy và bất lực” (Mt 9:36). Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy mọi người đều phớt lờ chúng ta, rằng không ai quan tâm đến những gì sẽ xảy ra với chúng ta, rằng chúng ta không quan trọng đối với bất cứ ai, thì Người vẫn quan tâm đến chúng ta. Đối với Nathanael, người đang đứng tách biệt và bận rộn với công việc của mình, Người có thể nói, “Tôi đã thấy anh dưới cây vả trước khi Philip gọi anh” (Ga 1:48).

41. Chính vì quan tâm đến chúng ta, Chúa Giêsu biết mọi ý định tốt đẹp và những hành động bác ái nhỏ bé của chúng ta. Tin Mừng kể với chúng ta rằng có lần Người “thấy một bà góa nghèo bỏ vào hai đồng “Những đồng tiền xu” trong kho bạc Đền thờ (Lc 21:2) và ngay lập tức đưa nó đến sự chú ý của các môn đệ. Do đó, Chúa Giêsu đánh giá cao điều tốt mà Người thấy ở chúng ta. Khi viên đại đội trưởng đến gần Người với sự tự tin hoàn toàn, “Chúa Giêsu lắng nghe ông và ngạc nhiên” (Mt 8:10). Thật an ủi biết bao khi biết rằng, ngay cả khi những người khác không biết về ý định hoặc hành động tốt của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn nhìn thấy chúng và đánh giá cao chúng.

42. Trong nhân tính của mình, Chúa Giêsu đã học được điều này từ Đức Maria, mẹ của Người. Đức Mẹ đã cẩn thận suy gẫm về những điều ngài đã trải qua; ngài “trân trọng chúng… trong lòng” (Lc 2:19, 51) và, cùng với Thánh Giuse, ngài đã dạy Chúa Giêsu từ những năm đầu đời cách chú ý theo cách tương tự.

LỜI CỦA CHÚA GIÊSU

43. Mặc dù Kinh thánh lưu giữ những lời của Chúa Giêsu, luôn sống động và hợp thời, nhưng có những khoảnh khắc Người nói với chúng ta bên trong, kêu gọi chúng ta và dẫn chúng ta đến một nơi tốt đẹp hơn. Nơi tốt đẹp hơn đó chính là trái tim của Người. Ở đó, Người mời gọi chúng ta tìm kiếm sức mạnh và sự bình an mới: “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Theo nghĩa này, Người có thể nói với các môn đệ của mình: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15:4).

44. Lời của Chúa Giêsu cho thấy sự thánh thiện của Người không loại trừ những cảm xúc sâu sắc. Trong nhiều dịp khác nhau, Người đã thể hiện một tình yêu vừa nồng nhiệt vừa cảm thương. Người có thể vô cùng xúc động và đau buồn, thậm chí đến mức rơi nước mắt. Rõ ràng là Chúa Giêsu không thờ ơ với những lo lắng và bận tâm hàng ngày của người ta, chẳng hạn như sự mệt mỏi hoặc đói khát của họ: “Ta chạnh lòng thương đám đông này... họ không có gì để ăn... họ sẽ ngất xỉu dọc đường, và một số người trong số họ đã đến từ một nơi rất xa” (Mc 8:2-3).

45. Tin Mừng không hề che giấu tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giêrusalem: “Khi đến gần và thấy thành, Người khóc thương thành” (Lc 19:41). Sau đó, Người đã nói lên ước muốn sâu xa nhất trong lòng mình: “Phải chi ngày hôm nay anh em nhận ra những điều đem lại bình an” (Lc 19:42). Các tác giả Tin Mừng, trong khi đôi khi cho thấy Người trong quyền năng và vinh quang của Người, cũng mô tả những cảm xúc sâu sắc của Người trước cái chết và nỗi đau buồn của bạn bè Người. Trước khi kể lại việc Chúa Giêsu, đứng trước ngôi mộ của Ladarô, “bắt đầu khóc” (Ga 11:35), Tin Mừng ghi nhận rằng, “Chúa Giêsu yêu Martha và em gái bà và Ladarô” (Ga 11:5) và rằng, khi thấy Maria và những người ở với bà khóc, “Người rất bối rối trong lòng và xúc động sâu xa” (Ga 11:33). Lời tường thuật của Tin Mừng không để lại nghi ngờ gì rằng những giọt nước mắt của Người là chân thành, là dấu hiệu của sự hỗn loạn nội tâm. Các sách Tin Mừng cũng không cố che giấu nỗi thống khổ của Chúa Giêsu về cái chết dữ dội sắp xảy ra của Người dưới tay những người mà Người đã yêu thương vô cùng: Người “bắt đầu buồn rầu và xao xuyến” (Mc 14:33), thậm chí đến mức kêu lên: “Tôi buồn đến chết được” (Mc 14:34). Sự hỗn loạn bên trong này được thể hiện mạnh mẽ nhất qua tiếng kêu của Người trên thập giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (Mc 15:34).

46. Thoạt nhìn, tất cả những điều này có vẻ giống như chủ nghĩa tình cảm đạo đức giả. Tuy nhiên, chúng cực kỳ nghiêm túc và có tầm quan trọng quyết định, và được thể hiện cao cả nhất trong Chúa Kitô bị đóng đinh. Thập giá là lời yêu thương hùng hồn nhất của Chúa Giêsu. Một lời không hời hợt, ủy mị hay chỉ mang tính xây dựng. Đó là tình yêu, tình yêu thuần túy. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô, khi phải vật lộn để tìm đúng từ ngữ để mô tả mối quan hệ của mình với Chúa Kitô, có thể nói về “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2:20). Đây là niềm xác tín sâu sắc nhất của Thánh Phaolô: sự hiểu biết rằng mình được yêu thương. Sự tự hiến của Chúa Kitô trên thập giá đã trở thành động lực trong cuộc sống của Thánh Phaolô, nhưng điều đó chỉ có ý nghĩa với ngài vì ngài biết rằng có điều gì đó thậm chí còn lớn lao hơn ẩn sau đó: sự thật rằng “Người đã yêu thương tôi”. Vào thời điểm mà nhiều người đang tìm kiếm sự cứu rỗi, thịnh vượng hoặc an ninh ở nơi khác, Thánh Phaolô, được Thánh Thần thúc đẩy, đã có thể nhìn xa hơn và kinh ngạc trước điều vĩ đại nhất và thiết yếu nhất trong tất cả: “Chúa Kitô đã yêu thương tôi”.

47. Bây giờ, sau khi suy gẫm về Chúa Kitô và thấy cách hành động và lời nói của Người mang lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về trái tim Người, chúng ta hãy chuyển sang sự suy tư của Giáo hội về mầu nhiệm thánh thiện của Thánh Tâm Chúa.

CHƯƠNG BA: ĐÂY LÀ TRÁI TIM ĐÃ YÊU THƯƠNG NHIỀU ĐẾN VẬY

48. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô không phải là sự tôn kính một cơ quan riêng biệt ngoài Ngôi vị của Chúa Giêsu. Điều chúng ta chiêm ngưỡng và tôn thờ là toàn thể Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được biểu tượng bằng một hình ảnh làm nổi bật trái tim của Người. Trái tim bằng thịt đó được coi là dấu hiệu đặc quyền của hữu thể sâu thẳm nhất của Chúa Con nhập thể và tình yêu của Người, cả thần linh và nhân bản. Hơn bất cứ bộ phận nào khác trên cơ thể Người, trái tim của Chúa Giêsu là “dấu hiệu và biểu tượng tự nhiên của tình yêu vô biên của Người”.[28]

THỜ PHƯỢNG ĐỨC KITÔ

49. Điều cốt yếu là phải nhận ra rằng mối quan hệ của chúng ta với Ngôi vị của Chúa Giêsu Kitô là mối quan hệ của tình bạn và sự tôn thờ, được tạo nên bởi tình yêu được thể hiện dưới hình ảnh trái tim của Người. Chúng ta tôn kính hình ảnh đó, nhưng sự tôn thờ của chúng ta chỉ hướng đến Chúa Kitô hằng sống, trong thiên tính và nhân tính trọn vẹn của Người, để chúng ta có thể được tình yêu nhân bản và thần linh của Người ôm ấp.

50. Bất kể hình ảnh nào được sử dụng, rõ ràng là cuộc sống Trái tim của Chúa Kitô – không phải là sự biểu hiện của nó – là đối tượng thờ phượng của chúng ta, vì nó là một phần của thân thể thánh thiện phục sinh của Người, không thể tách rời khỏi Con Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy thân thể đó mãi mãi. Chúng ta thờ phượng nó vì nó là “trái tim của Ngôi Lời, Đấng mà nó được kết hợp không thể tách rời”.[29] Chúng ta cũng không thờ phượng nó vì chính nó, nhưng vì với trái tim này, Chúa Con nhập thể đang sống, yêu thương chúng ta và nhận được tình yêu đáp trả của chúng ta. Bất cứ hành động yêu thương hay thờ phượng nào của trái tim Người đều “thực sự và chân thành được trao cho chính Chúa Kitô”,[30] vì nó tự phát quy chiếu trở lại Người và là “biểu tượng và hình ảnh dịu dàng của tình yêu vô hạn của Chúa Giêsu Kitô”.[31]

51. Vì lý do này, chúng ta không bao giờ nên nghĩ rằng lòng sùng kính này có thể làm chúng ta mất tập trung hoặc tách biệt khỏi Chúa Giêsu và tình yêu của Người. Theo cách tự nhiên và trực tiếp, nó hướng chúng ta đến Người và chỉ đến Người mà thôi, là Đấng kêu gọi chúng ta đến với một tình bạn quý báu được đánh dấu bằng sự đối thoại, tình cảm, sự tin tưởng và sự tôn thờ. Đấng Kitô mà chúng ta thấy được mô tả với trái tim bị đâm thủng và cháy bỏng chính là Đấng Kitô, vì yêu thương chúng ta, đã sinh ra ở Bê-lem, đi khắp Ga-li-lê để chữa lành người bệnh, ôm lấy tội nhân và tỏ lòng thương xót. Đấng Kitô cũng yêu thương chúng ta đến cùng, dang rộng vòng tay trên thập giá, sau đó đã sống lại từ cõi chết và hiện đang sống giữa chúng ta trong vinh quang.

TÔN KÍNH HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI

52. Mặc dù hình ảnh của Đấng Kitô và trái tim của Người không phải là đối tượng thờ phượng, nhưng nó cũng không chỉ là một trong nhiều hình ảnh có thể có khác. Nó không được thiết kế trên bàn làm việc hay được thiết kế bởi một nghệ sĩ; nó "không phải là biểu tượng tưởng tượng, mà là một biểu tượng thực sự tượng trưng cho trung tâm, nguồn gốc mà từ đó sự cứu rỗi tuôn chảy cho toàn thể nhân loại"[32]

53. Trải nghiệm phổ quát của con người đã biến hình ảnh trái tim thành một điều độc đáo. Thật vậy, trong suốt lịch sử và ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, nó đã trở thành biểu tượng của sự thân mật bản vị, tình cảm, sự gắn bó về mặt cảm xúc và khả năng yêu thương. Vượt qua mọi giải thích khoa học, một bàn tay đặt lên trái tim của một người bạn thể hiện tình cảm đặc biệt: khi hai người yêu nhau và gần nhau hơn, trái tim họ đập nhanh hơn; khi chúng ta bị bỏ rơi hoặc lừa dối bởi một người mà chúng ta yêu thương, trái tim chúng ta chùng xuống. Tương tự như vậy, khi chúng ta muốn nói điều gì đó sâu sắc mang tính bản vị, chúng ta thường nói rằng chúng ta đang nói "từ trái tim". Ngôn ngữ thi ca phản ánh sức mạnh của những trải nghiệm này. Trong suốt chiều dài lịch sử, trái tim đã mang một giá trị biểu tượng độc đáo, không chỉ đơn thuần là thông thường.

54. Do đó, có thể hiểu được rằng Giáo hội đã chọn hình ảnh trái tim để tượng trưng cho tình yêu nhân bản và thần thiêng của Chúa Giêsu Kitô và cốt lõi sâu xa nhất của Ngôi vị Người. Tuy nhiên, trong khi hình ảnh trái tim rực cháy có thể là biểu tượng hùng hồn về tình yêu cháy bỏng của Chúa Giêsu Kitô, thì điều quan trọng là trái tim này không được thể hiện tách biệt với Người. Theo cách này, lời kêu gọi của Người về một mối quan hệ gặp gỡ và đối thoại bản vị sẽ trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết.[33] Hình ảnh đáng kính miêu tả Chúa Kitô giơ trái tim yêu thương của Người cũng cho thấy Người nhìn thẳng vào chúng ta, mời gọi chúng ta gặp gỡ, đối thoại và tin tưởng; nó cho thấy đôi bàn tay mạnh mẽ của Người có khả năng nâng đỡ chúng ta và đôi môi Người nói chuyện trực tiếp với từng người chúng ta.

55. Trái tim cũng có lợi thế là có thể nhận ra ngay lập tức như trung tâm thống nhất sâu sắc của cơ thể, một biểu thức của toàn bộ con người, không giống như các cơ quan riêng lẻ khác. Là một phần đại diện cho toàn thể, chúng ta có thể dễ dàng hiểu sai nó, nếu chúng ta chiêm ngưỡng nó tách biệt khỏi chính Chúa. Hình ảnh trái tim phải dẫn chúng ta đến việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong tất cả vẻ đẹp và sự phong phú của nhân tính và thần tính của Người.

56. Bất kể chúng ta có thể gán những phẩm chất thẩm mỹ đặc biệt nào cho những bức miêu tả khác nhau về trái tim Chúa Kitô khi chúng ta cầu nguyện trước chúng, thì không phải là "người ta tìm kiếm điều gì đó từ chúng hoặc đặt niềm tin mù quáng vào các hình ảnh như những người ngoại đạo đã từng làm". Thay vào đó, "qua những hình ảnh mà chúng ta hôn kính, và trước những hình ảnh mà chúng ta quỳ gối và cởi khăn nón khỏi đầu, chúng ta đang tôn thờ Chúa Kitô".[34]

57. Một số hình ảnh này có thể khiến chúng ta thấy vô vị và không đặc biệt có lợi cho tình cảm hay lời cầu nguyện. Tuy nhiên, điều này không mấy quan trọng, vì chúng chỉ là lời mời gọi cầu nguyện, và trích dẫn một câu tục ngữ phương Đông, chúng ta không nên giới hạn tầm nhìn của mình vào ngón tay chỉ chúng ta đến mặt trăng. Trong khi Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện thực sự cần được tôn thờ, thì những hình ảnh thánh thiêng, mặc dù đã được làm phép, lại hướng ra ngoài bản thân chúng, mời gọi chúng ta nâng cao trái tim mình và kết hợp chúng với trái tim của Chúa Kitô hằng sống. Do đó, hình ảnh mà chúng ta tôn kính đóng vai trò như một lời kêu gọi tạo không gian cho cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và tôn thờ Người theo bất cứ cách nào chúng ta muốn hình dung về Người. Đứng trước hình ảnh, chúng ta đứng trước Chúa Kitô, và trong sự hiện diện của Người, “tình yêu dừng lại, chiêm ngưỡng mầu nhiệm và tận hưởng nó trong im lặng”.[35]

58. Đồng thời, chúng ta không bao giờ được quên rằng hình ảnh của trái tim nói với chúng ta về xác thịt và những thực tại trần thế. Theo cách này, nó hướng chúng ta đến Thiên Chúa, Đấng muốn trở thành một trong chúng ta, một phần trong lịch sử của chúng ta và là bạn đồng hành trên hành trình trần thế của chúng ta. Một hình thức sùng kính trừu tượng hoặc phong thái hóa hơn không nhất thiết sẽ trung thành hơn với Tin Mừng, vì trong dấu hiệu hùng hồn và hữu hình này, chúng ta thấy cách Chúa muốn mặc khải chính mình và đến gần chúng ta.

MỘT TÌNH YÊU CÓ THỂ SỜ MÓ ĐƯỢC

59. Mặt khác, tình yêu và trái tim con người không phải lúc nào cũng đi đôi với nhau, vì lòng căm thù, sự thờ ơ và ích kỷ cũng có thể ngự trị trong trái tim chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không thể đạt được sự viên mãn của mình như một con người trừ khi chúng ta mở lòng mình với người khác; chỉ thông qua tình yêu, chúng ta mới trở thành chính mình một cách trọn vẹn. Phần sâu thẳm nhất trong chúng ta, được tạo ra để yêu thương, sẽ hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa chỉ khi chúng ta học cách yêu thương. Và trái tim là biểu tượng của tình yêu đó.

60. Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, trong sự siêu việt hoàn toàn của Người, đã chọn yêu thương mỗi người chúng ta bằng một trái tim con người. Những cảm xúc con người của Người đã trở thành bí tích của tình yêu vô hạn và vô tận đó. Do đó, trái tim của Người không chỉ đơn thuần là biểu tượng cho một chân lý tâm linh nào đó không có thân xác. Khi chiêm ngưỡng trái tim Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng một thực tại vật chất, xác thịt con người của Người, cho phép Người sở hữu những cảm xúc và tình cảm chân thực của con người, giống như chúng ta, mặc dù đã được biến đổi hoàn toàn bởi tình yêu thần thiêng của Người. Lòng sùng kính của chúng ta phải vươn tới tình yêu vô hạn của Ngôi vị Con Thiên Chúa, nhưng chúng ta cần ghi nhớ rằng tình yêu thần thiêng của Người không thể tách rời khỏi tình yêu nhân bản của Người. Hình ảnh trái tim bằng thịt của Người giúp chúng ta thực hiện chính xác điều này.

61. Vì trái tim vẫn được coi là trung tâm tình cảm của mỗi con người trong tâm trí bình dân, nên nó vẫn là phương tiện tốt nhất để biểu thị tình yêu thần thiêng của Chúa Kitô, được kết hợp mãi mãi và không thể tách rời với tình yêu hoàn toàn nhân bản của Người. Đức Piô XII đã nhận xét rằng Tin Mừng, khi đề cập đến tình yêu của trái tim Chúa Kitô, nói "không những về lòng bác ái thần thiêng mà còn về tình cảm nhân bản". Thật vậy, "trái tim của Chúa Giêsu Kitô, được kết hợp một cách bản thể với Ngôi vị thần thiêng Ngôi Lời, không còn nghi ngờ gì nữa, đập rộn ràng với tình yêu và mọi tình cảm dịu dàng khác".[36]

62. Các Giáo Phụ của Giáo Hội, phản đối những người phủ nhận hoặc hạ thấp nhân tính đích thực của Chúa Kitô, đã nhấn mạnh đến thực tại cụ thể và hữu hình của tình cảm con người của Chúa. Thánh Basiliô nhấn mạnh rằng sự nhập thể của Chúa không phải là điều gì đó kỳ ảo, và rằng “Chúa đã sở hữu những tình cảm tự nhiên của chúng ta”. [37] Thánh Gioan Kim Khẩu đã chỉ ra một ví dụ: “Nếu Người không sở hữu bản chất của chúng ta, Người đã không thỉnh thoảng trải qua nỗi buồn”. [38] Thánh Ambrôsiô tuyên bố rằng “khi tiếp nhận một linh hồn, Người đã tiếp nhận những đam mê của linh hồn”. [39] Đối với Thánh Augustinô, những tình cảm con người của chúng ta, mà Chúa Kitô đã đảm nhận, giờ đây đã mở cửa đón nhận cuộc sống ân sủng: “Chúa Giêsu đã đảm nhận những tình cảm này của sự yếu đuối nhân bản của chúng ta, như Người đã làm với xác thịt của sự yếu đuối nhân bản của chúng ta, không phải vì cần thiết, mà là một cách có ý thức và tự do... kẻo bất cứ ai cảm thấy đau buồn và buồn phiền giữa những thử thách của cuộc sống lại nghĩ rằng mình bị tách biệt khỏi ân sủng của Người”. [40] Cuối cùng, Thánh Gioan Đa-mát-xen-nô coi tình cảm chân thành mà Chúa Kitô thể hiện trong nhân tính của Người là bằng chứng cho thấy Người đã đảm nhận toàn bộ bản chất của chúng ta để cứu chuộc và biến đổi toàn bộ bản chất đó: Như thế, Chúa Kitô đã đảm nhận mọi sự thuộc về bản chất con người, để mọi sự đều được thánh hóa.[41]

63. Ở đây, chúng ta có thể hưởng lợi từ những suy nghĩ của một nhà thần học, người cho rằng, “do ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp, thần học từ lâu đã đẩy cơ thể và cảm xúc vào thế giới tiền nhân bản hoặc hạ nhân bản hoặc có tiềm năng vô nhân đạo; tuy nhiên, những gì thần học không giải quyết được về mặt lý thuyết, thì linh đạo đã giải quyết được trong thực tế. Điều này, cùng với lòng đạo đức bình dân, đã bảo tồn mối quan hệ với thực tại thể xác, tâm lý và lịch sử của Chúa Giêsu. Các Chặng Đàng Thánh Giá, lòng sùng kính các vết thương của Chúa Kitô, Máu Châu Báu và Thánh Tâm của Người, và nhiều lòng sùng kính Thánh Thể khác nhau... tất cả đều thu hẹp khoảng cách trong thần học bằng cách nuôi dưỡng trái tim và trí tưởng tượng của chúng ta, tình yêu dịu dàng của chúng ta dành cho Chúa Kitô, hy vọng và ký ức của chúng ta, mong muốn và cảm xúc của chúng ta. Lý trí và luận lý học đã đi theo những hướng khác”.[42]

TÌNH YÊU BA CHIỀU

64. Chúng ta không chỉ dừng lại ở mức độ tình cảm nhân bản của Chúa, đẹp đẽ và cảm động như chúng vốn có. Khi chiêm ngưỡng trái tim Chúa Kitô, chúng ta cũng thấy cách mà, trong những tình cảm cao quý và tốt đẹp, lòng nhân từ và dịu dàng của Người, và những dấu hiệu của tình cảm chân thành của con người, chân lý sâu sắc hơn về tình yêu thần thiêng vô hạn của Người được tỏ lộ. Theo lời của Đức Bênêđictô XVI, “từ chân trời vô hạn của tình yêu, Thiên Chúa muốn đi vào ranh giới của lịch sử loài người và tình trạng con người. Người đã mặc lấy một thân xác và một trái tim. Vì vậy, chúng ta có thể chiêm ngưỡng và gặp gỡ vô hạn trong hữu hạn, mầu nhiệm vô hình và không thể diễn tả được trong trái tim con người của Chúa Giêsu thành Na-da-rét”.[43]

65. Hình ảnh trái tim Chúa thực sự nói với chúng ta về tình yêu ba chiều. Trước tiên, chúng ta chiêm ngưỡng tình yêu thần thiêng vô hạn của Người. Sau đó, chúng ta hướng suy nghĩ của mình đến chiều kích tâm linh của nhân tính Người, trong đó trái tim là “biểu tượng của tình yêu nồng cháy nhất, được truyền vào tâm hồn Người, làm phong phú thêm ý chí con người của Người”. Cuối cùng, “nó cũng là biểu tượng của tình yêu nhạy cảm của Người”.[44]

66. Ba tình yêu này không tách biệt, song song hoặc không liên quan, nhưng cùng nhau hành động và tìm cách phát biểu trong một sự hiệp nhất bền chặt và sống động. Vì “bởi đức tin, qua đó chúng ta tin rằng bản chất con người và thần linh đã hợp nhất trong Ngôi vị của Chúa Kitô, chúng ta có thể thấy mối liên kết chặt chẽ nhất giữa tình yêu dịu dàng của trái tim thể xác của Chúa Giêsu và tình yêu thần thiêng kép, tức là nhân bản và thần linh”.[45]

67. Khi bước vào trái tim của Chúa Kitô, chúng ta cảm thấy được yêu thương bởi một trái tim con người tràn đầy tình cảm và cảm xúc giống như chính chúng ta. Ý chí con người của Chúa Giêsu tự do lựa chọn yêu thương chúng ta, và tình yêu thần thiêng đó tràn ngập ân sủng và lòng bác ái. Khi chúng ta lao vào sâu thẳm trái tim Người, chúng ta thấy mình bị choáng ngợp bởi vinh quang bao la của tình yêu vô hạn của Người là Chúa Con vĩnh cửu, mà chúng ta không thể tách rời khỏi tình yêu nhân bản của Người. Chính trong tình yêu nhân bản của Người, chứ không phải ngoài tình yêu đó, mà chúng ta gặp được tình yêu thần linh của Người: chúng ta khám phá ra “cái vô hạn trong cái hữu hạn”.[46]

68. Giáo huấn liên tục và rõ ràng của Giáo hội là việc chúng ta tôn thờ ngôi vị của Chúa Kitô là không thể chia cắt, bao gồm cả bản chất thần linh và bản chất nhân bản của Người. Từ thời xa xưa, Giáo hội đã dạy rằng chúng ta phải “thờ phượng một và cùng một Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và con loài người, bao gồm và trong hai bản tính không thể tách rời và không thể chia cắt”.[47] Và chúng ta làm như vậy “bằng một hành động thờ phượng… vì Ngôi Lời đã trở nên xác phàm”.[48] Chúa Kitô không hề “được thờ phượng trong hai bản tính, qua đó hai hành vi thờ phượng được dẫn nhập”; thay vào đó, chúng ta tôn kính “bằng một hành động thờ phượng Thiên Chúa Ngôi Lời đã trở nên xác phàm, cùng với chính xác thịt của Người”.[49]

69. Thánh Gioan Thánh Giá đã tìm cách giải thích rằng trong kinh nghiệm huyền nhiệm, tình yêu vô hạn của Chúa Kitô phục sinh không được coi là xa lạ với cuộc sống của chúng ta. Theo một cách nào đó, vô hạn “hạ mình” để cho phép chúng ta, thông qua trái tim rộng mở của Chúa Kitô, trải nghiệm một cuộc gặp gỡ của tình yêu thực sự có đi có lại, vì “thật đáng tin rằng một con chim bay thấp có thể bắt được đại bàng hoàng gia trên cao, nếu con đại bàng này lao xuống với mong muốn bị bắt”.[50] Ngài cũng giải thích rằng Chú Rể, “nhìn thấy cô dâu bị thương vì tình yêu dành cho mình, vì tiếng rên rỉ của cô, ông cũng bị thương vì tình yêu dành cho cô. Trong số những người yêu nhau, vết thương của một người là vết thương của cả hai”.[51] Thánh Gio-an Thánh Giá coi hình ảnh cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Kitô là lời mời gọi kết hợp trọn vẹn với Chúa. Chúa Kitô là con nai bị thương, bị thương khi chúng ta không để tình yêu của Người chạm đến mình, người đã xuống dòng nước để giải cơn khát và được an ủi mỗi khi chúng ta hướng về Người:

Hãy trở về, hỡi chim bồ câu!
Con nai bị thương
đang ở trên đồi,
được làm mát bởi làn gió từ chuyến bay của bạn
”.[52]

CÁC GÓC NHÌN BA NGÔI

70. Lòng sùng kính trái tim Chúa Giêsu, như một sự chiêm nghiệm trực tiếp về Chúa, Đấng kéo chúng ta vào sự kết hợp với Người, rõ ràng mang bản chất Kitô học. Chúng ta thấy điều này trong Thư gửi tín hữu Do Thái, thúc giục chúng ta “chạy với lòng kiên trì trong cuộc đua được đặt ra trước chúng ta, hướng mắt về Chúa Giêsu” (12:2). Đồng thời, chúng ta cần nhận ra rằng Chúa Giêsu nói về chính mình như là con đường đến với Chúa Cha: “Thầy là con đường… Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Đó là lý do tại sao, ngay từ đầu, việc rao giảng của Giáo hội không kết thúc với Chúa Giêsu, mà là với Chúa Cha. Là nguồn mạch và sự viên mãn, Chúa Cha cuối cùng là Đấng được tôn vinh.[53]

71. Ví dụ, nếu chúng ta quay sang Thư gửi tín hữu Êphêsô, chúng ta có thể thấy rõ cách thờ phượng của chúng ta hướng đến Chúa Cha: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha” (3:14). Chỉ có “một Thiên Chúa và là Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (4:6). “Hãy tạ ơn Thiên Chúa Cha trong mọi lúc và trong mọi sự” (5:20). Chính Chúa Cha là “Đấng mà vì Người chúng ta hiện hữu” (1 Cr 8:6). Theo nghĩa này, Thánh Gioan Phaolô II có thể nói rằng, “toàn bộ đời sống Kitô hữu giống như một cuộc hành hương vĩ đại đến nhà Chúa Cha”.[54] Đây cũng là kinh nghiệm của Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a trên con đường tử đạo của ngài: “Trong tôi không còn tia lửa nào của ham muốn những điều trần tục, nhưng chỉ có tiếng thì thầm của dòng nước sống thì thầm bên trong tôi, ‘Hãy đến với Chúa Cha’”.[55]

72. Chúa Cha, trên hết mọi sự, là Cha của Chúa Giêsu Kitô: “Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Ep 1:3). Người là “Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh quang” (Ep 1:17). Khi Chúa Con trở thành người, mọi hy vọng và khát vọng của trái tim con người của Người đều hướng về Chúa Cha. Nếu chúng ta xem xét cách Chúa Kitô nói về Chúa Cha, chúng ta có thể nắm bắt được tình yêu và tình cảm mà trái tim con người của Người dành cho Người, sự hướng tâm hoàn toàn và liên tục này về Người. [56] Cuộc sống của Chúa Giêsu giữa chúng ta là một hành trình đáp lại tiếng gọi liên tục của trái tim nhân bản của Người để đến với Chúa Cha. [57]

73. Chúng ta biết rằng từ tiếng Aram mà Chúa Giêsu dùng để xưng hô với Chúa Cha là “Abba”, một thuật ngữ thân mật và quen thuộc mà một số người thấy khó hiểu (x. Ga 5:18). Đó là cách Người xưng hô với Chúa Cha khi bày tỏ nỗi thống khổ của Người trước cái chết sắp xảy ra: “Abba, Bố ơi, Bố có thể làm được mọi sự; xin cất chén này xa con; nhưng không phải điều con muốn, mà là điều Bố muốn” (Mc 14:36). Chúa Giêsu biết tốt, rằng Người luôn được Chúa Cha yêu thương: “Cha đã yêu thương Con trước khi tạo thành thế gian” (Ga 17:24). Trong trái tim nhân bản của Người, Người đã vui mừng khi nghe Chúa Cha nói với Người: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).

74. Tin Mừng thứ tư cho chúng ta biết rằng Chúa Con vĩnh cửu luôn “gần gũi với trái tim của Chúa Cha” (Ga 1:18).[58] Thánh Irênê tuyên bố rằng “Con Thiên Chúa đã ở với Chúa Cha ngay từ đầu”.[59] Về phần mình, Origen cho rằng Chúa Con kiên trì “trong sự chiêm ngưỡng không ngừng về chiều sâu của Chúa Cha”.[60] Khi Chúa Con nhập thể, Người đã dành trọn đêm để trò chuyện với Chúa Cha yêu dấu của mình trên đỉnh núi (x. Lc 6:12). Người đã nói với chúng ta, “Ta phải ở trong nhà của Cha Ta” (Lc 2:49). Chúng ta cũng thấy cách ngài bày tỏ lời ngợi khen của mình: “Đức Giêsu vui mừng trong Chúa Thánh Thần và nói: ‘Lạy Cha, Chúa Tể trời đất, Con cảm tạ Cha’ (Lc 10:21). Những lời cuối cùng của Người, đầy lòng tin tưởng, là: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).

75. Bây giờ chúng ta hãy hướng về Chúa Thánh Thần, Đấng có ngọn lửa tràn ngập trái tim của Chúa Kitô. Như Thánh Gioan Phaolô II đã từng nói, trái tim của Chúa Kitô là “kiệt tác của Chúa Thánh Thần”.[61] Đây không chỉ đơn thuần là một sự kiện trong quá khứ, vì ngay cả bây giờ “trái tim của Chúa Kitô vẫn sống động với hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đã gán cho nguồn cảm hứng cho sứ mệnh của Người (x. Lc 4:18; Is 61:1) và Người đã hứa sẽ sai Người đến trong Bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nắm bắt được sự phong phú của dấu chỉ về cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Kitô, từ đó Giáo hội đã phát sinh (x. Sacrosanctum Concilium, 5)”.[62] Nói tóm lại, “chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể mở ra trước mắt chúng ta sự trọn vẹn của ‘con người bên trong’, được tìm thấy trong trái tim của Chúa Kitô. Chỉ một mình Người mới có thể khiến trái tim con người của chúng ta rút ra sức mạnh từ sự trọn vẹn đó, từng bước một”. [63].

76. Nếu chúng ta tìm cách đào sâu hơn vào hoạt động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ biết rằng Người rên rỉ trong chúng ta, nói rằng “Abba!” Thật vậy, “bằng chứng cho thấy anh em là con cái là Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Người vào lòng chúng ta, kêu lên rằng: ‘Abba! Cha ơi!’” (Gl 4:6). Vì “Thần Khí làm chứng với tâm hồn chúng ta rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8:16). Chúa Thánh Thần hoạt động trong trái tim nhân bản của Chúa Kitô không ngừng kéo Người đến với Chúa Cha. Khi Chúa Thánh Thần kết hợp chúng ta với những tình cảm của Chúa Kitô qua ân sủng, Người làm cho chúng ta trở thành những người chia sẻ mối quan hệ của Chúa Con với Chúa Cha, nhờ đó chúng ta nhận được “thần khí làm con nuôi, qua đó chúng ta kêu lên: ‘Abba! Lạy Cha!’” (Rm 8:15).

77. Mối quan hệ của chúng ta với trái tim của Chúa Kitô do đó đã thay đổi, nhờ sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Cha, nguồn sống và là nguồn mạch ân sủng tối thượng. Chúa Kitô không mong đợi chúng ta chỉ ở lại trong Người. Tình yêu của Người là “sự mặc khải lòng thương xót của Chúa Cha”,[64] và Người mong muốn rằng, được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần trào dâng từ trái tim Người, chúng ta sẽ lên đến Chúa Cha “với Người và trong Người”. Chúng ta tôn vinh Chúa Cha “qua” Chúa Kitô,[65] “với” Chúa Kitô,[66] và “trong” Chúa Kitô.[67] Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng, “trái tim của Đấng Cứu Thế mời gọi chúng ta trở về với tình yêu của Chúa Cha, là nguồn gốc của mọi tình yêu đích thực”.[68] Đây chính xác là điều mà Chúa Thánh Thần, Đấng đến với chúng ta qua trái tim của Chúa Kitô, tìm cách nuôi dưỡng trong trái tim chúng ta. Vì lý do này, phụng vụ, thông qua hoạt động sống động của Chúa Thánh Thần, luôn hướng về Chúa Cha từ trái tim phục sinh của Chúa Kitô.

GIÁO HUẤN GẦN ĐÂY CỦA HUẤN QUYỀN

78. Theo nhiều cách, trái tim của Chúa Kitô luôn hiện diện trong lịch sử linh đạo Kitô giáo. Trong Kinh thánh và trong những thế kỷ đầu của đời sống Giáo hội, trái tim này xuất hiện dưới hình ảnh cạnh sườn bị thương của Chúa, như một nguồn ân sủng và lời kêu gọi đến một cuộc gặp gỡ sâu sắc và yêu thương. Cũng dưới hình thức này, trái tim đã xuất hiện trở lại trong các tác phẩm của nhiều vị thánh, quá khứ và hiện tại. Trong những thế kỷ gần đây, linh đạo này đã dần dần mang hình thức sùng kính cụ thể đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu.

79. Một số vị Tiền nhiệm của tôi đã nói theo nhiều cách khác nhau về trái tim của Chúa Kitô và khuyên chúng ta hãy kết hợp với trái tim đó. Vào cuối thế kỷ XIX, Đức Lêô XIII đã khuyến khích chúng ta tận hiến cho Thánh Tâm, qua đó kết hợp lời kêu gọi của chúng ta để kết hợp với Chúa Kitô và sự ngạc nhiên của chúng ta trước sự vĩ đại của tình yêu vô hạn của Người.[69] Khoảng ba mươi năm sau, Đức Piô XI đã trình bày lòng sùng kính này như một “summa” [tổng luận] của kinh nghiệm đức tin Kitô giáo.[70] Đức Piô XII tiếp tục tuyên bố rằng việc tôn thờ Thánh Tâm diễn tả theo một cách nổi bật, như một sự tổng hợp cao cả, sự tôn thờ mà chúng ta nợ Chúa Giêsu Kitô.[71]

80. Gần đây hơn, Thánh Gioan Phaolô II đã trình bày sự phát triển của lòng sùng kính này trong những thế kỷ gần đây như một phản ứng trước sự trỗi dậy của các hình thức tâm linh nghiêm ngặt và phi thể xác đã bỏ qua sự phong phú của lòng thương xót của Chúa. Đồng thời, ngài coi đó là lời kêu gọi kịp thời để chống lại những nỗ lực tạo ra một thế giới không còn chỗ cho Thiên Chúa. “Lòng sùng kính Thánh Tâm, như đã phát triển ở châu Âu cách đây hai thế kỷ, dưới sự thúc đẩy của những kinh nghiệm huyền nhiệm của Thánh Margarét Maria Alacoque, là một phản ứng đối với sự nghiêm ngặt của phái Jansen, mà cuối cùng đã bỏ qua lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa... Những người đàn ông và đàn bà của thiên niên kỷ thứ ba cần trái tim của Chúa Kitô để biết Thiên Chúa và biết chính mình; họ cần nó để xây dựng nền văn minh của tình yêu”.[72]

81. Đức Bênêđictô XVI đã yêu cầu chúng ta nhận ra trong trái tim của Chúa Kitô một sự hiện diện thân mật và hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta: “Mỗi người cần một ‘trung tâm’ cho cuộc sống của chính mình, một nguồn chân lý và lòng tốt để khai thác trong các sự kiện, tình huống và cuộc đấu tranh của cuộc sống hàng ngày. Tất cả chúng ta, khi dừng lại trong im lặng, cần cảm nhận không những nhịp đập của trái tim mình, mà sâu hơn nữa, nhịp đập của một sự hiện diện đáng tin cậy, có thể cảm nhận được bằng các giác quan của đức tin và thực tế hơn nhiều: sự hiện diện của Chúa Kitô, trái tim của thế giới”.[73]

SUY NGHĨ THÊM VÀ SỰ LIÊN QUAN ĐẾN THỜI ĐẠI CỦA CHÚNG TA

82. Hình ảnh biểu tượng và biểu cảm của trái tim Chúa Kitô không phải là phương tiện duy nhất mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta để gặp gỡ tình yêu của Chúa Kitô, nhưng như chúng ta đã thấy, đó là một hình ảnh đặc biệt ưu tuyển. Mặc dù vậy, nó liên tục cần được làm phong phú, đào sâu và đổi mới thông qua việc suy gẫm, đọc Tin Mừng và phát triển sự trưởng thành về mặt tâm linh. Đức Piô XII đã nói rõ Giáo hội không tuyên bố rằng, “chúng ta phải chiêm ngưỡng và tôn thờ trong trái tim Chúa Giêsu một hình ảnh ‘hình thức’, nghĩa là một dấu chỉ hoàn hảo và tuyệt đối về tình yêu thần thiêng của Người, vì bản chất của tình yêu này không thể được diễn tả đầy đủ bằng bất cứ hình ảnh tạo vật nào”.[74]

83. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô là điều thiết yếu đối với đời sống Kitô hữu của chúng ta trong chừng mực nó mô tả sự cởi mở của chúng ta trong đức tin và sự tôn thờ đối với mầu nhiệm tình yêu thần thiêng và nhân bản của Chúa. Theo nghĩa này, chúng ta có thể một lần nữa khẳng định rằng Thánh Tâm là sự tổng hợp của Tin Mừng.[75] Chúng ta cần nhớ rằng những thị kiến hoặc sự tỏ bày huyền nhiệm do một số vị thánh nhiệt thành khuyến khích lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô kể lại không phải là điều mà các tín hữu buộc phải tin như thể đó là lời của Chúa.[76] Tuy nhiên, chúng là nguồn khích lệ phong phú và có thể chứng minh là rất có lợi, ngay cả khi không ai cảm thấy bị ép buộc phải tuân theo chúng nếu chúng không chứng minh là hữu ích trên hành trình tâm linh của chính mình. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta nên lưu ý rằng, như Đức Piô XII đã chỉ ra, lòng sùng kính này không thể được cho là "có nguồn gốc từ những mặc khải riêng tư".[77]

84. Ví dụ, việc thúc đẩy việc rước lễ vào thứ Sáu đầu tiên của mỗi tháng đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ vào thời điểm mà nhiều người đã ngừng rước lễ vì họ không còn tin tưởng vào lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa và coi việc rước lễ như một loại phần thưởng cho sự hoàn hảo. Trong bối cảnh của thuyết Jansen, việc truyền bá thực hành này đã chứng minh là vô cùng có lợi, vì nó dẫn đến nhận thức rõ ràng hơn rằng trong Bí tích Thánh Thể, tình yêu thương xót và luôn hiện hữu của trái tim Chúa Kitô mời gọi chúng ta kết hợp với Người. Cũng có thể nói rằng việc thực hành này có thể chứng minh lợi ích tương tự trong thời đại của chúng ta, vì một lý do khác. Giữa nhịp sống hối hả của thế giới ngày nay và nỗi ám ảnh của chúng ta với thời gian rảnh rỗi, tiêu dùng và giải trí, điện thoại di động và phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta quên nuôi dưỡng cuộc sống của mình bằng sức mạnh của Bí tích Thánh Thể.

85. Mặc dù không ai nên cảm thấy bắt buộc phải dành một giờ để tôn thờ vào mỗi thứ Năm, nhưng việc thực hành này chắc chắn nên được khuyến khích. Khi chúng ta thực hiện điều này với lòng sùng kính, trong sự hiệp nhất với nhiều anh chị em của chúng ta và khám phá trong Bí tích Thánh Thể tình yêu bao la của trái tim Chúa Kitô, chúng ta "cùng với Giáo hội tôn thờ dấu hiệu và biểu hiện của tình yêu thần thiêng đã đi xa đến mức yêu thương loài người, thông qua trái tim của Ngôi Lời nhập thể". [78]

86. Nhiều người theo chủ nghĩa Jansen thấy điều này khó hiểu, vì họ nhìn mọi sự thuộc về con người, tình cảm và thể xác một cách ngờ vực, và vì vậy coi việc sùng kính này làm chúng ta xa cách sự thờ phượng tinh khiết Thiên Chúa Tối Cao. Đức Piô XII mô tả thái độ của những nhóm coi Chúa là siêu phàm, tách biệt và xa cách đến mức họ coi những biểu hiện tình cảm của lòng mộ đạo bình dân là nguy hiểm và cần sự giám sát của giáo hội là “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo”.

87. Có thể lập luận rằng ngày nay, thay vì chủ nghĩa Jansen, chúng ta thấy mình đang đứng trước một làn sóng tục hóa mạnh mẽ nhằm xây dựng một thế giới không có Thiên Chúa. Trong xã hội của chúng ta, chúng ta cũng đang chứng kiến sự gia tăng của nhiều hình thức tôn giáo khác nhau không liên quan gì đến mối quan hệ bản vị với Chúa tình yêu, mà là những biểu hiện mới của một nền tâm linh phi vật chất. Tôi phải cảnh cáo rằng ngay cả trong Giáo hội, một chủ nghĩa nhị nguyên Jansen tai hại cũng đã tái xuất hiện dưới những hình thức mới. Chủ nghĩa này đã lấy lại được sức mạnh trong những thập niên gần đây, nhưng đó là sự tái phát của chủ nghĩa Ngộ đạo đã chứng tỏ là một mối đe dọa tâm linh rất lớn trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo vì nó từ chối thừa nhận thực tại “ơn cứu rỗi xác thịt”. Vì lý do này, tôi hướng mắt về trái tim Chúa Kitô và tôi mời gọi tất cả chúng ta hãy đổi mới lòng sùng kính của mình đối với trái tim Chúa Kitô. Tôi hy vọng điều này cũng sẽ thu hút sự nhạy cảm của ngày hôm nay. và do đó giúp chúng ta đối đầu với chủ nghĩa nhị nguyên, cũ và mới, mà lòng sùng kính này đưa ra một phản ứng hữu hiệu.

88. Tôi muốn nói thêm rằng trái tim của Chúa Kitô cũng giải thoát chúng ta khỏi một loại chủ nghĩa nhị nguyên khác được tìm thấy trong các cộng đồng và các mục tử quá bận rộn với các hoạt động bên ngoài, các cải cách cơ cấu ít liên quan đến Tin Mừng, các kế hoạch tái tổ chức đầy ám ảnh, các dự án thế gian, cách suy nghĩ thế tục và các chương trình đầy mệnh lệnh. Kết quả thường là một Kitô giáo bị tước mất sự an ủi dịu dàng của đức tin, niềm vui phục vụ người khác, lòng nhiệt thành của cam kết bản thân đối với sứ mệnh, vẻ đẹp của việc biết Chúa Kitô và lòng biết ơn sâu sắc nảy sinh từ tình bạn mà Người ban tặng và ý nghĩa cuối cùng mà Người ban cho cuộc sống của chúng ta. Đây cũng là biểu thức của một thế giới khác đầy ảo tưởng và không có thân xác.

89. Một khi chúng ta khuất phục trước những thái độ này, rất phổ biến trong thời đại của chúng ta, chúng ta có xu hướng mất đi mọi mong muốn được chữa lành khỏi chúng. Điều này khiến tôi đề nghị với toàn thể Giáo hội một sự suy gẫm mới về tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện trong Trái tim Thánh của Người. Vì ở đó chúng ta tìm thấy toàn bộ Tin Mừng, một sự tổng hợp các chân lý đức tin của chúng ta, tất cả những gì chúng ta tôn thờ và tìm kiếm trong đức tin, tất cả những gì đáp ứng nhu cầu sâu sắc nhất của chúng ta.

90. Khi chiêm ngưỡng trái tim của Chúa Kitô, sự tổng hợp nhập thể của Tin Mừng, chúng ta có thể, theo gương của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, “đặt niềm tin chân thành không phải vào chính mình mà vào lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta vô điều kiện và đã ban cho chúng ta mọi thứ trên thập giá của Chúa Giêsu Kitô”. [80] Thánh Têrêsa đã có thể làm điều này vì bà đã khám phá ra trong trái tim của Chúa Kitô rằng Thiên Chúa là tình yêu: “Người đã ban cho tôi lòng thương xót vô hạn của Người, và qua đó, tôi chiêm ngưỡng và tôn thờ những sự hoàn hảo khác của Thiên Chúa”. [81] Đó là lý do tại sao một lời cầu nguyện phổ biến, hướng như một mũi tên về phía trái tim của Chúa Kitô, chỉ đơn giản nói rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng vào Người”. [82] Không cần bất cứ lời nào khác.

91. Trong các chương sau, chúng ta sẽ nhấn mạnh hai khía cạnh thiết yếu mà lòng sùng kính Thánh Tâm hiện đại cần kết hợp, để nó có thể tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta và đưa chúng ta đến gần hơn với Tin Mừng: kinh nghiệm tâm linh bản thân và cam kết truyền giáo cộng đồng.

 

CHƯƠNG BỐN: MỘT TÌNH YÊU TẶNG CHÍNH MÌNH NHƯ THỨC UỐNG

92. Bây giờ chúng ta hãy quay lại với Kinh thánh, các bản văn được linh hứng, nơi mà trên hết, chúng ta gặp gỡ mặc khải của Thiên Chúa. Ở đó, và trong Truyền thống sống động của Giáo hội, chúng ta nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử. Bằng cách đọc một số bản văn từ Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta sẽ hiểu sâu hơn về lời Chúa đã hướng dẫn cuộc hành hương tâm linh vĩ đại của dân Người qua nhiều thời đại.

MỘT VỊ THIÊN CHÚA KHÁT TÌNH YÊU

93. Kinh thánh cho thấy rằng những người đã đi qua sa mạc và khao khát tự do đã nhận được lời hứa về một nguồn nước dồi dào mang lại sự sống: “Với niềm vui, bạn sẽ múc nước từ các nguồn cứu độ” (Is 12:3). Các lời tiên tri về Đấng cứu thế dần dần hợp nhất xung quanh hình ảnh nước thanh tẩy: “Ta sẽ rảy nước trong sạch trên các ngươi, và các ngươi sẽ được sạch… Ta sẽ đặt một tinh thần mới trong các ngươi” (Edk 36:25-26). Nước này sẽ ban cho dân Chúa sự sống trọn vẹn, giống như một nguồn nước chảy ra từ Đền thờ và mang theo sự sống và sự cứu rỗi dồi dào. “Ta thấy trên bờ sông có rất nhiều cây cối ở bên này và bên kia… và bất cứ nơi nào dòng sông chảy qua, mọi sinh vật đều sẽ sống… và khi dòng sông chảy vào biển, nước của nó sẽ trở nên trong lành; mọi thứ sẽ sống ở nơi dòng sông chảy qua” (Edk 47:7-9).

94. Lễ Lều Tạm (Sukkot) của người Do Thái, tưởng nhớ đến bốn mươi năm lưu trú của Israel trong sa mạc, dần dần đã áp dụng biểu tượng của nước làm yếu tố trung tâm. Nó bao gồm nghi lễ dâng nước vào mỗi buổi sáng, trở nên trang trọng nhất vào ngày cuối cùng của lễ hội, khi một đoàn rước lớn tiến về Đền thờ, bàn thờ được đi vòng quanh bảy lần và nước được dâng lên Chúa trong tiếng reo mừng lớn. [83]

95. Bình minh của kỷ nguyên cứu thế được mô tả như một nguồn nước tuôn trào cho dân chúng: “Ta sẽ đổ một tinh thần thương xót và cầu xin trên nhà Đa-vít và dân cư Giêrusalem, và họ sẽ nhìn lên Đấng mà họ đã đâm… Vào ngày đó, một nguồn nước sẽ được mở ra cho nhà Đa-vít và dân cư Giêrusalem, để thanh tẩy họ khỏi tội lỗi và sự ô uế” (Dcr 12:10; 13:1).

96. Một người bị đâm, một nguồn nước chảy, sự tuôn trào của một tinh thần thương xót và cầu xin: các Ki-tô hữu đầu tiên chắc chắn coi những lời hứa này đã được ứng nghiệm nơi cạnh sườn bị đâm của Chúa Kitô, nguồn mạch của sự sống mới. Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta chiêm nghiệm về sự ứng nghiệm đó. Từ cạnh sườn bị thương của Chúa Giêsu, nước của Thánh Thần tuôn trào: “Một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu và nước chảy ra” (Ga 19:34). Sau đó, tin mừng gia nhắc lại lời tiên tri đã nói về một suối nước mở ra ở Giêrusalem và người bị đâm thủng (Ga 19:37; xem Dcr 12:10). Suối nước mở ra là cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô.

97. Trước đó, Tin Mừng Gioan đã nói về sự kiện này, khi vào “ngày cuối cùng của lễ hội” (Ga 7:37), Chúa Giêsu đã kêu lên với những người đang mừng cuộc rước kiệu lớn: “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống… từ trái tim Người sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7:37-38). Tuy nhiên, để điều này được hoàn thành, thì “giờ” của Chúa Giêsu phải đến, vì Người “vẫn chưa được tôn vinh” (Ga 7:39). Sự hoàn thành đó phải đến trên thập giá, trong máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa.

98. Sách Khải Huyền tiếp tục những lời tiên tri về người bị đâm thâu và nguồn nước: “mọi mắt sẽ thấy Người, ngay cả những kẻ đã đâm Người” (Khải Huyền 1:7); “Ai khát hãy đến; ai muốn hãy nhận lấy nước sự sống làm quà tặng” (Khải Huyền 22:17).

99. Cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu là nguồn tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ lộ cho dân Người theo vô số cách. Bây giờ chúng ta hãy nhớ lại một số lời của Người:

“Vì ngươi quý giá trước mắt Ta và được tôn trọng, nên Ta yêu ngươi” (Is 43:4).

“Người phụ nữ nào quên được đứa con đang bú, hay không thương xót đứa con ruột mình? Cho dù chúng có quên, thì Ta cũng không quên ngươi. Này, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49:15-16).

“Vì núi có thể dời, đồi có thể chuyển, nhưng tình yêu thương của Ta đối với ngươi sẽ không rời khỏi ngươi, và giao ước bình an của Ta sẽ không bị hủy bỏ” (Is 54:10).

“Ta đã yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu; nên Ta vẫn trung thành với ngươi” (Giê-rê-mi-a 31:3).

“Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ở giữa ngươi, là chiến binh ban cho ngươi chiến thắng; Người sẽ vui mừng vì ngươi, Người sẽ đổi mới ngươi trong tình yêu của Người; Người sẽ reo mừng vì ngươi với tiếng hát lớn” (Xô-phô-ni-a 3:17).

100. Tiên tri Hô-sê còn đi xa hơn khi nói về trái tim của Thiên Chúa, Đấng “dẫn dắt họ bằng dây nhân từ, bằng dây yêu thương” (Hô-sê 11:4). Khi tình yêu đó bị khinh thường, Chúa có thể nói, “Lòng Ta rung động trong Ta; lòng thương xót của Ta trở nên ấm áp và dịu dàng (Hô-sê 11:8). Tình yêu thương xót của Thiên Chúa luôn chiến thắng (x. Hô-sê 11:9), và tình yêu đó đã tìm thấy sự biểu lộ cao cả nhất của nó trong Chúa Kitô, Lời tình yêu dứt khoát của Người.

101. Trái tim bị đâm thủng của Chúa Kitô hiện thân cho tất cả những lời tuyên bố về tình yêu của Thiên Chúa có trong Kinh thánh. Tình yêu đó không những là vấn đề của lời nói; đúng hơn, cạnh sườn mở ra của Con Người là nguồn sống cho những ai Người yêu, là nguồn mạch giải tỏa cơn khát của dân Người. Như Thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra, “các yếu tố thiết yếu của lòng sùng kính [đối với Thánh Tâm] thuộc về một cách thức lâu dài đối với linh đạo của Giáo hội trong suốt lịch sử của mình; vì ngay từ đầu, Giáo hội đã hướng về trái tim của Chúa Kitô bị đâm thâu trên Thập giá”. [84]

TIẾNG VANG CỦA LỜI TRONG LỊCH SỬ

102. Chúng ta hãy xem xét một số cách mà trong lịch sử đức tin Kitô giáo, những lời tiên tri này được hiểu là đã được ứng nghiệm. Nhiều Giáo phụ của Giáo hội, đặc biệt là những vị ở Tiểu Á, đã nói về cạnh sườn bị thương của Chúa Giêsu như nguồn nước của Chúa Thánh Thần: lời, ân sủng của lời và các bí tích truyền đạt lời. Lòng can đảm của các vị tử đạo được sinh ra từ “nguồn nước hằng sống trên trời chảy ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô” [85] hoặc, theo phiên bản của Rufinus, “những dòng nước thiên đàng và vĩnh cửu chảy ra từ trái tim của Chúa Kitô”. [86] Các tín hữu chúng ta được tái sinh trong Chúa Thánh Thần, xuất hiện từ khe nứt trên đá; “chúng ta đã xuất hiện từ trái tim của Chúa Kitô”. [87] Cạnh sườn bị thương của Người, được hiểu là trái tim Người, tràn đầy Chúa Thánh Thần, đến với chúng ta như một dòng nước hằng sống. “Nguồn mạch của Chúa Thánh Thần hoàn toàn ở trong Chúa Kitô”. [88] Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận không làm chúng ta xa cách Chúa Phục sinh, nhưng lấp đầy chúng ta bằng sự hiện diện của Người, vì khi uống Chúa Thánh Thần, chúng ta uống chính Chúa Kitô đó. Theo lời của Thánh Am-brô-siô: “Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là tảng đá tuôn trào dòng nước. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là nguồn sự sống. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là dòng sông có dòng suối làm vui mừng kinh thành Thiên Chúa. Hãy uống Chúa Kitô, vì Người là bình an của chúng ta. Hãy uống Chúa Kitô, vì từ cạnh sườn Người chảy ra dòng nước hằng sống”. [89]

103. Thánh Augustinô đã mở đường cho lòng sùng kính Thánh Tâm như là nơi chúng ta gặp gỡ Chúa một cách bản vị. Đối với Thánh Augustinô, cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô không những là nguồn ân sủng và các bí tích, mà còn là biểu tượng cho sự kết hợp mật thiết của chúng ta với Chúa Kitô, bối cảnh của một cuộc gặp gỡ tình yêu. Ở đó chúng ta tìm thấy nguồn gốc của sự khôn ngoan quý giá nhất trong tất cả, đó là sự hiểu biết về Người. Trên thực tế, Thánh Augustinô viết rằng Thánh Gioan, môn đệ được yêu mến, ngả đầu vào lòng Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, đã đến gần nơi bí mật của sự khôn ngoan. [90] Ở đây chúng ta không những có sự chiêm nghiệm về mặt trí tuệ đối với một chân lý thần học trừu tượng. Như Thánh Giê-rô-ni-mô giải thích, một người có khả năng chiêm nghiệm “không thích thú với vẻ đẹp của dòng nước đó, nhưng uống nước hằng sống chảy ra từ cạnh sườn của Chúa”. [91]

104. Thánh Bernard tiếp nối tính biểu tượng của cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa và hiểu rõ ràng đó là sự mặc khải và tuôn đổ toàn bộ tình yêu của trái tim Người. Qua vết thương này, Chúa Kitô mở lòng mình ra với chúng ta và cho phép chúng ta chiếm hữu mầu nhiệm vô biên của tình yêu và lòng thương xót của Người: “Tôi lấy từ lòng Chúa những gì còn thiếu đối với tôi, vì lòng Người tràn đầy lòng thương xót qua những lỗ hổng mà chúng chảy qua. Những kẻ đóng đinh Người đã đâm thủng tay chân Người, chúng đâm thủng cạnh sườn Người bằng một ngọn giáo. Và qua những lỗ hổng đó, tôi có thể nếm được mật ong rừng và dầu từ những tảng đá lửa, nghĩa là tôi có thể nếm và thấy rằng Chúa là tốt lành… Một ngọn giáo đã xuyên qua tâm hồn Người thậm chí đến tận vùng tim Người. Người không còn có thể thương hại sự yếu đuối của tôi nữa. Những vết thương trên thân xác Người đã tiết lộ cho chúng ta những bí mật trong trái tim Người; chúng cho phép chúng ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại của lòng cảm thương của Người”. [92]

105. Chủ đề này tái hiện đặc biệt trong William thành Saint-Thierry, người mời chúng ta bước vào trái tim Chúa Giêsu, Đấng nuôi dưỡng chúng ta từ chính bầu ngực của Người. [93] Điều này không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta nhớ lại rằng đối với William, “nghệ thuật của nghệ thuật là nghệ thuật của tình yêu… Tình yêu được Đấng Tạo Hóa của thiên nhiên đánh thức, và là sức mạnh của tâm hồn dẫn dắt nó, như thể bằng sức nặng tự nhiên của nó, đến đúng nơi và đích đến của nó”. [94] Nơi thích hợp đó, nơi tình yêu ngự trị trọn vẹn, chính là trái tim của Chúa Kitô: “Lạy Chúa, Chúa dẫn dắt những người mà Chúa ôm ấp và nắm chặt vào trái tim Chúa tới đâu? Trái tim Chúa, Chúa Giêsu, là bánh manna ngọt ngào của thiên tính Chúa mà Chúa giữ trong chiếc bình vàng của tâm hồn Chúa (x. Dt 9:4), và điều đó vượt quá mọi hiểu biết. Hạnh phúc cho những ai, sau khi lao mình vào vực sâu đó, đã được Chúa ẩn giấu trong góc sâu của trái tim Chúa”. [95]

106. Thánh Bonaventura hợp nhất hai luồng tâm linh này. Ngài trình bày trái tim Chúa Kitô như nguồn gốc của các bí tích và ân sủng, và thúc giục để việc chúng ta chiêm ngưỡng trái tim đó phải trở thành mối quan hệ giữa những người bạn, một cuộc gặp gỡ bản vị của tình yêu.

107. Trước hết, Thánh Bonaventura khiến chúng ta trân trọng vẻ đẹp của ân sủng và các bí tích tuôn chảy từ nguồn sự sống là cạnh sườn bị thương của Chúa. “Để từ cạnh sườn của Chúa Kitô đang ngủ trên thập giá, Giáo hội có thể được hình thành và Kinh thánh ứng nghiệm khi nói rằng: ‘Họ sẽ nhìn lên Đấng mà họ đã đâm thâu’, một trong những người lính đã đâm Người bằng một ngọn giáo và mở cạnh sườn Người ra. Điều này được Chúa quan phòng cho phép để, trong máu và nước chảy ra từ vết thương đó, giá cứu rỗi của chúng ta có thể chảy ra từ nguồn mạch ẩn giấu trong trái tim Người, giúp các bí tích của Giáo hội ban sự sống ân sủng và do đó, đối với những ai sống trong Chúa Kitô, giống như một chiếc ly đầy từ nguồn sống trào lên sự sống vĩnh cửu”. [96]

108. Sau đó, Thánh Bonaventura yêu cầu chúng ta thực hiện một bước nữa, để việc chúng ta tiếp cận ân sủng không bị coi là một loại phép thuật hay sự phát xuất tân Pla-tông, mà đúng hơn là một mối quan hệ trực tiếp với Chúa Kitô, một nơi trú ngụ trong trái tim Người, để bất cứ ai uống từ nguồn đó đều trở thành bạn của Chúa Kitô, một trái tim yêu thương. “Vậy, hỡi linh hồn là bạn của Chúa Kitô, hãy trỗi dậy, và hãy là chim bồ câu làm tổ trong khe đá; hãy là chim sẻ tìm được một ngôi nhà và liên tục canh chừng; hãy là chim gáy che chở đứa con của tình yêu trong trắng của mình trong khe đá thánh thiện nhất đó”. [97]

SỰ LAN TRUYỀN CỦA LÒNG SÙNG KÍNH TRÁI TIM CHÚA KITÔ

109. Dần dần, cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô, là nơi trú ngụ của tình yêu và là nguồn sống ân sủng, bắt đầu gắn liền với trái tim của Người, đặc biệt là trong đời sống tu trì. Chúng ta biết rằng trong suốt chiều dài lịch sử, lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô không phải lúc nào cũng được thể hiện theo cùng một cách, và những phát triển hiện đại của lòng sùng kính này, liên quan đến nhiều trải nghiệm tâm linh, không thể bắt nguồn trực tiếp từ các hình thức thời trung cổ, càng không phải là các hình thức Kinh thánh mà chúng ta thoáng thấy hạt giống của lòng sùng kính đó. Mặc dù vậy, Giáo hội ngày nay không từ chối bất cứ điều gì tốt lành mà Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta qua nhiều thế kỷ, vì Giáo hội biết rằng chúng ta luôn có thể nhận ra ý nghĩa rõ ràng và sâu sắc hơn trong một số khía cạnh của lòng sùng kính đó, và đạt được những hiểu biết mới theo thời gian.

110. Một số phụ nữ thánh thiện, khi kể lại những trải nghiệm của họ về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, đã nói về việc nghỉ ngơi trong trái tim Chúa như nguồn sống và sự bình an nội tâm. Đây là trường hợp của các Thánh Lutgarde và Mechtilde thành Hackeborn, Thánh Angela thành Foligno và Thánh Julian thành Norwich, chỉ kể đến một vài vị. Thánh Gertrude thành Helfta, một nữ tu dòng Xitô, kể về một lần cầu nguyện khi bà tựa đầu vào trái tim Chúa Kitô và nghe thấy tiếng đập của nó. Trong một cuộc đối thoại với Thánh Gioan Tông đồ, bà đã hỏi ngài tại sao ngài không mô tả trong Tin Mừng của mình những gì ngài đã trải qua khi làm như vậy. Thánh Gertrude kết luận rằng “âm thanh ngọt ngào của những nhịp đập trái tim đó đã được dành riêng cho thời hiện đại, để khi nghe thấy chúng, thế giới đang già đi và hâm hấp của chúng ta có thể được đổi mới trong tình yêu của Thiên Chúa”. [98] Chúng ta có thể nghĩ rằng đây thực sự là một thông điệp cho thời đại của chúng ta, một lời kêu gọi nhận ra rằng thế giới của chúng ta thực sự đã “già đi” và cần phải nhận thức lại thông điệp về tình yêu của Chúa Kitô không? Thánh Gertrude và Thánh Mechtilde đã được kể vào số “những người bạn tâm giao thân thiết nhất của Thánh Tâm”. [99]

111. Các tu sĩ dòng Carthusians, được khuyến khích hơn hết bởi Ludolph thành Saxony, đã tìm thấy lòng sùng kính Thánh Tâm là phương tiện để phát triển tình cảm và sự gần gũi với Chúa Kitô. Tất cả những ai bước vào qua vết thương của trái tim Người đều được đốt cháy tình yêu. Thánh Ca-ta-ri-na thành Siena đã viết rằng những đau khổ của Chúa là điều chúng ta không thể hiểu được, nhưng trái tim rộng mở của Chúa Kitô cho phép chúng ta có một cuộc gặp gỡ bản thân sống động với tình yêu vô biên của Người. “Ta muốn tiết lộ cho con bí mật của trái tim Ta, cho phép con thấy nó mở ra, để con có thể hiểu rằng Ta đã yêu con nhiều hơn những gì Ta có thể chứng minh với con bằng nỗi đau khổ mà Ta đã từng chịu đựng”. [100]

112. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô dần vượt ra khỏi các bức tường của các đan viện để làm phong phú thêm đời sống tâm linh của các thầy dạy thánh thiện, các nhà thuyết giáo và những người sáng lập các dòng tu, những người sau đó đã truyền bá nó đến tận cùng trái đất. [101]

113. Đặc biệt có ý nghĩa là sáng kiến của Thánh Gioan Eudes, người, “sau khi rao giảng cùng các anh em của mình về một sứ mệnh nhiệt thành ở Rennes, đã thuyết phục giám mục của giáo phận đó chấp thuận việc cử hành lễ Trái tim đáng kính của Chúa Giêsu Kitô. Đây là lần đầu tiên một lễ như vậy được chính thức cho phép trong Giáo hội. Sau đó, trong khoảng thời gian từ năm 1670 đến năm 1671, các giám mục của Coutances, Evreux, Bayeux, Lisieux và Rouen đã cho phép cử hành lễ này cho các giáo phận tương ứng của họ”. [102]

THÁNH PHANXICÔ DE SALES

114. Trong thời hiện đại, cần phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng của Thánh Phanxicô de Sales. Thánh Phanxicô thường chiêm ngưỡng trái tim rộng mở của Chúa Kitô, mời gọi chúng ta sống trong đó, trong một mối quan hệ yêu thương bản thân từng soi sáng những mầu nhiệm trong cuộc đời của ngài. Trong các tác phẩm của ngài, vị Tiến sĩ thánh thiện của Giáo hội phản đối một nền đạo đức nghiêm ngặt và một lòng đạo đức theo luật lệ bằng cách trình bày trái tim của Chúa Giêsu như một lời kêu gọi tin tưởng hoàn toàn vào sự vận hành mầu nhiệm của ân sủng của Người. Chúng ta thấy điều này được diễn đạt trong lá thư của ngài gửi cho Thánh Jane Francis de Chantal: “Tôi chắc chắn rằng chúng ta sẽ không còn ở trong chính mình nữa… nhưng sẽ mãi mãi ở trong cạnh sườn bị thương của Chúa, vì nếu không có Người, chúng ta không những không thể làm gì, mà ngay cả khi có thể, chúng ta cũng sẽ thiếu lòng mong muốn làm bất cứ điều gì”. [103]

115. Đối với Thánh Phanxicô de Sales, lòng sùng kính đích thực không liên quan gì đến mê tín hay lòng đạo đức hời hợt, vì nó bao hàm một mối quan hệ bản thân trong đó mỗi người chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô biết đến và yêu thương một cách độc đáo và đích thân. “Trái tim đáng yêu và đáng mến nhất này của Chúa chúng ta, cháy bỏng tình yêu mà Người tuyên xưng với chúng ta, [là] một trái tim mà trên đó tất cả tên của chúng ta được viết… Chắc chắn đó là nguồn an ủi sâu sắc khi biết rằng chúng ta được Chúa yêu thương sâu sắc đến vậy, Người luôn mang chúng ta trong trái tim Người”. [104] Với hình ảnh tên chúng ta được khắc trên trái tim của Chúa Kitô, Thánh Phanxicô đã tìm cách diễn tả mức độ mà tình yêu của Chúa Kitô dành cho mỗi người chúng ta không phải là điều gì đó trừu tượng và chung chung, mà hoàn toàn mang tính đích thân, giúp mỗi tín hữu cảm thấy được biết đến và tôn trọng vì chính con người của mình. “Thiên đường này thật đáng yêu biết bao, nơi Chúa là mặt trời và ngực Người là nguồn tình yêu mà những người được chúc phúc uống thỏa thích! Mỗi người chúng ta có thể nhìn vào đó và thấy tên mình được khắc trong những chữ tình yêu, mà chỉ có tình yêu đích thực mới có thể đọc được và tình yêu đích thực mới viết ra. Lạy Chúa! Và còn gì nữa, con gái yêu dấu, về những người thân yêu của chúng ta? Chắc chắn họ cũng sẽ ở đó; vì ngay cả khi trái tim chúng ta không có tình yêu, thì chúng vẫn có một khát vọng về tình yêu và những khởi đầu của tình yêu”. [105]

116. Phanxicô coi trải nghiệm về tình yêu của Chúa Kitô này là điều thiết yếu đối với đời sống tâm linh, thực sự là một trong những chân lý vĩ đại của đức tin: “Vâng, con gái yêu dấu của ta, Người nghĩ đến con và không chỉ con, mà cả sợi tóc nhỏ nhất trên đầu con: đây là một điều khoản của đức tin và không được nghi ngờ bất cứ cách nào”. [106] Theo đó, tín hữu có khả năng phó thác hoàn toàn vào trái tim của Chúa Kitô, nơi mà họ tìm thấy sự nghỉ ngơi, an ủi và sức mạnh: “Lạy Chúa! Thật hạnh phúc biết bao khi được ôm ấp và ngả mình vào lòng Đấng Cứu Thế. Hãy ở lại như vậy, con gái yêu dấu, và giống như một đứa trẻ khác, Thánh Gioan, trong khi những người khác đang nếm những loại thức ăn khác nhau trên bàn tiệc của Chúa, hãy đặt đầu, tâm hồn và tinh thần của bạn, trong một cử chỉ hoàn toàn tin tưởng, vào lòng yêu thương của Chúa yêu dấu này”. [107] “Cha hy vọng rằng con đang nghỉ ngơi trong khe chim gáy và trong cạnh sườn bị đâm thủng của Đấng Cứu Thế yêu dấu của chúng ta… Chúa này tốt lành biết bao, con gái yêu dấu của cha! Trái tim của Người yêu thương biết bao! Chúng ta hãy ở lại đây, trong nơi ở thánh thiện này”. [108]

117. Đồng thời, trung thành với giáo huấn của mình về sự thánh hóa cuộc sống bình thường, Thánh Phanxicô đề xuất rằng trải nghiệm này diễn ra giữa các hoạt động, nhiệm vụ và nghĩa vụ của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. “Con hỏi cha rằng những linh hồn bị thu hút trong lời cầu nguyện đến sự đơn sơ thánh thiện này, đến sự phó thác hoàn toàn này vào Chúa, nên cư xử như thế nào trong mọi hành động của họ? Cha sẽ trả lời rằng, không những trong thực hành, nhưng cũng trong cách cư xử của cuộc sống hàng ngày, họ nên luôn tiến triển trong tinh thần giản dị, từ bỏ và hoàn toàn phó thác linh hồn, hành động và thành tựu của mình cho ý muốn của Chúa. Và làm như vậy với một tình yêu được đánh dấu bằng sự tin tưởng hoàn hảo và tuyệt đối, từ bỏ bản thân cho ân sủng và sự chăm sóc của tình yêu vĩnh cửu mà Chúa Quan phòng dành cho họ”. [109]

118. Vì lý do này, khi tìm kiếm một biểu tượng để truyền tải viễn kiến của ngài về đời sống tâm linh, Thánh Phanxicô de Sales đã kết luận: “Tôi đã nghĩ, Mẹ yêu dấu, nếu Mẹ đồng ý, rằng chúng ta nên lấy biểu tượng là một trái tim duy nhất bị đâm thủng bởi hai mũi tên, toàn bộ được bao bọc trong một vương miện gai”. [110]

 

MỘT TUYÊN NGÔN MỚI VỀ TÌNH YÊU

 

119. Dưới ảnh hưởng lành mạnh của linh đạo de Sales này, các sự kiện của Paray-le-Monial đã diễn ra vào cuối thế kỷ XVII. Thánh Mar-ga-rét Maria Alacoque đã tường thuật một loạt các lần hiện ra đáng chú ý của Chúa Kitô giữa cuối tháng 12 năm 1673 và tháng 6 năm 1675. Nền tảng của những lần hiện ra này là một tuyên bố về tình yêu nổi bật trong lần hiện ra đầu tiên. Chúa Giêsu nói: “Trái tim thần thánh của Ta cháy bỏng tình yêu dành cho loài người, và đặc biệt dành cho con, đến nỗi, không còn có thể chứa đựng trong chính mình ngọn lửa của lòng bác ái nồng nhiệt, nó phải tuôn đổ chúng qua con và được biểu lộ cho họ, để làm giàu cho họ bằng những kho tàng quý giá mà Ta hiện đang tiết lộ cho con”. [111]

120. Lời tường thuật của Thánh Mar-ga-rét Maria rất mạnh mẽ và vô cùng cảm động: “Người đã tiết lộ cho tôi những điều kỳ diệu trong tình yêu của Người và những bí mật không thể giải thích được của Trái tim thần thiêng của Người mà Người đã giấu kín với tôi cho đến khi Người mở nó ra cho tôi lần đầu tiên, một cách ấn tượng và hợp lý đến nỗi Người không để tôi có chỗ nào để nghi ngờ”. [112] Trong những lần hiện ra sau đó, thông điệp an ủi đó đã được nhắc lại: “Người đã tiết lộ cho tôi những điều kỳ diệu không thể diễn tả được của tình yêu thuần khiết của Người và điều đó đã dẫn Người đến mức nào để yêu nhân loại”. [113]

121. Nhận thức mạnh mẽ này về tình yêu của Chúa Giêsu Kitô mà Thánh Mar-ga-rét Maria để lại cho chúng ta có thể thúc đẩy chúng ta kết hợp chặt chẽ hơn với Người. Chúng ta không cần phải cảm thấy có nghĩa vụ phải chấp nhận hoặc chiếm đoạt mọi chi tiết trong trải nghiệm tâm linh của bà, trong đó, như thường xảy ra, sự can thiệp của Thiên Chúa kết hợp với các yếu tố của con người liên quan đến những mong muốn, mối quan tâm và hình ảnh nội tâm của cá nhân. [114] Những trải nghiệm như vậy phải luôn được diễn giải dưới ánh sáng của Tin Mừng và truyền thống tâm linh phong phú của Giáo hội, ngay cả khi chúng ta thừa nhận những điều tốt đẹp mà chúng mang lại cho nhiều anh chị em của chúng ta. Theo cách này, chúng ta có thể nhận ra những ân huệ của Chúa Thánh Thần hiện diện trong những trải nghiệm về đức tin và tình yêu đó. Quan trọng hơn bất cứ chi tiết riêng lẻ nào là cốt lõi của thông điệp được truyền lại cho chúng ta, có thể được tóm tắt trong những lời mà Thánh Mar-ga-rét Maria đã nghe: “Đây là trái tim đã yêu thương con người đến nỗi không tiếc bất cứ điều gì, thậm chí còn tự làm trống rỗng và tiêu hao chính mình để cho họ thấy tình yêu của mình”. [115]

122. Do đó, sự hiện ra này mời gọi chúng ta phát triển trong cuộc gặp gỡ của mình với Chúa Kitô, đặt trọn niềm tin vào tình yêu của Người, cho đến khi chúng ta đạt được sự kết hợp trọn vẹn và dứt khoát với Người. “Cần thiết là trái tim thần linh của Chúa Giêsu theo một cách nào đó thay thế trái tim của chúng ta; rằng chỉ có Người sống và hoạt động trong chúng ta và vì chúng ta; rằng ý muốn của Người… hoạt động hoàn toàn và không có bất cứ sự kháng cự nào từ phía chúng ta; và cuối cùng là tình cảm, suy nghĩ và mong muốn của Người thay thế cho tình cảm, suy nghĩ và mong muốn của chúng ta, đặc biệt là tình yêu của Người, để Người được yêu trong chính Người và vì chúng ta. Và vì vậy, trái tim đáng yêu này là tất cả trong tất cả của chúng ta, chúng ta có thể nói với Thánh Phaolô rằng chúng ta không còn sống cuộc sống của riêng mình nữa, nhưng chính Người sống trong chúng ta”. [116]

123. Trong thông điệp đầu tiên mà Thánh Mar-ga-rét Maria nhận được, lời mời này đã được diễn tả bằng những từ ngữ sống động, nồng nhiệt và yêu thương. “Người đã xin trái tim tôi, tôi đã xin Người lấy, Người đã làm thế và sau đó đặt tôi vào trái tim đáng kính của Người, từ đó Người khiến tôi thấy trái tim mình như một nguyên tử nhỏ bị thiêu rụi trong lò lửa của Người”. [117]

124. Ở một điểm khác, chúng ta thấy Đấng hiến mình cho chúng ta là Chúa Kitô phục sinh và vinh quang, tràn đầy sự sống và ánh sáng. Nếu thực sự, vào những thời điểm khác nhau, Người đã nói về nỗi đau khổ mà Người phải chịu vì chúng ta và về sự vô ơn mà nó phải chịu, thì những gì chúng ta thấy ở đây không phải là máu và vết thương đau đớn của Người, mà đúng hơn là ánh sáng và ngọn lửa của Chúa sự sống. Những vết thương của cuộc khổ nạn không biến mất, nhưng giờ đây đã được biến hình. Ở đây chúng ta thấy mầu nhiệm vượt qua trong tất cả sự huy hoàng của nó: “Một lần, khi Mình Thánh Chúa được bày ra, Chúa Giêsu hiện ra, rực rỡ trong vinh quang, với năm vết thương của Người trông giống như rất nhiều mặt trời rực sáng từ nhân tính thánh thiện của Người, nhưng trên hết là từ bộ ngực đáng yêu của Người, trông giống như một lò lửa. Mở áo choàng, Người để lộ trái tim yêu thương và đáng yêu nhất của Người, đó là nguồn sống của những ngọn lửa đó. Sau đó, tôi đã khám phá ra những điều kỳ diệu không thể diễn tả được của tình yêu thuần khiết của Người, mà Người yêu thương con người đến cùng, nhưng chỉ nhận được từ họ sự vô ơn và thờ ơ”. [118]

THÁNH CLAUDE DE LA COLOMBIÈRE

125. Khi Thánh Claude de La Colombière học được các trải nghiệm của Thánh Mar-ga-rét Maria, ngài đã ngay lập tức bảo vệ bà và bắt đầu truyền bá thông tin về các lần hiện ra. Thánh Claude đã đóng một vai trò đặc biệt trong việc phát triển sự hiểu biết về lòng sùng kính Thánh Tâm và ý nghĩa của nó dưới ánh sáng Tin Mừng.

126. Một số ngôn ngữ của Thánh Mar-ga-rét Maria, nếu không được hiểu rõ, có thể gợi ý về sự tin tưởng không đúng mực vào những hy sinh và lễ vật cá nhân của chúng ta. Thánh Claude nhấn mạnh rằng việc chiêm ngưỡng trái tim Chúa Giêsu, khi chân thực, không gây ra sự tự mãn hay sự tự tin phù phiếm vào những trải nghiệm của riêng chúng ta hoặc những nỗ lực của con người, mà đúng hơn là sự phó thác không thể diễn tả được vào Chúa Kitô, điều này lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng sự bình an, an toàn và quyết tâm. Ngài đã bày tỏ sự tự tin tuyệt đối này một cách hùng hồn nhất trong một lời cầu nguyện nổi tiếng:

“Lạy Chúa, con tin chắc rằng Chúa luôn dõi theo những ai hy vọng vào Chúa, và rằng chúng con không thể thiếu thốn điều gì khi chúng con tìm kiếm mọi thứ nơi Chúa, rằng trong tương lai, con quyết tâm sống tự do khỏi mọi lo lắng và trao mọi nỗi lo lắng của con cho Chúa... Con sẽ không bao giờ mất hy vọng. Con sẽ giữ nó cho đến phút cuối cùng của cuộc đời con; và vào lúc đó, tất cả những con quỷ trong địa ngục sẽ cố gắng giật nó khỏi con… Những người khác có thể tìm kiếm hạnh phúc từ sự giàu có hoặc tài năng của họ; những người khác có thể dựa vào sự ngây thơ trong trắng của cuộc sống họ, hoặc sự nghiêm khắc của sự sám hối, hoặc số lượng của bố thí, hoặc lòng nhiệt thành của những lời cầu nguyện của họ. Đối với con, Chúa ơi, tất cả sự tự tin của con là chính sự tự tin. Sự tự tin này chưa bao giờ lừa dối bất cứ ai… Vì vậy, con chắc chắn rằng con sẽ hạnh phúc vĩnh cửu, vì con hy vọng vững chắc như vậy, và vì chính Chúa, mà con hy vọng điều đó”. [119]

127. Trong một ghi chú vào tháng 1 năm 1677, sau khi đề cập đến sự đảm bảo mà ngài cảm thấy về sứ mệnh của mình, Claude tiếp tục: “Tôi đã biết rằng Thiên Chúa muốn tôi phục vụ Người bằng cách đạt được sự hoàn thành mong muốn của Người liên quan đến lòng sùng kính mà Người đã gợi ý cho một người mà Người giao tiếp một cách tin cậy, và vì lợi ích của người đó, Người muốn sử dụng sự yếu đuối của tôi. Tôi đã sử dụng nó để giúp đỡ một số người”. [120]

128. Cần phải thừa nhận rằng linh đạo của Chân phước Claude de La Colombière đã tạo nên sự tổng hợp tinh tế giữa kinh nghiệm tâm linh sâu sắc và cảm động của Thánh Mar-ga-rét Maria và hình thức chiêm nghiệm sống động và cụ thể được tìm thấy trong các Bài Linh thao của Thánh Inhaxiô thành Loyola. Vào đầu tuần thứ ba của Bài Linh Thao, Claude đã suy ngẫm: “Có hai điều đã làm tôi xúc động theo một cách đáng kinh ngạc. Thứ nhất, thái độ của Chúa Kitô đối với những người tìm cách bắt giữ Người. Trái tim Người đầy nỗi buồn cay đắng; mọi đam mê dữ dội đều được giải phóng chống lại Người và toàn bộ thiên nhiên đang hỗn loạn, nhưng giữa tất cả sự hỗn loạn này, tất cả những cám dỗ này, trái tim Người vẫn hướng về Thiên Chúa một cách vững chắc. Người không ngần ngại đảm nhận vai trò mà nhân đức và nhân đức cao nhất gợi ý cho Người. Thứ hai, thái độ của chính trái tim đó đối với Giu-đa, kẻ đã phản bội Người, các tông đồ đã hèn nhát bỏ rơi Người, các linh mục và những người khác chịu trách nhiệm cho cuộc đàn áp mà Người phải chịu đựng; không điều nào trong số những điều này có thể khơi dậy trong Người một chút cảm giác căm ghét hay phẫn nộ nào. Tôi tự trình diện một lần nữa với trái tim không còn giận dữ, không còn cay đắng, thay vào đó là lòng cảm thương chân chính đối với kẻ thù của mình”. [121]

THÁNH CHARLES DE FOUCAULD VÀ THÁNH TÊRÊSE HÀI ĐỒNG GIÊSU

129. Thánh Charles de Foucauld và Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, không cố ý, đã định hình lại một số khía cạnh của lòng sùng kính đối với trái tim Chúa Kitô và do đó giúp chúng ta hiểu nó theo tinh thần truyền giáo hơn nữa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét cách lòng sùng kính này được phát biểu trong cuộc sống của các vị. Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ quay lại với các vị, để minh họa chiều kích truyền giáo đặc biệt mà mỗi người trong số các vị mang đến cho lòng sùng kính.

Lòng Bác ái Giêsu

130. Ở Louye, Charles de Foucauld thường đến viếng Mình Thánh Chúa cùng với người em họ của mình, Marie de Bondy. Một ngày nọ, bà cho ngài xem một bức ảnh Thánh Tâm. [122] Người em họ của ngài đã đóng vai trò cơ bản trong sự hoán cải của Charles, như chính ngài đã thừa nhận: “Vì Thiên Chúa đã biến em thành khí cụ đầu tiên của lòng thương xót của Người đối với anh, nên mọi thứ khác bắt đầu từ em. Nếu em không hoán cải anh, đưa anh đến với Chúa Giêsu và dạy anh từng chút một, từng chữ một, tất cả những gì thánh thiện và tốt lành, thì ngày nay anh sẽ ở đâu?” [123] Điều mà Marie đánh thức trong ngài là nhận thức sâu sắc về tình yêu của Chúa Giêsu. Đó là điều cốt yếu, và tập trung vào lòng sùng kính trái tim Chúa Giêsu, nơi ngài gặp được lòng thương xót vô biên: “Chúng ta hãy tin vào lòng thương xót vô hạn của người mà trái tim Người em đã dẫn dắt anh biết đến”. [124]

131. Sau đó, cha linh hướng của ngài, Cha Henri Huvelin, đã giúp Thánh Charles hiểu sâu hơn về mầu nhiệm vô giá của “trái tim diễm phúc mà Cha đã nói với con rất nhiều lần”. [125] Vào ngày 6 tháng 6 năm 1889, Charles đã hiến mình cho Thánh Tâm, nơi ngài tìm thấy một tình yêu vô biên. Ngài nói với Chúa Kitô, “Chúa đã ban cho con rất nhiều ơn lành, đến nỗi sẽ thật vô ơn đối với trái tim Chúa nếu không tin rằng nó sẵn sàng ban cho con mọi điều tốt lành, dù lớn lao đến đâu, và tình yêu thương và lòng quảng đại của Chúa là vô biên”. [126] Ngài đã trở thành một ẩn sĩ “dưới danh nghĩa trái tim Chúa Giêsu”. [127]

132. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1906, cùng ngày mà Anh Charles, một mình, không thể cử hành Thánh lễ nữa, ngài đã viết về lời hứa của mình “để trái tim Chúa Giêsu sống trong tôi, để không còn là tôi sống nữa, mà là trái tim Chúa Giêsu sống trong tôi, như Người đã sống ở Na-da-rét”. [128] Tình bạn của ngài với Chúa Giêsu, từ trái tim đến trái tim, không phải là một lòng đạo đức riêng tư. Nó đã truyền cảm hứng cho cuộc sống khắc khổ mà ngài đã sống ở Na-da-rét, xuất phát từ mong muốn noi gương Chúa Kitô và trở nên giống Người. Lòng sùng kính yêu thương của ngài đối với trái tim Chúa Giêsu đã có tác động cụ thể đến phong cách sống của ngài, và Na-da-rét của ngài được nuôi dưỡng bằng mối quan hệ đích thân của ngài với trái tim Chúa Kitô.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

133. Giống như Thánh Charles de Foucauld, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu chịu ảnh hưởng của sự đổi mới lòng sùng kính lớn lao lan rộng khắp nước Pháp vào thế kỷ XIX. Cha Almire Pichon, vị linh hướng của gia đình bà, được coi là một tông đồ tận tụy của Thánh Tâm. Một trong những người chị của bà lấy tên là “Nữ tu Marie Thánh Tâm”, và đan viện mà Têrêsa gia nhập được dành riêng cho Thánh Tâm. Tuy nhiên, lòng sùng kính của bà vẫn mang một số nét riêng biệt liên quan đến lòng đạo đức thông thường của thời đại đó.

134. Khi Têrêsa mười lăm tuổi, bà có thể nói về Chúa Giêsu như là người “có trái tim đập đồng nhịp với trái tim của tôi”. [129] Hai năm sau, khi nói về hình ảnh trái tim của Chúa Kitô đội mão gai, bà đã viết trong một lá thư: “Chị biết rằng bản thân tôi không coi Thánh Tâm như mọi người khác. Tôi nghĩ rằng Trái tim của Người phối ngẫu của tôi chỉ thuộc về tôi, cũng như Trái tim của tôi chỉ thuộc về Người, và tôi nói chuyện với Người trong sự cô tịch của cuộc trao đổi trái tim tuyệt vời này, trong khi chờ đợi để chiêm ngưỡng Người một ngày nào đó trực diện”. [130]

135. Trong một bài thơ của mình, Thánh Têrêxa đã nói lên ý nghĩa của lòng sùng kính của mình, liên quan nhiều hơn đến tình bạn và sự đảm bảo hơn là niềm tin vào những hy sinh của mình:

Tôi cần một trái tim cháy bỏng sự dịu dàng,
Người sẽ mãi mãi là chỗ dựa của tôi,
Người yêu thương mọi thứ trong tôi, ngay cả sự yếu đuối của tôi…
Và người không bao giờ rời xa tôi ngày hay đêm…
Tôi phải có một Thiên Chúa mang bản chất của tôi,
Và trở thành anh em của tôi và có thể chịu đựng! …
Ôi! Tôi biết rõ, tất cả sự công chính của chúng ta
Đều vô giá trị trong mắt Người…
Vì vậy, tôi, đối với luyện ngục của mình,
Hãy chọn tình yêu cháy bỏng của Người, hỡi trái tim của Thiên Chúa tôi!
” [131]

136. Có lẽ bản văn quan trọng nhất để hiểu lòng sùng kính của Thánh Têrêsa đối với trái tim Chúa Kitô là một lá thư mà bà viết ba tháng trước khi qua đời cho người bạn Maurice Bellière. “Khi tôi thấy Maria Ma-đa-lê-na bước tới trước nhiều vị khách, rửa chân cho Thầy đáng kính của mình bằng nước mắt, người mà bà chạm vào lần đầu tiên, tôi cảm thấy rằng trái tim bà đã hiểu được vực thẳm của tình yêu và lòng thương xót của trái tim Chúa Giêsu, và, mặc dù bà là một tội nhân, trái tim yêu thương này không chỉ sẵn sàng tha thứ cho bà mà còn ban cho bà những phước lành của sự gần gũi thần thiêng của Người, nâng bà lên đỉnh cao nhất của sự chiêm nghiệm. Ôi! người anh em nhỏ bé thân mến, kể từ khi tôi được ban ơn để hiểu được tình yêu của trái tim Chúa Giêsu, tôi thừa nhận rằng nó đã xua tan mọi nỗi sợ hãi khỏi trái tim tôi. Việc nhớ lại những lỗi lầm của mình khiến tôi khiêm nhường, khiến tôi không bao giờ dựa vào sức mạnh của mình vốn chỉ là sự yếu đuối, nhưng việc nhớ lại này nói với tôi về lòng thương xót và tình yêu nhiều hơn nữa”. [132]

137. Những người đạo đức muốn kiểm soát chặt chẽ lòng thương xót và ân sủng của Chúa có thể tuyên bố rằng Têrêsa có thể nói như vậy vì bà là một vị thánh, nhưng một người bình thường không thể nói như vậy. Theo cách đó, họ loại bỏ khỏi linh đạo của Thánh Têrêsa sự độc đáo tuyệt vời của nó, phản ảnh cốt lõi của Tin Mừng. Đáng buồn thay, trong một số nhóm Kitô hữu, chúng ta thường gặp phải nỗ lực này nhằm đưa Chúa Thánh Thần vào một khuôn mẫu có sẵn theo cách cho phép họ giám sát mọi thứ. Tuy nhiên, vị Tiến sĩ Giáo hội khôn ngoan này đã khiến họ im lặng và trực tiếp mâu thuẫn với quan điểm giản lược của họ bằng những lời rõ ràng sau: "Nếu tôi phạm phải mọi tội ác có thể xảy ra, tôi sẽ luôn có cùng sự tự tin; Tôi cảm thấy rằng toàn bộ vô số tội lỗi này sẽ giống như một giọt nước ném vào lò lửa". [133]

138. Đối với Sơ Marie, người đã ca ngợi tình yêu bao la của mình dành cho Chúa, thậm chí đã chuẩn bị để chấp nhận sự tử đạo, Têrêsa đã trả lời dài dòng trong một bức thư là một trong những cột mốc quan trọng trong lịch sử linh đạo. Trang này cần được đọc đi đọc lại hàng ngàn lần vì chiều sâu, sự rõ ràng và vẻ đẹp của nó. Ở đó, Têrêsa giúp chị gái của mình, “Marie của Thánh Tâm”, tránh tập trung lòng sùng kính này vào sự đau khổ, vì một số người đã trình bày sự đền bù chủ yếu dưới dạng tích lũy các hy sinh và việc làm tốt. Về phần mình, Têrêsa trình bày sự tin tưởng như là của lễ vĩ đại nhất và tốt nhất, làm đẹp lòng Chúa Kitô: “Những ước muốn tử đạo của em chẳng là gì cả; chúng là hoặc những gì mang lại cho em sự tự tin vô hạn mà em cảm thấy trong tim mình. Nói thật, chúng là sự giàu có về mặt tinh thần khiến người ta bất công, khi người ta an nghỉ trong chúng với sự tự mãn và người ta tin rằng chúng là điều gì đó vĩ đại… điều làm hài lòng [Chúa Giêsu] là Người thấy em yêu sự nhỏ bé và nghèo nàn của mình, hy vọng mù quáng mà em có trong lòng thương xót của Người… Đó là kho báu duy nhất của em… Nếu chị muốn cảm thấy vui vẻ, bị hấp dẫn bởi đau khổ, thì đó chính là sự an ủi mà chị đang tìm kiếm… Hãy hiểu rằng để trở thành nạn nhân của tình yêu của Người, người càng yếu đuối, không có ham muốn hay đức hạnh, thì người đó càng phù hợp với hoạt động của Tình yêu thiêu đốt và biến đổi này… Ôi! Em muốn có thể khiến chị hiểu được cảm giác của em biết bao!... Chính sự tự tin và không gì khác ngoài sự tự tin phải dẫn chúng ta đến Tình yêu”. [134]

139. Trong nhiều bài viết của mình, Têrêsa nói về cuộc đấu tranh của mình với các hình thức tâm linh tập chú quá mức vào nỗ lực của con người, vào công trạng cá nhân, vào việc dâng lễ vật và thực hiện một số hành động nhất định để “giành được thiên đàng”. Đối với bà, “công đức không phải là làm hay cho nhiều, mà là nhận”. [135] Chúng ta hãy đọc lại một số bản văn có ý nghĩa sâu sắc này, trong đó bà nhấn mạnh điều này và trình bày nó như một phương tiện đơn giản và nhanh chóng để nắm lấy Chúa “bằng trái tim của Người”.

140. Đối với chị gái Léonie, bà viết, “Em đảm bảo với chị rằng Chúa tốt hơn nhiều so với chị nghĩ. Người hài lòng với một cái nhìn, một tiếng thở dài yêu thương… Còn em, em thấy sự hoàn hảo rất dễ thực hành vì em hiểu rằng đó là vấn đề nắm lấy Chúa Giêsu bằng trái tim của Người… Hãy nhìn một đứa trẻ vừa làm mẹ mình khó chịu… Nếu nó đến với mẹ, dang rộng đôi tay nhỏ bé, mỉm cười và nói: ‘Mẹ hôn con đi, con sẽ không làm thế nữa đâu’, liệu mẹ nó có thể không dịu dàng ôm chặt nó vào lòng và quên đi trò nghịch ngợm trẻ con của nó không? Tuy nhiên, bà biết đứa con bé bỏng của mình sẽ lại làm thế vào lần tới, nhưng điều đó không quan trọng; nếu nó lại nắm lấy trái tim của mẹ, nó sẽ không bị trừng phạt”. [136]

141. Tương tự như vậy, trong một lá thư gửi cho Cha Adolphe Roulland, bà viết, “[Con] đường của tôi là tất cả sự tự tin và tình yêu. Tôi không hiểu những tâm hồn sợ một người bạn dịu dàng như vậy. Đôi khi, khi tôi đọc một số chuyên luận tâm linh trong đó sự hoàn hảo được thể hiện qua hàng ngàn chướng ngại vật, được bao quanh bởi một đám ảo tưởng, tâm trí nhỏ bé tội nghiệp của tôi nhanh chóng mệt mỏi; tôi đóng cuốn sách uyên bác đang làm đầu tôi tan nát và làm khô héo trái tim tôi, và tôi cầm lấy Kinh thánh. Khi đó, tất cả dường như sáng tỏ với tôi; một từ duy nhất mở ra cho tâm hồn tôi những chân trời vô tận, sự hoàn hảo dường như đơn giản với tôi. Tôi thấy rằng chỉ cần nhận ra sự hư vô của mình và phó thác bản thân như một đứa trẻ vào vòng tay của Chúa là đủ”. [137]

142. Trong một lá thư khác, bà liên hệ điều này với tình yêu mà cha mẹ thể hiện: “Tôi không tin rằng trái tim của [một] người cha có thể cưỡng lại được sự tự tin hiếu thảo của đứa con, người mà ông biết sự chân thành và tình yêu thương. Tuy nhiên, ngài nhận ra rằng con trai ngài sẽ phạm phải những lỗi lầm tương tự nhiều lần, nhưng ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho con trai ngài, nếu con trai ngài luôn ghi nhớ trong lòng”. [138]

CÁC VANG DỘI TRONG DÒNG TÊN

143. Chúng ta đã thấy Thánh Claude de La Colombière kết hợp kinh nghiệm tâm linh của Thánh Mar-ga-rét Maria với mục đích của Linh thao. Tôi tin rằng vị trí của Thánh Tâm trong lịch sử của Dòng Tên xứng đáng được nói đến trong một vài lời ngắn gọn.

144. Linh đạo của Dòng Tên luôn đề xuất một “sự hiểu biết nội tâm về Chúa để yêu mến và theo Người trọn vẹn hơn”. [139] Trong Linh Thao của ngài, Thánh I-nha-xi-ô mời gọi chúng ta đặt mình trước câu Tin Mừng nói với chúng ta rằng, “cạnh sườn [Chúa Kitô] bị đâm thâu bởi ngọn giáo và máu và nước chảy ra”. [140] Khi những người tĩnh tâm chiêm ngưỡng cạnh sườn bị thương của Chúa bị đóng đinh, Thánh I-nha-xi-ô gợi ý rằng họ hãy bước vào trái tim của Chúa Kitô. Như vậy, chúng ta có một cách để mở rộng trái tim mình, được một người là “bậc thầy về tình cảm” khuyên bảo, dùng lời của Thánh Phê-rô Faber trong một trong những lá thư của ngài gửi cho Thánh I-nha-xi-ô. [141] Cha Juan Alfonso de Polanco đã lặp lại cùng một cách diễn đạt đó trong tiểu sử của ngài về Thánh I-nha-xi-ô: “Ngài [Đức Hồng Y Gasparo Contarini] nhận ra rằng nơi Cha I-nha-xi-ô, ngài đã gặp một bậc thầy về tình cảm”. [142] Các cuộc đối thoại mà Thánh I-nha-xi-ô đề xuất là một phần thiết yếu của quá trình rèn luyện trái tim này, vì trong đó, chúng ta cảm nhận và nếm trải bằng trái tim một thông điệp Tin Mừng và trò chuyện về thông điệp đó với Chúa. Thánh I-nha-xi-ô nói với chúng ta rằng chúng ta có thể chia sẻ mối quan tâm của mình với Chúa và tìm kiếm lời khuyên của Người. Bất cứ ai theo dõi các Bài Linh Thao đều có thể dễ dàng thấy rằng chúng bao gồm một cuộc đối thoại, từ trái tim với trái tim.

145. Thánh I-nha-xi-ô đưa sự chiêm niệm của ngài lên đến đỉnh điểm dưới chân thập giá và mời gọi người tĩnh tâm hãy cầu xin Chúa chịu đóng đinh với lòng trìu mến lớn lao, “như một người bạn với một người bạn khác, như một người đầy tớ với chủ mình”, rằng họ phải làm gì cho Người. [143] Tiến trình của các Bài Linh Thao lên đến đỉnh điểm trong “Chiêm niệm để đạt được Tình yêu”, điều này nảy sinh lòng biết ơn và sự dâng hiến “trí nhớ, sự hiểu biết và ý chí” của người ta cho trái tim vốn là nguồn mạch và nguồn gốc của mọi điều tốt lành. [144] Sự chiêm niệm nội tâm này không phải là thành quả của sự hiểu biết và nỗ lực của chúng ta, nhưng phải được cầu xin như một hồng ân.

146. Cùng một trải nghiệm này đã truyền cảm hứng cho sự kế thừa vĩ đại của các linh mục Dòng Tên, những người đã nói rõ ràng về trái tim của Chúa Giêsu: Thánh Phanxicô Borgia, Thánh Phêrô Faber, Thánh Alphonsô Rodriguez, Cha Álvarez de Paz, Cha Vincent Carafa, Cha Kasper Drużbicki và vô số những người khác. Năm 1883, các tu sĩ Dòng Tên tuyên bố rằng, “Dòng Tên chấp nhận và tiếp nhận với tinh thần tràn đầy niềm vui và lòng biết ơn nhiệm vụ dễ chịu nhất mà Chúa Giêsu Kitô đã giao phó cho mình là thực hành, thúc đẩy và truyền bá lòng sùng kính đối với trái tim thần thiêng của Người”. [145] Vào tháng 9 năm 1871, Cha Pieter Jan Beckx đã thánh hiến Dòng cho Thánh Tâm Chúa Giêsu và, như một dấu chỉ nó vẫn là một yếu tố nổi bật trong đời sống của Dòng, Cha Pedro Arrupe đã tái thánh hiến vào năm 1972, với niềm tin mà ngài đã giải thích bằng những lời này: “Vì vậy, tôi muốn nói với Dòng một điều mà tôi cảm thấy mình không thể im lặng. Từ khi còn là tập sinh, tôi luôn tin rằng điều chúng ta gọi là lòng sùng kính Thánh Tâm chứa đựng một biểu hiện tượng trưng cho điều sâu sắc nhất trong linh đạo I-nha-xi-ô, và có hiệu quả phi thường – ultra quam speraverint [vượt quá điều họ hy vọng] – vừa vì sự hoàn thiện của chính nó vừa vì sự phong phú tông đồ của nó. Tôi vẫn tiếp tục có cùng niềm tin này… Trong lòng sùng kính này, tôi gặp được một trong những nguồn sâu sắc nhất của đời sống nội tâm của tôi”. [146]

147. Khi Thánh Gioan Phaolô II thúc giục “tất cả các thành viên của Dòng phải nhiệt thành hơn nữa trong việc thúc đẩy lòng sùng kính này, điều này phù hợp hơn bao giờ hết với những kỳ vọng của thời đại chúng ta”, ngài đã làm như vậy vì ngài nhận ra mối liên hệ sâu sắc giữa lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô và linh đạo I-nha-xi-ô. Vì “mong muốn ‘biết Chúa một cách sâu sắc’ và ‘nói chuyện’ với Người, từ trái tim với trái tim, là đặc điểm của động lực tông đồ và tâm linh I-nha-xi-ô, nhờ vào các Bài Linh thao, và động lực này hoàn toàn phục vụ cho tình yêu của trái tim Thiên Chúa”. [147]

LUỒNG SỐNG NỘI TÂM BAO LA

148. Lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô tái hiện trong hành trình tâm linh của nhiều vị thánh, tất cả đều khá khác nhau; ở mỗi vị, lòng sùng kính đều mang những sắc thái mới. Ví dụ, Thánh Vincent de Paul thường nói rằng điều Thiên Chúa mong muốn chính là trái tim: “Thiên Chúa chủ yếu yêu cầu trái tim chúng ta – trái tim chúng ta – và đó là điều quan trọng. Làm sao một người không có của cải lại có công đức lớn hơn một người có nhiều của cải mà họ từ bỏ? Bởi vì người không có gì làm điều đó với tình yêu lớn hơn; và đó là điều mà Chúa đặc biệt muốn…” [148] Điều này có nghĩa là để cho trái tim mình được kết hợp với trái tim của Chúa Kitô. “Có ơn lành nào mà một Nữ tu không thể hy vọng nhận được từ Chúa nếu chị đã cố gắng hết sức để đặt trái tim mình vào trạng thái kết hợp với trái tim của Chúa chúng ta!” [149]

149. Đôi khi, chúng ta có thể bị cám dỗ coi mầu nhiệm tình yêu này là một di tích đáng ngưỡng mộ từ quá khứ, một nền linh đạo tuyệt vời phù hợp với những thời đại khác. Tuy nhiên, chúng ta cần phải liên tục nhắc nhở bản thân rằng, như một nhà truyền giáo thánh thiện đã từng nói, “trái tim thần thánh này, đã để cho ngọn giáo của kẻ thù đâm thủng để tuôn đổ qua vết thương thánh thiêng đó các bí tích mà nhờ đó, Giáo hội được hình thành, chưa bao giờ ngừng yêu thương”. [150] Các vị thánh gần đây hơn, như Thánh Piô thành Pietrelcina, Thánh Teresa thành Calcutta và nhiều vị khác, đã nói với lòng sùng kính sâu sắc về trái tim của Chúa Kitô. Ở đây tôi cũng muốn đề cập đến những kinh nghiệm của Thánh Faustina Kowalska, người đã đề xuất lại lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô bằng cách nhấn mạnh rất nhiều đến cuộc sống vinh quang của Chúa phục sinh và lòng thương xót của Người. Được truyền cảm hứng từ những kinh nghiệm của thánh nữ và di sản tinh thần của Thánh Józef Sebastian Pelczar (1842-1924), [151] Thánh Gioan Phaolô II đã liên kết chặt chẽ những suy tư của mình về lòng thương xót của Chúa với lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô: “Giáo hội dường như theo một cách độc đáo để tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa và tôn kính lòng thương xót đó khi hướng mình đến trái tim Chúa Kitô. Thực thế, chính việc đến gần Chúa Kitô trong mầu nhiệm trái tim Người này cho phép chúng ta dừng lại ở điểm này của sự mặc khải về tình yêu thương xót của Chúa Cha, một sự mặc khải tạo nên nội dung trung tâm của sứ mệnh thiên sai của Con Người”. [152] Thánh Gioan Phaolô cũng đã nói về Thánh Tâm theo những cách rất riêng tư, thừa nhận rằng, “Nó đã nói với tôi từ khi tôi còn trẻ”. [153]

150. Sự liên quan lâu dài của lòng sùng kính đối với trái tim của Chúa Kitô đặc biệt rõ ràng trong công tác truyền giáo và giáo dục được thực hiện bởi nhiều hội dòng nam và nữ có nguồn gốc được đánh dấu bằng lòng sùng kính sâu sắc về Chúa Kitô này. Việc đề cập đến tất cả các hội dòng theo tên sẽ là một công việc vô tận. Chúng ta hãy chỉ xem xét hai ví dụ được lấy ngẫu nhiên: “Đấng sáng lập [Thánh Daniel Comboni] đã khám phá ra trong mầu nhiệm trái tim Chúa Giêsu nguồn sức mạnh cho cam kết truyền giáo của mình”. [154] “Bị cuốn vào những ước muốn của trái tim Chúa Giêsu, chúng ta muốn mọi người phát triển về phẩm giá, như những con người và như những người con của Thiên Chúa. Điểm khởi đầu của chúng ta là Tin Mừng, với tất cả những gì Tin Mừng đòi hỏi nơi chúng ta về tình yêu, sự tha thứ và công lý, và sự đoàn kết với những người nghèo và bị thế giới bác bỏ”. [155] Tương tự như vậy, nhiều đền thờ trên toàn thế giới được thánh hiến cho trái tim Chúa Kitô tiếp tục là nguồn đổi mới đầy ấn tượng trong lời cầu nguyện và lòng nhiệt thành thiêng liêng. Tôi gửi đến tất cả những ai, bằng cách nào đó, có liên quan đến những không gian đức tin và bác ái này phép lành cha con của tôi.

LÒNG SÙNG KÍNH AN ỦI

151. Vết thương ở cạnh sườn Chúa Kitô, nguồn nước sống, vẫn mở trong thân thể phục sinh của Đấng Cứu Thế. Vết thương sâu do ngọn giáo gây ra và vết thương của mão gai thường xuất hiện trong các hình ảnh Thánh Tâm là một phần không thể tách rời của lòng sùng kính này, trong đó chúng ta chiêm ngưỡng tình yêu của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình làm của lễ cho đến cùng. Trái tim của Chúa Phục sinh lưu giữ các dấu hiệu của sự phó thác hoàn toàn, bao gồm những đau khổ dữ dội vì chúng ta. Do đó, thật tự nhiên khi các tín hữu muốn đáp lại không những tình yêu tuôn tràn vô biên này mà còn cả nỗi đau khổ mà Chúa đã chọn chịu đựng vì tình yêu đó.

Với Chúa Giêsu trên thập giá

152. Thật thích hợp khi khôi phục lại một khía cạnh cụ thể của linh đạo đi kèm với lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô, cụ thể là mong muốn bên trong mang lại sự an ủi cho trái tim đó. Ở đây, tôi sẽ không thảo luận về việc thực hành “đền tạ”, mà tôi cho là phù hợp hơn với chiều kích xã hội của lòng sùng kính này sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo. Thay vào đó, tôi muốn tập trung vào ước muốn thường cảm thấy trong trái tim của các tín hữu, những người yêu thương chiêm ngưỡng mầu nhiệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và trải nghiệm nó như một mầu nhiệm không chỉ được hồi tưởng mà còn trở nên hiện diện với chúng ta nhờ ân sủng, hay nói đúng hơn, cho phép chúng ta hiện diện một cách huyền nhiệm tại thời điểm cứu chuộc của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, làm sao chúng ta không mong muốn an ủi Người?

153. Đức Giáo Hoàng Piô XI muốn đặt nền tảng cho lòng sùng kính đặc biệt này trong nhận thức rằng mầu nhiệm cứu chuộc chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, vượt qua mọi ranh giới của thời gian và không gian. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hiến mình vì mọi tội lỗi, bao gồm cả những tội lỗi chưa phạm, bao gồm cả tội lỗi của chính chúng ta. Tương tự như vậy, những hành động chúng ta hiện đang dâng để an ủi Người, cũng vượt qua thời gian, chạm đến trái tim bị thương của Người. “Nếu, vì tội lỗi của chúng ta, mặc dù vẫn còn trong tương lai nhưng đã được thấy trước, linh hồn của Chúa Giêsu trở nên buồn rầu đến chết, thì không thể nghi ngờ rằng cùng lúc đó, Người đã nhận được một số niềm an ủi từ sự đền tạ của chúng ta, cũng được thấy trước, tại thời điểm khi ‘một thiên thần từ trời hiện ra với Người’ (Lc 22:43), để trái tim Người, bị đè nặng bởi sự mệt mỏi và đau khổ, có thể tìm thấy sự an ủi. Và vì vậy, ngay cả bây giờ, theo một cách kỳ diệu nhưng chân thực, chúng ta có thể và phải an ủi Trái tim Chí thánh đó, nơi liên tục bị tổn thương bởi tội lỗi của những con người vô ơn”. [156]

Các lý lẽ của trái tim

154. Đối với một số người, có vẻ như khía cạnh sùng kính Trái tim Thánh này thiếu cơ sở thần học vững chắc, nhưng trái tim có các lý lẽ của nó. Ở đây, cảm thức của các tínn hữu nhận thức được điều gì đó rất mầu nhiệm, vượt ra ngoài luận lý học của con người chúng ta, và nhận ra rằng cuộc khổ nạn của Chúa Kitô không những là một sự kiện của quá khứ, mà còn là một sự kiện mà chúng ta có thể chia sẻ thông qua đức tin. Suy niệm về sự tự hiến của Chúa Kitô trên thập giá bao gồm, đối với lòng đạo đức Kitô giáo, một điều gì đó nhiều hơn là chỉ tưởng nhớ đơn thuần. Niềm tin này có nền tảng thần học vững chắc. [157] Chúng ta cũng có thể thêm vào sự thừa nhận tội lỗi của chính mình, mà Chúa Giêsu đã gánh chịu trên đôi vai bầm dập của Người, và sự bất lực của chúng ta trước tình yêu vĩnh cửu đó, luôn luôn lớn hơn vô hạn.

155. Chúng ta cũng có thể tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa của sự sống, đã sống lại từ cõi chết và ngự trị trong vinh quang, trong khi đồng thời an ủi Người giữa những đau khổ của Người. Ở đây, chúng ta cần nhận ra rằng trái tim phục sinh của Người lưu giữ vết thương của mình như một ký ức thường trực, và rằng hoạt động của ân sủng tạo nên một trải nghiệm không chỉ giới hạn trong một khoảnh khắc duy nhất của quá khứ. Khi suy gẫm về điều này, chúng ta thấy mình được mời gọi bước vào một con đường huyền bí vượt qua những giới hạn về tinh thần của chúng ta nhưng vẫn vững vàng dựa trên lời Chúa. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã nói rõ điều này: “Làm sao những hành động đền tạ này có thể mang lại sự an ủi ngay bây giờ, khi Chúa Kitô đã ngự trị trong hạnh phúc của thiên đàng? Đối với câu hỏi này, chúng ta có thể trả lời bằng lời của Thánh Augustinô, rất thích hợp ở đây – ‘Hãy cho tôi người yêu thương, và người ấy sẽ hiểu những gì tôi nói’. Bất cứ ai sở hữu tình yêu lớn lao dành cho Thiên Chúa, và nhìn lại quá khứ, có thể đắm mình trong sự suy gẫm về Chúa Kitô, và thấy Người cực nhọc vì con người, đau buồn, chịu đựng những khó khăn lớn nhất, ‘vì chúng ta là con người và vì sự cứu rỗi của chúng ta’, gần như kiệt sức vì buồn bã, vì đau khổ, thậm chí ‘bị bầm dập vì tội lỗi của chúng ta’ (Is 53:5), và mang đến cho chúng ta sự chữa lành bởi chính những vết bầm tím đó. Càng suy gẫm về tất cả những điều này, các tín hữu càng thấy rõ rằng tội lỗi của nhân loại, bất cứ khi nào chúng xảy ra, chính là lý do khiến Chúa Kitô bị nộp cho cái chết”. [158]

156. Những lời này của Đức Piô XI đáng được xem xét nghiêm túc. Khi Kinh thánh tuyên bố rằng những tín hữu không sống theo đức tin của mình “là đang đóng đinh Con Thiên Chúa một lần nữa” (Dt 6:6), hoặc khi Thánh Phaolô, dâng những đau khổ của mình vì lợi ích của người khác, nói rằng, “trong xác thịt của tôi, tôi đang hoàn thành những gì còn thiếu trong những đau khổ của Chúa Kitô” (Cl 1:24), hoặc một lần nữa, khi Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Người cầu nguyện không những cho các môn đệ của Người vào thời điểm đó, mà còn cho “những ai sẽ tin vào tôi qua lời của họ” (Ga 17:20), tất cả những tuyên bố này thách thức cách suy nghĩ thông thường của chúng ta. Chúng cho chúng ta thấy rằng không thể cắt đứt hoàn toàn quá khứ khỏi hiện tại, bất kể tâm trí chúng ta thấy điều này khó nắm bắt đến đâu. Tin Mừng, với tất cả sự phong phú của nó, được viết ra không chỉ để chúng ta suy niệm trong cầu nguyện, mà còn để chúng ta có thể trải nghiệm thực tại của nó trong các công việc yêu thương và trong đời sống nội tâm của chúng ta. Đây chắc chắn là trường hợp liên quan đến mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Những sự phân biệt tạm thời mà tâm trí chúng ta sử dụng dường như không thể bao hàm trọn vẹn kinh nghiệm đức tin này, vốn là nền tảng cho cả sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa Kitô trong đau khổ của Người và sức mạnh, sự an ủi và tình bạn mà chúng ta được hưởng với Người trong cuộc sống phục sinh của Người.

157. Do đó, chúng ta thấy sự thống nhất của mầu nhiệm vượt qua trong hai khía cạnh không thể tách rời và làm giàu cho nhau này. Mầu nhiệm duy nhất, hiện diện bởi ân sủng trong cả hai chiều kích này, đảm bảo rằng bất cứ khi nào chúng ta dâng một số đau khổ của riêng mình cho Chúa Kitô để Người được an ủi, thì đau khổ đó được soi sáng và biến đổi trong ánh sáng phục sinh của tình yêu Người. Chúng ta chia sẻ mầu nhiệm này trong cuộc sống của chính mình vì chính Chúa Kitô đã chọn chia sẻ cuộc sống đó trước tiên. Người muốn trải nghiệm trước tiên, với tư cách là Đầu, những gì Người sẽ trải nghiệm trong Thân thể của Người, là Giáo hội: cả những vết thương và sự an ủi của chúng ta. Khi chúng ta sống trong ân sủng của Thiên Chúa, sự chia sẻ lẫn nhau này trở thành một trải nghiệm thiêng liêng đối với chúng ta. Nói tóm lại, Chúa Phục sinh, bằng hoạt động của ân sủng, đã kết hợp chúng ta một cách huyền nhiệm với cuộc khổ nạn của Người. Tâm hồn của các tín hữu, những người trải nghiệm niềm vui của sự phục sinh, nhưng đồng thời mong muốn được chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa, hiểu điều này. Họ mong muốn chia sẻ những đau khổ của Người bằng cách dâng lên Người những đau khổ, những cuộc đấu tranh, những thất vọng và nỗi sợ hãi vốn là một phần trong cuộc sống của chính họ. Họ cũng không trải nghiệm điều này như những cá nhân biệt lập, vì những đau khổ của họ cũng là sự tham gia vào đau khổ của Thân thể huyền nhiệm của Chúa Kitô, Dân thánh lữ hành của Thiên Chúa, những người chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô ở mọi thời đại và mọi nơi. Do đó, lòng sùng kính an ủi không hề phi lịch sử hay trừu tượng; nó trở thành xác thịt và máu trong cuộc hành hương của Giáo hội qua lịch sử.

Sự ăn năn

158. Mong muốn tự nhiên là an ủi Chúa Kitô, bắt đầu bằng nỗi buồn của chúng ta khi suy gẫm về những gì Người đã chịu đựng vì chúng ta, phát triển cùng với sự thừa nhận trung thực về những thói quen xấu, sự ép buộc, sự gắn bó, đức tin yếu đuối, những mục tiêu phù phiếm của chúng ta và cùng với những tội lỗi thực sự của chúng ta, sự thất bại của trái tim chúng ta trong việc đáp lại tình yêu của Chúa và kế hoạch của Người dành cho cuộc sống của chúng ta. Trải nghiệm này chứng tỏ sự thanh tẩy, vì tình yêu cần sự thanh tẩy của những giọt nước mắt, cuối cùng, khiến chúng ta khao khát Chúa hơn và ít ám ảnh về bản thân hơn.

159. Theo cách này, chúng ta thấy rằng mong muốn an ủi Chúa của chúng ta càng sâu sắc, thì cảm giác “ăn năn” chân thành của chúng ta sẽ càng sâu sắc. Sự ăn năn “không phải là cảm giác tội lỗi khiến chúng ta nản lòng hoặc ám ảnh về sự vô giá trị của mình, mà là một ‘sự đâm thấu’ có lợi giúp thanh tẩy và chữa lành trái tim. Một khi chúng ta thừa nhận tội lỗi của mình, trái tim chúng ta có thể mở ra với hoạt động của Chúa Thánh Thần, nguồn nước sống tuôn trào trong chúng ta và khiến chúng ta rơi nước mắt… Điều này không có nghĩa là khóc lóc tự thương hại, như chúng ta thường bị cám dỗ làm… Đổ nước mắt ăn năn có nghĩa là thực sự ăn năn vì đã làm Chúa đau buồn vì tội lỗi của mình; nhận ra rằng chúng ta luôn mắc nợ Chúa… Giống như những giọt nước có thể làm mòn đá, nước mắt cũng có thể dần làm mềm những trái tim chai đá. Ở đây chúng ta thấy phép lạ của nỗi buồn, ‘nỗi buồn cứu rỗi’ mang lại sự bình an lớn lao... Vậy thì, sự ăn năn không phải là công việc của chúng ta mà là một ân sủng, và như vậy, chúng ta phải tìm kiếm nó trong lời cầu nguyện.” [159] Điều đó có nghĩa là, “xin được buồn rầu cùng với Chúa Kitô trong nỗi buồn của Người, được đau khổ cùng với Chúa Kitô trong nỗi đau của Người, được khóc lóc và cảm nhận sâu sắc về nỗi đau lớn lao mà Chúa Kitô đã chịu đựng vì tôi”. [160]

160. Vậy thì tôi xin điều này: đừng ai coi thường lòng sùng kính nhiệt thành của dân thánh trung thành của Chúa, những người trong lòng đạo đức bình dân tìm cách an ủi Chúa Kitô. Tôi cũng khuyến khích mọi người hãy cân nhắc xem liệu có thể có sự hợp lý, chân lý và khôn ngoan hơn trong một số biểu hiện tình yêu tìm cách an ủi Chúa hơn là trong những hành động yêu thương lạnh lùng, xa cách, tính toán và chiểu danh đôi khi được thực hiện bởi những người tự nhận mình có một đức tin có suy tư, tinh tế và trưởng thành.

Tự an ủi chúng ta để an ủi người khác

161. Khi chiêm ngắm trái tim Chúa Kitô và sự tự hiến của Người cho đến chết, bản thân chúng ta cũng tìm thấy niềm an ủi lớn lao. Nỗi đau buồn mà chúng ta cảm thấy trong lòng nhường chỗ cho sự tin tưởng hoàn toàn và cuối cùng, điều tồn tại là lòng biết ơn, sự dịu dàng, sự bình an; điều tồn tại là tình yêu của Chúa Kitô ngự trị trong cuộc sống của chúng ta. Do đó, sự ăn năn “không phải là nguồn lo lắng mà là nguồn chữa lành cho tâm hồn, vì nó hoạt động như một loại thuốc xoa dịu vết thương tội lỗi, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận sự vuốt ve của Chúa”. [161] Những đau khổ của chúng ta được kết hợp với những đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá. Nếu chúng ta tin rằng ân sủng có thể thu hẹp mọi khoảng cách, điều này có nghĩa là Chúa Kitô bằng những đau khổ của Người đã kết hợp chính Người với những đau khổ của các môn đệ Người ở mọi thời đại và mọi nơi. Theo cách này, bất cứ khi nào chúng ta chịu đựng đau khổ, chúng ta cũng có thể trải nghiệm sự an ủi nội tâm khi biết rằng Chúa Kitô cũng chịu đau khổ với chúng ta. Khi tìm cách an ủi Người, chúng ta sẽ thấy mình được an ủi.

162. Tuy nhiên, tại một thời điểm nào đó, trong sự chiêm niệm của mình, chúng ta cũng nên nghe thấy lời khẩn cầu khẩn thiết của Chúa: “Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta!” (Is 40:1). Như Thánh Phaolô đã nói với chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự an ủi “để chúng ta có thể an ủi những ai đang trong bất cứ cơn gian truân nào, với sự an ủi mà chính chúng ta được Thiên Chúa an ủi” (2 Cr 1:4).

163. Điều này sau đó thách thức chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết sâu sắc hơn về chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của mọi lòng sùng kính đích thực đối với trái tim của Chúa Kitô. Vì ngay cả khi trái tim của Chúa Kitô dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, thì nó cũng sai chúng ta đến với anh chị em của chúng ta. Trong những thành quả của việc phục vụ, tình huynh đệ và sứ mệnh mà trái tim của Chúa Kitô truyền cảm hứng trong cuộc sống của chúng ta, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành. Theo cách này, chúng ta đi trọn một vòng tròn: “Cha Ta được tôn vinh bởi điều này, là anh em sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8).

 

CHƯƠNG NĂM: TÌNH YÊU VÌ TÌNH YÊU

164. Trong những trải nghiệm tâm linh của Thánh Mar-ga-rét Maria Alacoque, chúng ta gặp phải, cùng với lời tuyên bố nồng nhiệt về tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô, một lời mời gọi sâu sắc và đầy thách thức để giao phó cuộc sống của chúng ta cho Chúa. Việc hiểu biết rằng chúng ta được yêu thương và việc tin tưởng hoàn toàn của chúng ta vào tình yêu đó, không làm giảm đi mong muốn đáp lại một cách hào phóng của chúng ta, bất chấp sự yếu đuối và nhiều thiếu sót của chúng ta.

MỘT LỜI THAN THỞ VÀ MỘT LỜI YÊU CẦU

165. Bắt đầu với lần hiện ra vĩ đại thứ hai với Thánh Mar-ga-rét Maria, Chúa Giêsu đã nói về nỗi buồn mà Người cảm thấy vì tình yêu lớn lao của Người dành cho nhân loại chỉ nhận được “sự vô ơn và thờ ơ”, “sự lạnh lùng và khinh miệt”. Và Người nói thêm, điều này “đối với Ta còn đau đớn hơn tất cả những gì Ta đã chịu đựng trong Cuộc Khổ Nạn của Ta”. [162]

166. Chúa Giêsu đã nói về cơn khát tình yêu của Người và tiết lộ rằng trái tim Người không thờ ơ với cách chúng ta đáp lại cơn khát đó. Theo lời Người, “Ta khát, nhưng với một cơn khát quá mãnh liệt được mọi người yêu thương trong Bí tích Thánh Thể, đến nỗi cơn khát này thiêu đốt Ta; và Ta chưa gặp ai nỗ lực, theo mong muốn của Ta, để làm dịu cơn khát của Ta, đáp lại tình yêu của Ta”. [163] Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu. Một khi trái tim trung tín nhận ra điều này, phản ứng tự nhiên của nó là tình yêu, không phải là mong muốn nhân lên những hy sinh hoặc chỉ đơn giản là hoàn thành một bổn phận nặng nề: “Tôi đã nhận được từ Thiên Chúa của tôi những ân sủng quá mức của tình yêu của Người, và tôi cảm thấy được thúc đẩy bởi mong muốn đáp lại một số ân sủng trong số đó và đáp lại bằng tình yêu cho tình yêu”. [164] Như Vị Tiền Nhiệm của tôi là Đức Lêô XIII đã chỉ ra, qua hình ảnh Thánh Tâm của Người, tình yêu của Chúa Kitô “thúc đẩy chúng ta đáp lại tình yêu cho tình yêu”. [165]

MỞ RỘNG TÌNH YÊU CỦA ĐỨC KITÔ ĐẾN ANH EM CHỊ EM CỦA CHÚNG TA

167. Chúng ta cần một lần nữa tiếp nhận lời Chúa và nhận ra rằng, khi làm như vậy, phản ứng tốt nhất của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Kitô là yêu thương anh chị em của chúng ta. Không có cách nào tuyệt vời hơn để chúng ta đáp lại tình yêu bằng tình yêu. Kinh thánh đã nêu rõ điều này:

“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, tức là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).

“Vì toàn bộ luật pháp được tóm lại trong một điều răn duy nhất này: ‘Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình’” (Gl 5:14).

“Chúng ta biết rằng mình đã vượt qua sự chết đến sự sống vì chúng ta yêu thương nhau. Bất cứ ai không yêu thương thì ở trong sự chết” (1 Ga 3:14).

“Những ai không yêu thương anh chị em mà họ đã thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà họ không thấy” (1 Ga 4:20).

168. Tình yêu thương anh chị em của chúng ta không chỉ đơn thuần là thành quả của những nỗ lực của chính chúng ta; nó đòi hỏi sự biến đổi trái tim ích kỷ của chúng ta. Nhận thức này đã nảy sinh lời cầu nguyện thường được lặp lại: “Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa hơn”. Về phần mình, Thánh Phaolô đã thúc giục những người nghe mình cầu nguyện không phải để có sức mạnh làm những việc lành, mà để “có cùng một tâm trí giữa anh em như trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2:5).

169. Chúng ta cần nhớ rằng trong Đế quốc La Mã, nhiều người nghèo, người nước ngoài và những người khác sống ở rìa xã hội đã được các Ki-tô hữu tôn trọng, yêu mến và chăm sóc. Điều này giải thích tại sao hoàng đế bội giáo Julian, trong một trong những lá thư của mình, đã thừa nhận rằng một lý do tại sao các Ki-tô hữu được tôn trọng và noi theo là họ đã hỗ trợ người nghèo và người lạ, những người thường bị bỏ mặc và đối xử khinh miệt. Đối với Julian, thật không thể chấp nhận được khi các Ki-tô hữu mà ông khinh thường, “ngoài việc nuôi sống chính họ, còn nuôi sống những người nghèo và người thiếu thốn của chúng ta, những người không nhận được sự giúp đỡ nào từ chúng ta”. [166] Do đó, hoàng đế nhấn mạnh đến nhu cầu tạo ra các tổ chức từ thiện để cạnh tranh với các tổ chức của các Ki-tô hữu và do đó giành được sự tôn trọng của xã hội: “Cần phải thiết lập nhiều nơi ở tại mỗi thành phố để những người nhập cư có thể tận hưởng lòng nhân ái của chúng ta… và giúp người Hy Lạp quen với những việc làm hào phóng như vậy”. [167] Julian đã không đạt được mục tiêu của mình, chắc chắn là vì đằng sau những việc làm đó không có gì có thể so sánh được với lòng bác ái của các Ki-tô hữu vốn tôn trọng phẩm giá độc nhất của mỗi người.

170. Bằng cách liên kết với những tầng lớp thấp nhất của xã hội (x. Mt 25:31-46), “Chúa Giêsu đã mang đến sự mới mẻ lớn lao là công nhận phẩm giá của mọi người, đặc biệt là những người bị coi là ‘không xứng đáng’. Nguyên lý mới này trong lịch sử loài người – nhấn mạnh rằng các cá nhân thậm chí còn “xứng đáng” hơn với sự tôn trọng và tình yêu của chúng ta khi họ yếu đuối, bị khinh thường hoặc đau khổ, thậm chí đến mức mất đi “hình ảnh” con người – đã thay đổi bộ mặt thế giới. Nó đã mang lại sức sống cho các tổ chức chăm sóc những người thấy mình trong hoàn cảnh bất lợi, chẳng hạn như trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già không có sự hỗ trợ, người mắc bệnh tâm thần, người mắc bệnh nan y hoặc dị tật nghiêm trọng, và những người sống trên đường phố”. [168]

171. Khi chiêm ngưỡng trái tim bị đâm thâu của Chúa, Đấng “đã mang lấy những tật nguyền của chúng ta và gánh chịu những bệnh tật của chúng ta” (Mt 8:17), chúng ta cũng được truyền cảm hứng để chú ý hơn đến những đau khổ và nhu cầu của người khác, và được khẳng định trong những nỗ lực của chúng ta để chia sẻ công cuộc giải phóng của Người như những công cụ để truyền bá tình yêu của Người. [169] Khi chúng ta suy gẫm về sự tự hiến của Chúa Kitô vì lợi ích của mọi người, chúng ta tự nhiên được dẫn dắt để hỏi tại sao cả chúng ta nữa cũng không nên sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình cho người khác: “Chúng ta biết tình yêu là gì, đó là Người đã hiến mạng sống vì chúng ta – và chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì nhau” (1 Ga 3:16).

CÁC TIẾNG VANG TRONG LỊCH SỬ LINH ĐẠO

172. Mối liên kết giữa lòng sùng kính trái tim Chúa Giêsu và sự cam kết với anh chị em của chúng ta luôn là một hằng số trong lịch sử linh đạo Kitô giáo. Chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ.

Là một nguồn nước mà người khác có thể uống

173. Bắt đầu từ Origen, nhiều Giáo phụ của Giáo hội đã suy gẫm về những lời trong Tin mừng Gioan 7:38 – “từ trái tim Người sẽ chảy ra những dòng nước hằng sống” – ám chỉ những người đã uống Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Người. Sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô không chỉ nhằm thỏa mãn cơn khát của chính chúng ta mà còn biến chúng ta thành những nguồn nước hằng sống cho người khác. Origen đã viết rằng Chúa Kitô thực hiện lời hứa của Người bằng cách tạo ra những nguồn nước tươi mát tuôn trào bên trong chúng ta: “Linh hồn con người, được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, có thể tự chứa đựng và tuôn trào ra những giếng nước, đài phun nước và dòng sông”. [170]

174. Thánh Am-brô-si-ô khuyên nên uống thật nhiều Chúa Kitô, “để suối nước tuôn trào thành sự sống vĩnh cửu có thể tràn ngập trong bạn”. [171] Marius Victorinus tin rằng Chúa Thánh Thần đã ban tặng chính mình một cách dồi dào đến nỗi “bất cứ ai đón nhận Người đều trở thành một trái tim tuôn trào những dòng nước sống”. [172] Thánh Augustinô coi dòng nước chảy ra từ tín hữu này là lòng nhân từ. [173] Thánh Tô ma Aquinô do đó đã khẳng định rằng bất cứ khi nào ai đó “vội vã chia sẻ những ân huệ khác nhau đã nhận được từ Chúa, thì nước sống sẽ chảy ra từ trái tim của người đó”. [174]

175. Mặc dù “hy lễ được dâng trên thập giá trong sự vâng phục đầy yêu thương mang lại sự đền tạ vô biên và dồi dào nhất cho tội lỗi của nhân loại”, [175], Giáo hội, được sinh ra từ trái tim Chúa Kitô, kéo dài và ban tặng, trong mọi thời đại và mọi nơi, các hoa trái của cuộc khổ nạn cứu chuộc duy nhất đó, dẫn dắt những người nam và người nữ đến sự kết hợp trực tiếp với Chúa.

176. Trong trái tim của Giáo hội, sự trung gian của Đức Maria, với tư cách là người cầu bầu và là mẹ của chúng ta, chỉ có thể được hiểu là “một sự chia sẻ trong nguồn duy nhất, đó là sự trung gian của chính Chúa Kitô”, [176] Đấng Cứu Chuộc duy nhất. Vì lý do này, “Giáo hội không ngần ngại tuyên xưng vai trò phụ thuộc của Đức Maria”. [177] Lòng sùng kính trái tim của Đức Maria không làm giảm đi sự tôn thờ duy nhất dành cho trái tim của Chúa Kitô, mà đúng hơn là làm tăng thêm sự tôn thờ đó: “Chức năng của Đức Maria là mẹ của nhân loại không làm lu mờ hay làm giảm đi sự trung gian độc nhất này của Chúa Kitô, mà đúng hơn là cho thấy sức mạnh của nó”. [178] Nhờ những ân sủng dồi dào tuôn chảy từ cạnh sườn mở của Chúa Kitô, theo những cách khác nhau, Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria và tất cả các tín hữu trở thành những dòng nước sống. Theo cách này, Chúa Kitô thể hiện vinh quang của Người trong và qua sự nhỏ bé của chúng ta.

Tình huynh đệ và phong trào huyền nhiệm

177. Thánh Bernard, khi khuyên chúng ta kết hợp với trái tim của Chúa Kitô, đã dựa vào sự phong phú của lòng sùng kính này để kêu gọi một sự hoán cải dựa trên tình yêu. Thánh Bernard tin rằng tình cảm của chúng ta, bị nô lệ bởi những thú vui, vẫn có thể được biến đổi và giải thoát, không phải bằng sự tuân theo mù quáng một giới răn mà đúng hơn là để đáp lại tình yêu tuyệt vời của Chúa Kitô. Cái ác bị chiến thắng bởi cái thiện, bị chinh phục bởi sự nở hoa của tình yêu: “Hãy yêu Chúa là Thiên Chúa của bạn bằng sự âu yếm trọn vẹn và sâu sắc của tất cả trái tim bạn; yêu Người với tâm trí hoàn toàn tỉnh táo và chú ý; yêu Người với tất cả sức mạnh của bạn, nhiều đến nỗi bạn thậm chí không sợ chết vì tình yêu của Người… Tình cảm của bạn dành cho Chúa Giêsu phải vừa ngọt ngào vừa thân mật, để chống lại những cám dỗ ngọt ngào của cuộc sống xác thịt. Sự ngọt ngào chiến thắng sự ngọt ngào, như một chiếc đinh đóng đẩy một chiếc đinh khác”. [179]

178. Thánh Phanxicô de Sales đặc biệt bị cuốn hút bởi những lời của Chúa Giêsu, “Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29). Ngay cả trong những điều đơn giản và bình thường nhất, ngài nói, chúng ta có thể “đánh cắp” trái tim của Chúa. “Những ai muốn phục vụ Người một cách xứng đáng phải chú ý không những đến những vấn đề cao cả và quan trọng, mà còn đến những điều tầm thường và nhỏ bé, vì bằng cả hai điều đó, chúng ta có thể chiếm được trái tim và tình yêu của Người… Ý tôi là những hành động kiên nhẫn hàng ngày, cơn đau đầu, cơn đau răng, cơn cảm lạnh; những thói quen kỳ quặc gây mệt mỏi một người chồng hoặc người vợ, chiếc ly vỡ, việc mất một chiếc nhẫn, một chiếc khăn tay, một chiếc găng tay; sự chế nhạo của một người hàng xóm; nỗ lực đi ngủ sớm để dậy sớm để cầu nguyện hoặc rước lễ, sự nhút nhát nhỏ bé của một số người khi công khai thực hiện các bổn phận tôn giáo… Hãy chắc chắn rằng tất cả những đau khổ này, dù nhỏ bé đến đâu, nếu được chấp nhận một cách yêu thương, sẽ làm đẹp lòng Chúa nhất”. [180] Tuy nhiên, cuối cùng, phản ứng của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Kitô được tỏ lộ trong tình yêu dành cho người lân cận: “một tình yêu vững chắc, liên tục, ổn định, không quan tâm đến những vấn đề tầm thường hoặc địa vị của mọi người trong cuộc sống, không chịu sự thay đổi hay thù địch… Chúa chúng ta yêu thương chúng ta không ngừng, chịu đựng rất nhiều khuyết điểm và sai sót của chúng ta. Chính vì thế, chúng ta phải làm như vậy với anh chị em mình, không bao giờ mệt mỏi khi phải chịu đựng họ”. [181]

179. Thánh Charles de Foucauld đã cố gắng noi gương Chúa Giêsu bằng cách sống và hành động như Người, trong nỗ lực không ngừng để làm những gì Chúa Giêsu sẽ làm ở vị trí của ngài. Chỉ bằng cách tuân theo những tình cảm của trái tim Chúa Kitô, ngài mới có thể hoàn thành trọn vẹn mục tiêu này. Ở đây chúng ta cũng tìm thấy ý tưởng về “tình yêu đáp trả tình yêu”. Theo lời của ngài, “Tôi mong muốn chịu đau khổ để đáp trả tình yêu bằng tình yêu, để noi gương Người… để bước vào công trình của Người, để cùng Người hiến dâng chính mình, sự hư vô của tôi, như một hy lễ, như một nạn nhân, để thánh hóa con người”. [182] Mong muốn mang tình yêu của Chúa Giêsu đến với người khác, sự vươn tay ra truyền giáo của ngài đến những người nghèo nhất và bị lãng quên nhất trên thế giới, đã khiến ngài lấy những chữ “Giêsu-Bác ái [Iesus-Caritas]”, với biểu tượng trái tim Chúa Kitô được đặt trên một cây thánh giá làm huy hiệu của ngài. [183] Đây cũng không phải là một quyết định dễ dàng: “Với tất cả sức mạnh của mình, tôi cố gắng chỉ ra và chứng minh cho những người anh em tội nghiệp lạc lối này rằng tôn giáo của chúng ta hoàn toàn là bác ái, hoàn toàn là tình huynh đệ, và biểu tượng của nó là một trái tim”. [184] Ngài muốn định cư cùng với những người anh em khác “tại Maroc, nhân danh trái tim Chúa Giêsu”. [185] Theo cách này, công việc truyền giáo của họ có thể lan tỏa ra bên ngoài: “Bác ái phải lan tỏa từ các tình huynh đệ của chúng ta, cũng như nó lan tỏa từ trái tim Chúa Giêsu”. [186] Mong muốn này dần dần biến ngài thành một “người anh em hoàn vũ”. Để mình được hình thành bởi trái tim Chúa Kitô, ngài tìm cách che chở toàn thể nhân loại đau khổ trong trái tim huynh đệ của mình: “Trái tim chúng ta, giống như trái tim Chúa Giêsu, phải ôm trọn tất cả nam và nữ”. [187] “Tình yêu của trái tim Chúa Giêsu dành cho nam và nữ, tình yêu mà Người đã bày tỏ trong cuộc khổ nạn của Người, đây là điều chúng ta cần có đối với tất cả mọi người”. [188]

180. Cha Henri Huvelin, linh hướng của Thánh Charles de Foucauld, đã nhận xét rằng, “khi Chúa ngự trong một trái tim, Người ban cho nó những tình cảm như vậy, và trái tim này vươn tới những người anh chị em bé nhỏ nhất của chúng ta. Đó chính là trái tim của Thánh Vincent de Paul… Khi Chúa ngự trong tâm hồn của một linh mục, Người khiến linh mục vươn tới những người nghèo”. [189] Điều quan trọng là phải nhận ra rằng lòng nhiệt thành tông đồ của Thánh Vincent, như Cha Huvelin mô tả, cũng được nuôi dưỡng bởi lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô. Thánh Vincent thúc giục các anh em của mình “tìm thấy trong trái tim Chúa chúng ta một lời an ủi cho người bệnh nghèo”. [190] Nếu lời đó có sức thuyết phục, thì trước tiên trái tim của chính chúng ta phải được thay đổi bởi tình yêu và sự dịu dàng của trái tim Chúa Kitô. Thánh Vincent thường nhắc lại niềm tin này trong các bài giảng và lời khuyên của ngài, và nó đã trở thành một đặc điểm đáng chú ý trong Hiến chương của Hội dòng ngài: “Chúng ta nên nỗ lực hết sức để học bài học sau đây, cũng được Chúa Kitô dạy: ‘Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng’. Chúng ta nên nhớ rằng chính Người đã nói rằng bằng sự hiền lành, chúng ta sẽ thừa hưởng trái đất. Nếu chúng ta hành động theo điều này, chúng ta sẽ chinh phục được mọi người để họ quay về với Chúa. Điều đó sẽ không xảy ra nếu chúng ta đối xử với mọi người một cách khắc nghiệt hoặc gay gắt”. [191]

ĐỀN TẠ: XÂY DỰNG TRÊN NHỮNG ĐIÊU TÀN

181. Tất cả những gì đã nói cho đến nay giúp chúng ta hiểu được dưới ánh sáng của lời Chúa ý nghĩa đúng đắn của “sự đền tạ” trái tim Chúa Kitô mà Chúa vốn mong đợi chúng ta “cống hiến”, với sự giúp đỡ của ân sủng của Người. Câu hỏi này đã được thảo luận nhiều, nhưng Thánh Gioan Phaolô II đã đưa ra cho chúng ta một câu trả lời rõ ràng có thể hướng dẫn các Kitô hữu ngày nay hướng tới một tinh thần đền tạ gần gũi hơn với các sách Tin Mừng.

Ý nghĩa xã hội của việc đền tạ trái tim của Chúa Kitô

182. Thánh Gioan Phaolô giải thích rằng bằng cách cùng nhau phó thác cho trái tim của Chúa Kitô, “trên những đống đổ nát do lòng hận thù và bạo lực tích tụ, nền văn minh tình yêu rất được mong muốn, Vương quốc của trái tim Chúa Kitô, có thể được xây dựng”. Điều này rõ ràng đòi hỏi chúng ta phải “kết hợp tình yêu con thảo với Thiên Chúa và tình yêu tha nhân”, và thực sự đây là “việc đền tạ thực sự mà trái tim của Đấng Cứu Thế yêu cầu”. [192] Trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô, giữa những đống đổ nát mà chúng ta đã để lại trên thế giới này do tội lỗi của mình, chúng ta được kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình yêu mới. Đó chính là ý nghĩa của việc đền tạ như trái tim Chúa Kitô muốn chúng ta làm. Giữa sự tàn phá do cái ác gây ra, trái tim của Chúa Kitô mong muốn chúng ta hợp tác với Người để khôi phục lại sự tốt lành và vẻ đẹp cho thế giới của chúng ta.

183. Mọi tội lỗi đều gây hại cho Giáo hội và xã hội; do đó, “mọi tội lỗi chắc chắn có thể được coi là tội xã hội” và điều này đặc biệt đúng đối với những tội lỗi “tự bản chất của chúng cấu thành một cuộc tấn công trực tiếp vào người lân cận”. [193] Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng việc lặp lại những tội lỗi này đối với người khác thường củng cố một “cấu trúc tội lỗi” có tác động đến sự phát triển của các dân tộc. [194] Thông thường, đây là một phần của lối suy nghĩ thống trị coi những gì chỉ là ích kỷ và thờ ơ là bình thường hoặc hợp lý. Điều này sau đó dẫn đến sự tha hóa xã hội: “Một xã hội bị tha hóa nếu các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu dùng của nó khiến việc trao tặng bản thân và thiết lập tình liên đới giữa mọi người trở nên khó khăn hơn”. [195] Không chỉ là chuẩn mực đạo đức khiến chúng ta vạch trần và chống lại những cấu trúc xã hội tha hóa này và ủng hộ những nỗ lực trong xã hội nhằm khôi phục và củng cố lợi ích chung. Đúng hơn, chính “sự hoán cải của trái tim” của chúng ta “áp đặt nghĩa vụ” [196] để sửa chữa những cấu trúc này. Chính phản ứng của chúng ta đối với tình yêu của trái tim Chúa Giêsu, dạy chúng ta biết yêu thương đáp lại.

184. Chính vì sự đền tạ theo Tin Mừng sở hữu chiều kích xã hội quan trọng này, nên các hành động yêu thương, phục vụ và hòa giải của chúng ta, để thực sự có tính đền tạ cần phải được Chúa Kitô truyền cảm hứng, thúc đẩy và trao quyền. Thánh Gioan Phaolô II cũng nhận xét rằng “để xây dựng nền văn minh tình yêu”, [197] thế giới ngày nay cần trái tim của Chúa Kitô. Sự đền tạ của Kitô giáo không thể chỉ được hiểu là một tập hợp các công việc bên ngoài, mặc dù chúng có thể không thể thiếu và đôi khi đáng ngưỡng mộ. Những công việc này cần một “bí ẩn”, một tâm hồn, một ý nghĩa mang lại cho chúng sức mạnh, động lực và sự sáng tạo không mệt mỏi. Chúng cần sự sống, ngọn lửa và ánh sáng tỏa ra từ trái tim Chúa Kitô.

Chữa lành những trái tim bị tổn thương

185. Một sự đền tạ chỉ mang tính bên ngoài cũng không đủ, cho cả thế giới của chúng ta lẫn cho trái tim Chúa Kitô. Nếu mỗi người chúng ta xem xét tội lỗi của chính mình và ảnh hưởng của chúng đối với người khác, chúng ta sẽ nhận ra rằng việc sửa chữa tổn hại đã gây ra cho thế giới này cũng đòi hỏi một mong muốn hàn gắn những trái tim bị tổn thương nơi những tổn thương sâu sắc nhất đã xảy ra và nỗi đau là đau đớn nhất.

186. Do đó, tinh thần đền tạ “dẫn chúng ta đến niềm hy vọng rằng mọi vết thương đều có thể được chữa lành, bất kể nó sâu đến đâu. Việc đền tạ hoàn toàn đôi khi có vẻ là bất khả, chẳng hạn như khi tài sản hoặc người thân yêu bị mất hoàn toàn, hoặc khi một số tình huống trở nên không thể khắc phục được. Tuy nhiên, ý định đền tạ và thực hiện theo cách cụ thể là điều cần thiết cho quá trình hòa giải và trở lại với sự bình yên trong tâm hồn”. [198]

Vẻ đẹp của việc cầu xin sự tha thứ

187. Ý định tốt là không đủ. Phải có một mong muốn bên trong được phát biểu qua hành động bên ngoài của chúng ta. “Sự đền tạ, nếu là Kitô giáo, để chạm đến trái tim của người bị xúc phạm và không chỉ là một hành động công lý giao hoán đơn thuần, đòi hỏi hai điều: thừa nhận tội lỗi của chúng ta và cầu xin sự tha thứ… Chính từ sự thừa nhận trung thực về sai lầm đã gây ra cho anh chị em của chúng ta, và từ nhận thức sâu sắc và chân thành rằng tình yêu đã bị tổn hại, mà mong muốn sửa chữa nảy sinh”. [199]

188. Chúng ta không bao giờ nên nghĩ rằng việc thừa nhận tội lỗi của mình trước người khác bằng cách nào đó là hạ thấp hoặc xúc phạm đến phẩm giá con người của chúng ta. Ngược lại, nó đòi hỏi chúng ta phải ngừng lừa dối bản thân và thừa nhận quá khứ của mình như nó vốn có, bị tội lỗi làm hoen ố, đặc biệt là trong những trường hợp chúng ta gây tổn thương cho anh chị em của mình. “Tự buộc tội là một phần của sự khôn ngoan Kitô giáo… Điều đó làm đẹp lòng Chúa, vì Chúa chấp nhận một trái tim thống hối”. [200]

189. Một phần của tinh thần đền tạ này là phong tục cầu xin sự tha thứ từ anh chị em của chúng ta, điều này thể hiện sự cao quý lớn lao giữa sự yếu đuối của con người chúng ta. Việc cầu xin sự tha thứ là một phương tiện chữa lành các mối quan hệ, vì nó “mở lại cuộc đối thoại và tỏ bầy ý chí tái lập mối dây bác ái huynh đệ… Nó chạm đến trái tim của anh chị em chúng ta, mang lại sự an ủi và truyền cảm hứng chấp nhận sự tha thứ được yêu cầu. Ngay cả khi điều không thể sửa chữa được không thể hoàn toàn được sửa chữa, tình yêu luôn có thể được tái sinh, khiến tổn thương trở nên dễ chịu hơn”. [201]

190. Một trái tim có khả năng ăn năn sẽ phát triển trong tình huynh đệ và tình liên đới. Nếu không, “chúng ta sẽ thoái lui và già đi bên trong”, trong lúc khi “lời cầu nguyện của chúng ta trở nên đơn giản và sâu sắc hơn, dựa trên sự tôn thờ và thán phục trước sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ phát triển và trưởng thành. Chúng ta trở nên ít gắn bó với bản thân hơn và gắn bó hơn với Chúa Kitô. Trở nên nghèo khó trong tinh thần, chúng ta đến gần hơn với những người nghèo, những người thân yêu nhất của Chúa”. [202] Điều này dẫn đến một tinh thần đền tạ thực sự, vì “những người cảm thấy ăn năn trong trái tim ngày càng cảm thấy mình là anh chị em với tất cả những tội nhân trên thế giới; từ bỏ thái độ tự cao và phán đoán khắc nghiệt của mình, họ tràn đầy mong muốn cháy bỏng được thể hiện tình yêu và đền tạ”. [203] Cảm giác liên đới nảy sinh từ sự ăn năn cũng giúp cho sự hòa giải diễn ra. Người có khả năng ăn năn, “thay vì cảm thấy tức giận và tai tiếng trước những thiếu sót của anh chị em mình, thì khóc vì tội lỗi của họ. Có một sự đảo ngược, khi khuynh hướng tự nhiên là dễ dãi với bản thân và cứng ngắc với người khác bị đảo ngược và, nhờ ân sủng của Chúa, chúng ta trở nên nghiêm khắc với bản thân và thương xót người khác”. [204]

ĐỀN TẠ: MỘT SỰ MỞ RỘNG TRÁI TIM ĐỨC KITÔ

191. Có một cách tiếp cận khác, bổ sung, đối với việc đền tạ, cho phép chúng ta đặt nó vào một mối quan hệ trực tiếp hơn với trái tim của Chúa Kitô, mà không loại trừ khía cạnh cam kết cụ thể đối với anh chị em mình.

192. Ở một nơi khác, tôi đã gợi ý rằng, “bằng cách nào đó, Chúa đã tìm cách giới hạn bản thân theo cách mà nhiều điều chúng ta nghĩ là điều ác, nguy hiểm hoặc nguồn đau khổ, trên thực tế lại là một phần của những cơn đau khi sinh nở mà Người sử dụng để lôi kéo chúng ta vào hành động hợp tác với Đấng Tạo Hóa”. [205] Sự hợp tác này từ phía chúng ta có thể cho phép sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa trong cuộc sống của chúng ta và trên thế giới, trong khi sự từ chối hoặc thờ ơ của chúng ta có thể ngăn cản điều đó. Một số đoạn trong Kinh thánh diễn tả điều này theo cách ẩn dụ, như khi Chúa kêu lên, "Ước gì ngươi trở về với Ta, hỡi Israel!" (x. Grm 4:1). Hoặc khi đối diện với sự từ chối của dân Người, Người nói, "Lòng Ta nao nao trong Ta; lòng thương xót của Ta trở nên ấm áp và dịu dàng" (Hs 11:8).

193. Mặc dù không thể nói về nỗi đau khổ mới từ phía Chúa vinh quang, nhưng "mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô… và tất cả những gì Chúa Kitô là - tất cả những gì Người đã làm và chịu đựng vì tất cả mọi người - đều tham gia vào cõi vĩnh hằng thần thiêng, và do đó vượt qua mọi thời gian trong khi hiện diện trong chúng tất cả". [206] Chúng ta có thể nói rằng Người đã cho phép vinh quang rộng lớn của sự phục sinh của Người bị hạn chế và sự lan tỏa của tình yêu bao la và cháy bỏng của Người bị kiềm chế, để dành chỗ cho sự hợp tác tự do của chúng ta với trái tim Người. Chúng ta từ chối tình yêu của Người dựng lên một rào cản đối với hồng phúc ân sủng đó, trong khi việc chúng ta tin tưởng chấp nhận nó mở ra một không gian, một kênh cho phép nó đổ vào trái tim chúng ta. Sự từ chối hoặc thờ ơ của chúng ta hạn chế tác động của quyền năng Người và sự phong phú của tình yêu Người trong chúng ta. Nếu Người không gặp được sự cởi mở và tin tưởng nơi tôi, thì tình yêu của Người sẽ bị tước mất – vì chính Người đã muốn – sự mở rộng, độc đáo và không thể lặp lại, trong cuộc sống của tôi và trên thế giới này, nơi Người gọi tôi để làm Người hiện diện. Một lần nữa, điều này không bắt nguồn từ bất cứ sự yếu đuối nào từ phía Người mà đúng hơn là từ sự tự do vô hạn của Người, quyền năng mầu nhiệm của Người và tình yêu hoàn hảo của Người dành cho mỗi người chúng ta. Khi quyền năng của Thiên Chúa được tỏ lộ trong sự yếu đuối của tự do con người chúng ta, “chỉ có đức tin mới có thể nhận ra điều đó”. [207]

194. Thánh Mar-ga-rét Maria kể lại rằng, trong một lần hiện ra, Chúa Kitô đã nói về tình yêu nồng cháy của trái tim Người dành cho chúng ta, Người nói với bà rằng, “không thể kiềm chế ngọn lửa bác ái cháy bỏng của Người, Người phải lan tỏa chúng ra khắp nơi”. [208] Vì Chúa, Đấng có thể làm mọi sự, mong muốn trong sự tự do thần thiêng của Người đòi hỏi sự hợp tác của chúng ta, nên sự đền tạ có thể được hiểu là việc chúng ta loại bỏ những trở ngại mà chúng ta đặt ra trước sự mở rộng tình yêu của Chúa Kitô trên thế giới do chúng ta thiếu tin tưởng, biết ơn và hy sinh bản thân.

Một sự dâng hiến cho tình yêu

195. Để giúp chúng ta suy gẫm sâu sắc hơn về mầu nhiệm này, chúng ta có thể một lần nữa quay lại với linh đạo sáng ngời của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Thánh Têrêsa biết rằng ở một số nơi, một hình thức đền tạ cực đoan đã phát triển, dựa trên sự sẵn lòng hy sinh bản thân vì người khác và theo một nghĩa nào đó trở thành “cột thu lôi” cho những hình phạt của công lý thần thiêng. Theo lời của bà, “Tôi nghĩ về những linh hồn tự hiến mình làm nạn nhân của công lý Thiên Chúa để tránh những hình phạt dành cho tội nhân, tự mình gánh chịu chúng”. [209] Tuy nhiên, mặc dù sự dâng hiến như vậy có vẻ lớn lao và hào phóng, nhưng bà không thấy nó quá hấp dẫn: “Tôi không cảm thấy bị thu hút để làm điều đó”. [210] Sự nhấn mạnh quá lớn vào công lý của Chúa cuối cùng có thể dẫn đến khái niệm cho rằng sự hy sinh của Chúa Kitô bằng cách nào đó không trọn vẹn hoặc chỉ có hiệu quả một phần, hoặc lòng thương xót của Người không đủ mạnh mẽ.

196. Với sự hiểu biết sâu sắc về tâm linh, Thánh Têrêsa đã khám phá ra rằng chúng ta có thể hiến dâng bản thân theo một cách khác, không cần phải thỏa mãn công lý của Chúa mà bằng cách để tình yêu vô hạn của Chúa lan tỏa tự do: “Lạy Chúa tôi! Tình yêu bị khinh miệt của Người sẽ vẫn khép kín trong trái tim Người sao? Với tôi, dường như nếu Người tìm thấy những linh hồn hiến dâng bản thân mình như nạn nhân của cuộc tàn sát cho tình yêu của Người, Người sẽ nhanh chóng thiêu rụi họ; với tôi, dường như Người cũng sẽ vui vẻ không kìm hãm những làn sóng dịu dàng vô hạn trong Người”. [211]

197. Mặc dù không cần thêm bất cứ điều gì vào sự hy sinh cứu chuộc duy nhất của Chúa Kitô, nhưng sự thật vẫn là sự từ chối tự do của chúng ta có thể ngăn cản trái tim Chúa Kitô lan tỏa “những làn sóng dịu dàng vô hạn của Người” trên thế giới này. Một lần nữa, điều này là vì Chúa muốn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Hơn cả công lý của Thiên Chúa, chính sự kiện tình yêu của Chúa Kitô có thể bị từ chối đã làm cho trái tim của Thánh Têrêsa bối rối, bởi vì đối với bà, công lý của Thiên Chúa chỉ được hiểu dưới ánh sáng tình yêu của Người. Như chúng ta đã thấy, bà đã chiêm ngưỡng mọi sự hoàn hảo của Thiên Chúa qua lòng thương xót của Người, và do đó thấy chúng được biến đổi và rạng ngời tình yêu. Theo lời bà, “ngay cả công lý của Người (và có lẽ điều này còn hơn cả những điều khác) đối với tôi dường như được mặc lấy tình yêu”. [212]

198. Đây là nguồn gốc của Hành động Hiến dâng của bà, không phải cho công lý của Thiên Chúa mà cho tình yêu thương xót của Người. “Con dâng mình như một nạn nhân của lễ thiêu cho tình yêu thương xót của Người, cầu xin Người thiêu đốt con không ngừng, để những làn sóng dịu dàng vô hạn ẩn chứa trong Người tràn vào tâm hồn con, và như vậy con có thể trở thành một vị tử đạo của tình yêu của Người”. [213] Điều quan trọng là phải nhận ra rằng, đối với Thánh Têrêsa, điều này không chỉ là để cho trái tim của Chúa Kitô lấp đầy trái tim bà, thông qua sự tin tưởng hoàn toàn của bà, với vẻ đẹp của tình yêu của Người, mà còn là để tình yêu đó, thông qua cuộc sống của bà, lan tỏa đến những người khác và do đó biến đổi thế giới. Một lần nữa, theo lời bà, “Trong trái tim của Giáo hội, Mẹ của tôi, tôi sẽ là tình yêu… và như vậy giấc mơ của tôi sẽ thành hiện thực”. [214] Hai khía cạnh này gắn liền không thể tách rời.

199. Chúa đã chấp nhận lễ vật của bà. Chúng ta thấy rằng ngay sau đó, bà tuyên bố rằng bà cảm thấy một tình yêu mãnh liệt dành cho người khác và khẳng định rằng tình yêu đó đến từ trái tim của Chúa Kitô, được nối dài qua bà. Vì vậy, bà nói với chị gái Léonie của mình: “Em yêu chị gấp ngàn lần dịu dàng hơn những người chị em bình thường yêu nhau, vì em có thể yêu chị bằng trái tim của người phối ngẫu trên trời của chúng ta”. [215] Sau đó, bà viết cho Maurice Bellière, “Em muốn làm cho anh hiểu được sự dịu dàng của trái tim Chúa Giêsu, những gì Người mong đợi ở anh!” [216]

Tính toàn vẹn và sự hòa hợp

200. Thưa anh chị em, tôi đề nghị rằng chúng ta hãy phát triển phương tiện đền tạ này, nói một cách ngắn gọn, là trao tặng trái tim của Chúa Kitô một khả năng mới để lan tỏa ngọn lửa tình yêu nồng cháy và nhân từ của Người trên thế giới này. Mặc dù sự đền tạ vẫn đúng là mong muốn “bồi thường cho những tổn thương đã gây ra cho Tình yêu chưa được tạo ra, dù là do sự vô ý hay sự xúc phạm nghiêm trọng”, [217] cách phù hợp nhất để làm điều này là tình yêu của chúng ta trao tặng Chúa một khả năng lan tỏa, để đền tạ cho tất cả những lần tình yêu của Người bị từ chối hoặc khước từ. Điều này không chỉ đơn thuần là “sự an ủi” Chúa Kitô mà chúng ta đã nói đến trong chương trước; nó được thể hiện trong các hành động yêu thương huynh đệ mà qua đó chúng ta chữa lành vết thương của Giáo hội và thế giới. Theo cách này, chúng ta trao tặng sức mạnh chữa lành của trái tim Chúa Kitô những cách mới để phát biểu chính nó.

201. Những hy sinh và đau khổ mà những hành động yêu thương tha nhân này đòi hỏi đã kết hợp chúng ta với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Theo cách này, “qua cuộc đóng đinh huyền nhiệm mà Thánh Tông Đồ nói đến, chúng ta sẽ nhận được hoa trái dồi dào của sự xoa dịu và đền tội, cho chính chúng ta và cho những người khác”. [218] Chỉ có Chúa Kitô cứu chúng ta bằng sự hy sinh của Người trên thập giá; chỉ có Người cứu chuộc chúng ta, vì “chỉ có một Thiên Chúa; chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, là con người Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” (1 Tm 2:5-6). Sự đền tạ mà chúng ta dâng hiến là sự tham gia được chấp nhận một cách tự do vào tình yêu cứu chuộc của Người và sự hy sinh duy nhất của Người. Như vậy, chúng ta hoàn thành trong xác thịt của mình “những gì còn thiếu trong những đau khổ của Chúa Kitô vì lợi ích của thân thể Người, tức là Giáo Hội” (Cl 1:24); và chính Chúa Kitô nối dài qua chúng ta những hiệu quả của sự tự hiến hoàn toàn và đầy yêu thương của Người.

202. Thường thì những đau khổ của chúng ta liên quan đến bản ngã bị tổn thương của chính chúng ta. Sự khiêm nhường của trái tim Chúa Kitô chỉ cho chúng ta con đường hạ mình. Thiên Chúa đã chọn đến với chúng ta trong sự hạ mình và nhỏ bé. Cựu Ước đã cho chúng ta thấy, bằng nhiều ẩn dụ khác nhau, một Thiên Chúa đi vào lòng lịch sử và để cho dân Người từ chối Người. Tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện giữa cuộc sống thường nhật của dân Người, như thể đang cầu xin một lời đáp trả, như thể đang xin phép Người được biểu lộ vinh quang của Người. Tuy nhiên, “có lẽ chỉ một lần Chúa Giêsu nhắc đến chính trái tim Người, bằng chính lời của Người. Và Người nhấn mạnh đặc điểm duy nhất này: ‘hiền lành và khiêm nhường’, như thể muốn nói rằng chỉ bằng cách này Người mới muốn giành được chúng ta về với Người”. [219] Khi Người nói, “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11:29), Người đã cho chúng ta thấy rằng “để tỏ mình ra, Người cần sự bé nhỏ của chúng ta, sự tự hạ mình của chúng ta”. [220]

203. Trong những gì chúng ta đã nói, điều quan trọng là phải lưu ý đến một số khía cạnh không thể tách rời. Các hành vi yêu thương tha nhân, với sự từ bỏ, tự chối, đau khổ và nỗ lực mà chúng đòi hỏi, chỉ có thể như vậy khi chúng được nuôi dưỡng bằng chính tình yêu của Chúa Kitô. Người giúp chúng ta yêu thương như Người đã yêu, và theo cách này, Người yêu thương và phục vụ người khác thông qua chúng ta. Người hạ mình xuống để thể hiện tình yêu của Người qua các hành động của chúng ta, nhưng ngay cả trong những việc thương xót nhỏ nhất của chúng ta, trái tim Người vẫn được tôn vinh và thể hiện tất cả sự vĩ đại của Người. Một khi trái tim chúng ta chào đón tình yêu của Chúa Kitô trong sự tin tưởng hoàn toàn, và để ngọn lửa của tình yêu ấy lan tỏa trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta có khả năng yêu thương người khác như Chúa Kitô đã yêu thương, trong sự khiêm nhường và gần gũi với tất cả mọi người. Theo cách này, Chúa Kitô thỏa mãn cơn khát của Người và vinh quang lan tỏa ngọn lửa tình yêu nồng cháy và nhân từ của Người trong chúng ta và thông qua chúng ta. Làm sao chúng ta có thể không thấy được sự hòa hợp tuyệt vời hiện diện trong tất cả những điều này?

204. Cuối cùng, để đánh giá cao lòng sùng kính này trong tất cả sự phong phú của nó, cần phải nói thêm, theo quan điểm của những gì chúng ta đã nói về chiều kích Ba Ngôi của nó, rằng sự đền tạ mà Chúa Kitô thực hiện trong nhân tính của Người được dâng lên Chúa Cha thông qua hoạt động của Chúa Thánh Thần trong mỗi người chúng ta. Do đó, sự đền tạ mà chúng ta dâng lên trái tim của Chúa Kitô cuối cùng hướng đến Chúa Cha, Đấng hài lòng khi thấy chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô bất cứ khi nào chúng ta dâng hiến chính mình qua Người, với Người và trong Người.

MANG TÌNH YÊU ĐẾN THẾ GIỚI

205. Sứ điệp của Chúa Kitô hấp dẫn khi được trải nghiệm và diễn đạt một cách trọn vẹn: không chỉ đơn thuần là nơi ẩn náu cho những suy nghĩ đạo đức hay một dịp để cử hành những nghi lễ gây ấn tượng. Chúng ta sẽ thờ phượng Chúa Kitô như thế nào nếu chúng ta chỉ bằng lòng với mối quan hệ cá nhân với Người và không quan tâm đến việc xoa dịu nỗi đau khổ của người khác hoặc giúp họ sống một cuộc sống tốt đẹp hơn? Liệu điều đó có làm vui lòng trái tim đã yêu thương chúng ta đến vậy không, nếu chúng ta đắm mình trong một trải nghiệm tôn giáo riêng tư trong khi bỏ qua những hàm ý của nó đối với xã hội mà chúng ta đang sống? Chúng ta hãy trung thực và chấp nhận lời Chúa một cách trọn vẹn. Mặt khác, công việc của chúng ta với tư cách là những người Kitô hữu vì sự cải thiện xã hội không được làm lu mờ nguồn cảm hứng tôn giáo của nó, vì cuối cùng, điều đó sẽ là tìm kiếm ít hơn cho anh chị em của chúng ta so với những gì Chúa mong muốn ban cho họ. Vì lý do này, chúng ta nên kết thúc chương này bằng cách nhắc lại chiều kích truyền giáo của tình yêu của chúng ta đối với trái tim Chúa Kitô.

206. Thánh Gioan Phaolô II đã nói về chiều kích xã hội của lòng sùng kính trái tim Chúa Kitô, nhưng cũng nói về “sự đền tạ, đó là sự hợp tác tông đồ trong việc cứu rỗi thế giới”. [221] Do đó, việc tận hiến cho trái tim Chúa Kitô “phải được nhìn nhận trong mối liên hệ với hoạt động truyền giáo của Giáo hội, vì nó đáp lại mong muốn của trái tim Chúa Giêsu là lan tỏa khắp thế giới, thông qua các thành viên của Thân thể Người, sự cam kết hoàn toàn của Người đối với Vương quốc”. [222] Kết quả là, “qua chứng tá của các Kitô hữu, tình yêu sẽ được đổ vào trái tim con người, để xây dựng Thân thể Chúa Kitô là Giáo hội, và xây dựng một xã hội công lý, hòa bình và tình huynh đệ”. [223]

207. Ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng lan tỏa thông qua hoạt động truyền giáo của Giáo hội, công bố sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Chúa Kitô. Thánh Vincent de Paul đã diễn tả điều này một cách hay khi ngài mời các môn đệ cầu nguyện với Chúa để xin “thần khí này, trái tim này khiến chúng ta đi khắp mọi nơi, trái tim của Con Thiên Chúa, trái tim của Chúa chúng ta, thúc đẩy chúng ta đi như Người đã đi… Người sai chúng ta, giống như [các tông đồ], mang lửa đến khắp mọi nơi”. [224]

208. Thánh Phaolô VI, khi nói chuyện với các Hội dòng tu trì dành riêng cho việc truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, đã đưa ra nhận xét sau đây. “Không còn nghi ngờ gì nữa rằng cam kết mục vụ và nhiệt huyết truyền giáo sẽ bùng cháy, nếu cả linh mục và giáo dân, trong mong muốn truyền bá vinh quang của Thiên Chúa, chiêm ngưỡng tấm gương tình yêu vĩnh cửu mà Chúa Kitô đã chỉ cho chúng ta, và hướng nỗ lực của họ để làm cho tất cả nam giới và nữ giới được chia sẻ sự giàu có vô tận của Chúa Kitô”. [225] Khi chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Tâm, sứ mệnh trở thành vấn đề của tình yêu. Bởi vì mối nguy hiểm lớn nhất trong sứ mệnh là, giữa tất cả những điều chúng ta nói và làm, chúng ta không thể mang lại một cuộc gặp gỡ vui tươi với tình yêu của Chúa Kitô, Đấng ôm lấy chúng ta và cứu rỗi chúng ta.

209. Sứ mệnh, như một sự tỏa sáng của tình yêu từ trái tim Chúa Kitô, đòi hỏi những nhà truyền giáo là những người đang yêu và bị Chúa Kitô mê hoặc, cảm thấy có nghĩa vụ phải chia sẻ tình yêu đã thay đổi cuộc sống của họ. Họ mất kiên nhẫn khi thời gian bị lãng phí vào việc thảo luận các câu hỏi thứ yếu hoặc tập trung vào các chân lý và quy tắc, bởi vì mối quan tâm lớn nhất của họ là chia sẻ những gì họ đã trải nghiệm. Họ muốn người khác nhận ra sự tốt đẹp và vẻ đẹp của Người Yêu được truyền đạt qua những nỗ lực của họ, dù chúng có thể không đầy đủ. Chẳng phải đó là trường hợp của bất cứ người yêu nào sao? Chúng ta có thể lấy ví dụ những lời mà Dante Alighieri đã cố gắng diễn đạt luận lý học của tình yêu này:

Io dico che, pensando al suo valore
amor si dolce si mi si fa sentire,
che s’io allora non perdessi ardire
farei parlando innamorar la gente
”. [226]

(Tôi tuyên bố rằng, khi nghĩ đến giá trị của nó, tình yêu ngọt ngào đến nỗi khiến tôi cảm thấy rằng, nếu không mất lòng can đảm, tôi sẽ lên tiếng và khiến mọi người khác phải si tình)

210. Có thể nói về Chúa Kitô, bằng chứng tá hoặc bằng lời nói, theo cách mà người khác tìm cách yêu mến Người, là mong muốn lớn nhất của mọi nhà truyền giáo của tâm hồn. Sự năng động của tình yêu này không liên quan gì đến việc cải đạo; lời nói của một người yêu không làm phiền người khác, không đòi hỏi hay bắt buộc, mà chỉ khiến người khác kinh ngạc trước tình yêu như vậy. Với sự tôn trọng vô cùng đối với sự tự do và phẩm giá của họ, người yêu chỉ đơn giản là chờ họ dò hỏi về tình yêu đã lấp đầy cuộc sống của họ bằng niềm vui lớn lao như vậy.

211. Chúa Kitô yêu cầu bạn không bao giờ phải xấu hổ khi nói với người khác, với tất cả sự thận trọng và tôn trọng, về tình bạn của bạn với Người. Người yêu cầu bạn dám nói với người khác rằng bạn đã tìm thấy Người tốt đẹp và tuyệt vời như thế nào. “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người khác, thì Ta cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32). Đối với một trái tim yêu thương, đây không phải là một bổn phận mà là một nhu cầu không thể kìm nén: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). “Trong tôi như có ngọn lửa bùng cháy, ẩn kín trong xương cốt tôi; tôi mệt mỏi vì phải giữ nó lại, và tôi không thể chịu đựng được nữa” (Grm 20:9).

Trong sự hiệp thông phục vụ

212. Chúng ta không nên nghĩ về sứ mệnh chia sẻ Chúa Kitô này như một điều gì đó chỉ giữa Chúa Giêsu và tôi. Sứ mệnh được trải nghiệm trong sự hiệp thông với cộng đồng của chúng ta và với toàn thể Giáo hội. Nếu chúng ta quay lưng lại với cộng đồng, chúng ta sẽ quay lưng lại với Chúa Giêsu. Nếu chúng ta quay lưng lại với cộng đồng, tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ trở nên lạnh nhạt. Đây là một sự thật và chúng ta không bao giờ được quên điều đó. Tình yêu dành cho anh chị em trong cộng đồng của chúng ta – tôn giáo, giáo xứ, giáo phận và những cộng đồng khác – là một loại nhiên liệu nuôi dưỡng tình bạn của chúng ta với Chúa Giêsu. Những hành động yêu thương của chúng ta dành cho anh chị em trong cộng đồng có thể là cách tốt nhất và đôi khi là cách duy nhất để chúng ta có thể làm chứng cho người khác về tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giêsu Kitô. Chính Người đã nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy qua điều này, nếu anh em yêu thương nhau” (Ga 13:35).

213. Tình yêu này sau đó trở thành sự phục vụ trong cộng đồng. Tôi không bao giờ mệt mỏi khi nhắc lại rằng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta điều này bằng những từ ngữ rõ ràng nhất có thể: “Mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy, tức là anh em đã làm cho chính Thầy” (Mt 25:40). Bây giờ Người yêu cầu anh em gặp Người ở đó, trong mỗi anh chị em của chúng ta, và đặc biệt là trong những thành viên nghèo khổ, bị khinh miệt và bị bỏ rơi của xã hội. Thật là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời!

214. Nếu chúng ta quan tâm đến việc giúp đỡ người khác, điều này không có nghĩa là chúng ta đang quay lưng lại với Chúa Giêsu. Thay vào đó, chúng ta đang gặp gỡ Người một cách khác. Bất cứ khi nào chúng ta cố gắng giúp đỡ và chăm sóc người khác, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta không bao giờ được quên rằng, khi Người sai các tông đồ đi truyền giáo, “Chúa đã cùng làm việc với họ” (Mc 16:20). Người luôn ở đó, luôn làm việc, chia sẻ những nỗ lực của chúng ta để làm điều thiện. Theo một cách bí ẩn, tình yêu của Người trở nên hiện diện thông qua việc phục vụ của chúng ta. Người nói với thế giới bằng một ngôn ngữ đôi khi không cần lời nói.

215. Chúa Giêsu đang gọi bạn và sai bạn đi để truyền bá điều tốt lành trong thế giới của chúng ta. Tiếng gọi của Người là tiếng gọi phục vụ, một lời triệu tập để làm điều thiện, có thể là một bác sĩ, một người mẹ, một giáo viên hoặc một linh mục. Dù bạn ở đâu, bạn cũng có thể nghe thấy tiếng gọi của Người và nhận ra rằng Người đang sai bạn đi để thực hiện sứ mệnh đó. Chính Người đã nói với chúng ta: “Ta sai các con ra đi” (Lc 10:3). Đó là một phần trong việc chúng ta trở thành bạn của Người. Tuy nhiên, để tình bạn này trưởng thành, bạn phải để Người sai bạn đi truyền giáo trên thế gian này, và thực hiện sứ mệnh đó một cách tự tin, quảng đại, tự do và không sợ hãi. Nếu bạn cứ mãi mắc kẹt trong vùng an toàn của mình, bạn sẽ không bao giờ thực sự tìm thấy sự an toàn; những nghi ngờ và sợ hãi, nỗi buồn và sự lo lắng sẽ luôn rình rập ở phía chân trời. Những ai không thực hiện sứ mệnh của mình trên trái đất này sẽ không tìm thấy hạnh phúc mà là sự thất vọng. Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn ở bên bạn trên mọi bước đường. Người sẽ không ném bạn xuống vực thẳm, hay bỏ mặc bạn tự xoay xở. Người sẽ luôn ở đó để khích lệ và đồng hành cùng bạn. Người đã hứa và Người sẽ thực hiện: “Vì Ta luôn ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28:20).

216. Theo cách riêng của mình, bạn cũng phải là một nhà truyền giáo, giống như các tông đồ và các môn đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, những người đã ra đi để rao giảng tình yêu của Thiên Chúa, để nói với người khác rằng Chúa Kitô vẫn sống và đáng để biết đến. Thánh Têrêsa đã trải nghiệm điều này như một phần thiết yếu trong sự dâng hiến của mình cho Tình Yêu thương xót: “Tôi muốn cho Đấng Yêu Dấu của tôi uống và tôi cảm thấy mình bị thiêu đốt bởi cơn khát các linh hồn”. [227] Đó cũng là sứ mệnh của bạn. Mỗi người chúng ta phải thực hiện nó theo cách riêng của mình; bạn sẽ thấy mình có thể trở thành một nhà truyền giáo như thế nào. Chúa Giêsu xứng đáng không kém. Nếu bạn chấp nhận thử thách, Người sẽ soi sáng cho bạn, đồng hành với bạn và củng cố bạn, và bạn sẽ có một trải nghiệm phong phú mang lại cho bạn nhiều hạnh phúc. Không quan trọng là bạn có thấy kết quả ngay lập tức hay không; hãy để Chúa làm việc trong bí mật của trái tim chúng ta. Hãy tiếp tục trải nghiệm niềm vui nảy sinh từ những nỗ lực của chúng ta để chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô với người khác.

KẾT LUẬN

217. Tài liệu này có thể giúp chúng ta thấy rằng giáo lý của các Thông điệp xã hội Laudato Si’ và Fratelli Tutti không phải là không liên quan đến cuộc gặp gỡ của chúng ta với tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì chính bằng cách uống tình yêu đó, chúng ta có khả năng tạo nên mối quan hệ huynh đệ, nhận ra phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau làm việc để chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.

218. Trong một thế giới mà mọi thứ đều được mua và bán, ý thức về giá trị của con người ngày càng phụ thuộc vào những gì họ có thể tích lũy được bằng sức mạnh của đồng tiền. Chúng ta liên tục bị thúc đẩy để tiếp tục mua sắm, tiêu dùng và làm bản thân mình mất tập trung, bị giam cầm trong một hệ thống hạ thấp ngăn cản chúng ta nhìn xa hơn những nhu cầu trước mắt và nhỏ nhặt của mình. Tình yêu của Chúa Kitô không có chỗ trong cơ chế đồi trụy này, nhưng chỉ có tình yêu đó mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự theo đuổi điên cuồng không còn chỗ cho tình yêu vô điều kiện. Tình yêu của Chúa Kitô có thể trao tặng thế giới một trái tim và hồi sinh tình yêu ở bất cứ nơi nào chúng ta nghĩ rằng khả năng yêu thương đã hoàn toàn mất đi.

219. Giáo hội cũng cần tình yêu đó, kẻo tình yêu của Chúa Kitô bị thay thế bằng những cấu trúc và mối quan tâm lỗi thời, sự gắn bó quá mức với những ý tưởng và quan điểm của riêng chúng ta, và sự cuồng tín dưới bất cứ hình thức nào, cuối cùng sẽ thay thế tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, tình yêu giải thoát, làm sống động, mang lại niềm vui cho trái tim và xây dựng cộng đồng. Cạnh sườn bị thương của Chúa Kitô tiếp tục tuôn trào dòng suối không bao giờ cạn kiệt, không bao giờ mất đi, nhưng luôn tự hiến hết lần này đến lần khác cho tất cả những ai muốn yêu thương như Người đã yêu thương. Vì chỉ có tình yêu của Người mới có thể mang lại một nhân loại mới.

220. Tôi cầu xin Chúa Giêsu Kitô ban cho Thánh Tâm Người tiếp tục tuôn đổ những dòng nước hằng sống có thể chữa lành vết thương mà chúng ta đã gây ra, củng cố khả năng yêu thương và phục vụ người khác của chúng ta, và truyền cảm hứng cho chúng ta cùng nhau tiến tới một thế giới công bằng, liên đới và huynh đệ. Cho đến ngày chúng ta sẽ vui mừng cùng nhau cử hành bữa tiệc của vương quốc thiên đàng trước sự hiện diện của Chúa phục sinh, người hòa hợp mọi khác biệt của chúng ta trong ánh sáng tỏa ra liên tục từ trái tim rộng mở của Người. Xin Người được chúc tụng mãi mãi.

Ban hành tại Rome, tại Đền thờ Thánh Phêrô, vào ngày 24 tháng 10 năm 2024, năm thứ mười hai của Triều Giáo hoàng của tôi.

__________________________________

[1] Nhiều suy tư trong chương đầu tiên này được lấy cảm hứng từ các tác phẩm chưa xuất bản của Cha quá cố Diego Fares, S.J. Xin Chúa ban cho Người sự an nghỉ vĩnh cửu.
[2] So sánh HOMER, Iliad, XXI, 441.
[3] So sánh Iliad, X, 244.
[4] X. PLATO, Timaeus, 65 c-d; 70.
[5] Bài giảng Thánh lễ buổi sáng tại Domus Sanctae Marthae, 14 tháng 10 năm 2016: L’Osservatore Romano, 15 tháng 10 năm 2016, tr. 8.
[6] THÁNH JOHN PAUL II, Kinh Truyền Tin, 2 tháng 7 năm 2000: L'Osservatore Romano, 3-4 tháng 7 năm 2000, tr. 4.
[7] ID., Giáo lý, ngày 8 tháng 6 năm 1994: L'Osservatore Romano, ngày 9 tháng 6 năm 1994, tr. 5.
[8] Ác quỷ (1873).
[9] ROMANO GUARDINI, Religiöse Gestalten in Dostojewskijs Werk, Mainz/Paderborn, 1989, trang 236ff.
[10] KARL RAHNER, “Một số luận đề về thần học tôn sùng Thánh Tâm”, trong Điều tra thần học, tập. III, Baltimore-London, 1967, tr. 332.
[11] Như trên, tr. 333.
[12] BYUNG-CHUL HAN, Heideggers Herz. Zum Begriff der Stimmung bei Martin Heidegger, München, 1996, tr. 39.
[13] Như trên, tr. 60; xem. P. 176.
[14] X. ID., Agonie des Eros, Berlin, 2012.
[15] Cf. MARTIN HEIDEGGER, Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung, Frankfürt a. M., 1981, tr. 120.
[16] X. MICHEL DE CERTEAU, L’espace du désir ou le “fondement” des Lessons Spirituels: Christus 77 (1973), trang 118-128.
[17] Itinerarium Mentis in Deum, VII, 6.
[18] ID., Proemium in I Sent., q. 3.
[19] THÁNH JOHN HENRY NEWMAN, Suy gẫm và sùng kính, Luân Đôn, 1912, Phần III [XVI], par. 3, trang 573-574.
[20] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 82.
[21] Cùng nguồn., 10.
[22] Cùng nguồn., 14.
[23] Cf. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên bố Dignitas Infinita (2 tháng 4 năm 2024), 8. Cf. L’Osservatore Romano, 8 tháng 4 năm 2024.
[24] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 26.
[25] THÁNH JOHN PAUL II, Kinh Truyền Tin, 28 tháng 6 năm 1998: L’Osservatore Romano, 30 tháng 6-1 tháng 7 năm 1998, tr. 7.
[26] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 83: AAS 107 (2015), 880.
[27] Bài giảng trong Thánh lễ buổi sáng tại Domus Sanctae Marthae, 7/6/2013: L’Osservatore Romano, 8/6/2013, p. 8.
[28] PIUS XII, Thông điệp Haurietis Aquas (15 tháng 5 năm 1956), I: AAS 48 (1956), 316.
[29] PIUS VI, Tông Hiến Auctorem Fidei (28 tháng 8 năm 1794), 63: DH 2663.
[30] LEO XIII, Thông điệp Annum Sacrum (25 tháng 5 năm 1899): ASS 31 -1899), 649.
[31] Cùng nguồn: “Inest in Sacro Corde Symbolum et expressa imageo infinitæ Iesu Christi caritatis”.
[32] Kinh Truyền Tin, 09/06/2013: L’Osservatore Romano, 10-11/06/2013, tr. 8.
[33] Chúng ta có thể do đó hiểu tại sao Giáo hội cấm đặt trên bàn thờ các biểu tượng trái tim của Chúa Giêsu hoặc Đức Mẹ Maria (xem Phản hồi của Bộ Nghi lễ Thánh gửi Linh mục Charles Lecoq, P.S.S., ngày 5 tháng 4 năm 1879: Decreta Authentica Congregationis Sacrorum Rituum ex Actis ejusdem Collecta, tập III, 107-108, số 3492). Ngoài phụng vụ, “để tôn thờ riêng tư” (Cùng nguồn.), biểu tượng trái tim có thể được sử dụng như một phương tiện giảng dạy, một hình tượng thẩm mỹ hoặc một biểu tượng mời gọi người ta suy gẫm về tình yêu của Chúa Kitô, nhưng điều này có nguy cơ coi trái tim là đối tượng để tôn thờ hoặc đối thoại tâm linh tách biệt với Ngôi vị của Chúa Kitô. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1887, Bộ đã đưa ra một phản hồi khác tương tự (Cùng nguồn., 187, số 3673).
[34] CÔNG ĐỒNG TRENT, Phiên XXV, Sắc lệnh Mandat Sancta Synodus (3 tháng 12, 1563): DH 1823.
[35] HỘI NGHỊ THỨ NĂM CỦA CÁC GIÁM MỤC MỸ LATIN VÀ CARIBBEAN, Tài liệu Aparecida (29 tháng 6, 2007), n. 259.
[36] Thông điệp Haurietis Aquas (15/5/1956), I: AAS 48 (1956), 323-324.
[37] Ep. 261, 3: PG 32, 972.
[38] In Io. homil. 63, 2: PG 59, 350.
[39] De fide ad Gratianum, II, 7, 56: PL 16, 594 (ed. 1880).
[40] Enarr. in Ps. 87, 3: PL 37, 1111.
[41] X. De fide orth. 3, 6, 20: PG 94, 1006, 1081.
[42] OLEGARIO GONZÁLEZ DE CARDEDAL, La entraña del cristianismo, Salamanca, 2010, 70-71.
[43] Kinh Truyền Tin, 1 tháng Sáu 2008: L’Osservatore Romano, 2-3 tháng Sáu 2008, tr. 1.
[44] PIUS XII, Thông điệp Haurietis Aquas (15/5/1956), II: AAS 48 (1956), 327-328.
[45] Cùng nguồn: AAS 48 (1956), 343-344.
[46] Bênêđíctô XVI, Kinh Truyền Tin, 1 tháng Sáu 2008: L’Osservatore Romano, 2-3 tháng Sáu 2008, tr. 1.
[47] VIGILIUS, Hiến chế Inter Innumeras Sollicitudines (14 tháng 5 553): DH 420.
[48] CÔNG ĐỒNG EPHESUS, Anathemas of Cyril of Alexandria, 8: DH 259.
[49] CÔNG ĐỒNG CONSTANTINOPLE THỨ HAI, Khóa VIII (2 tháng 6, 553), Điều 9: DH 431.
[50]THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ, Bài ca thiêng liêng, red. A, Stanza 22, 4.
[51] Cùng nguồn., Stanza 12, 8.
[52] Cùng nguồn., Stanza 12, 1.
[53] “Chỉ có một Thiên Chúa là Chúa Cha, mọi sự đều từ Người và chúng ta tồn tại vì Người” (1 Cr 8:6). “Nguyện Thiên Chúa là Cha chúng ta được vinh hiển đời đời vô cùng. Amen” (Pl 4:20). “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha hay thương xót và là Thiên Chúa ban mọi nguồn an ủi” (2 Cr 1:3).
[54] Tông thư Tertio Millennio Adveniente (10 tháng 11 năm 1994), 49: AAS 87 (1995), 35.
[55] Ad Rom., 7: PG 5, 694.
[56] “Để thế gian biết rằng Ta yêu mến Chúa Cha” (Ga 14:31); “Cha và Ta là một” (Ga 10:30); “Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ta” (Ga 14:10).
[57] “Thầy đến cùng Chúa Cha” (pros ton Patéra: Ga 16:28). “Con đến cùng Cha” (pros se: Ga 17:11).
[58] “eis ton kolpon tou Patrós” [ở nơi cung lòng Chúa Cha].
[59] Adv. Haer., III, 18, 1: PG 7, 932.
[60] In Joh. II, 2: PG 14, 110.
[61] Kinh truyền tin, 23 tháng 6 năm 2002: L’Osservatore Romano, 24-25 tháng 6 năm 2002, tr. 1.
[62] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp nhân kỷ niệm 100 năm Ngày thánh hiến nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, Warsaw, 11 tháng 6 năm 1999, Lễ trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, 3: L’Osservatore Romano, 12 tháng 6 năm 1999, tr. 5.
[63] ID., Kinh truyền tin, ngày 8 tháng 6 năm 1986: L’Osservatore Romano, ngày 9-10 tháng 6 năm 1986, trang 5
[64] Bài giảng, Thăm Bệnh viện Gemelli và Khoa Y của Đại học Công Giáo Thánh Tâm, ngày 27 tháng 6 năm 2014: L’Osservatore Romano, ngày 29 tháng 6 năm 2014, trang 7.
[65] Eph 1:5, 7; 2:18; 3:12.
[66] Eph 2:5, 6; 4:15.
[67] Eph 1:3, 4, 6, 7, 11, 13, 15; 2:10, 13, 21, 22; 3:6, 11, 21.
[68] Sứ điệp nhân kỷ niệm 100 năm ngày thánh hiến nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, Warsaw, ngày 11 tháng 6 năm 1999, Lễ trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, 2: L’Osservatore Romano, ngày 12 tháng 6 năm 1999, tr. 5.
[69] “Vì Thánh Tâm có biểu tượng và hình ảnh rõ ràng về tình yêu vô hạn của Chúa Giêsu Kitô thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau, nên thật phù hợp và đúng đắn khi chúng ta hiến dâng bản thân cho Thánh Tâm của Người – một hành động không gì khác hơn là một lễ vật và sự ràng buộc bản thân với Chúa Giêsu Kitô, vì bất cứ danh dự, sự tôn kính và tình yêu nào được dành cho Thánh Tâm này thực sự và chân thành được dành cho chính Chúa Kitô… Và bây giờ, hôm nay, hãy nhìn xem một dấu hiệu đầy phúc và thiên giới khác được ban tặng cho chúng ta – Thánh Tâm của Chúa Giêsu, với một cây thánh giá mọc lên từ đó và tỏa sáng rực rỡ giữa ngọn lửa tình yêu. Trong Thánh Tâm ấy, tất cả hy vọng của chúng ta phải được đặt vào, và từ đó, sự cứu rỗi của con người phải được tin tưởng cầu xin” (Thông điệp Annum Sacrum [25 tháng 5 năm 1899]: ASS 31 [1898-1899], 649, 651).
[70] “Vì tổng thể của mọi tôn giáo và do đó là khuôn mẫu của cuộc sống hoàn hảo hơn, không được chứa đựng trong dấu hiệu may mắn nhất đó và trong hình thức của lòng đạo đức phát sinh từ đó, vì nó dễ dàng dẫn dắt tâm trí con người đến với sự hiểu biết sâu sắc hơn về Chúa Kitô, Chúa chúng ta, và thúc đẩy trái tim họ yêu mến Người mãnh liệt hơn và noi gương Người chặt chẽ hơn sao?” (Thông điệp Miserentissimus Redemptor [8 tháng 5 năm 1928]: AAS 20 [192 8], 167).
[71] “Vì rõ ràng là lòng sùng kính này, nếu chúng ta xem xét bản chất thích hợp của nó, là một hành vi tôn giáo tuyệt vời nhất, vì nó đòi hỏi sự quyết tâm hoàn toàn và tuyệt đối để phó thác và hiến dâng bản thân cho tình yêu của Đấng Cứu Chuộc thần linh, người có trái tim bị thương là dấu hiệu và biểu tượng sống động của tình yêu đó… Trong đó, chúng ta có thể chiêm ngưỡng không chỉ biểu tượng, mà còn, như thể, sự tổng hợp của toàn bộ mầu nhiệm cứu chuộc của chúng ta… Chúa Kitô đã chỉ rõ ràng và nhiều lần vào trái tim của Người như là biểu tượng mà con người được thu hút để nhận ra và thừa nhận tình yêu của Người, và đồng thời thiết lập nó như là dấu hiệu và lời cam kết về lòng thương xót và ân sủng của Người đối với các nhu cầu của Giáo hội trong thời đại chúng ta” (Thông điệp Haurietis Aquas [15 tháng 5 năm 1956], Proemium, III, IV: AAS 48 [1956], 311, 336, 340).
[72] Giáo lý, 8 tháng 6 năm 1994, 2: L'Osservatore Romano, 9 tháng 6 năm 1994, tr. 5.
[73] Kinh Truyền Tin, 1 tháng Sáu 2008: L’Osservatore Romano, 2-3 tháng Sáu 2008, tr. 1.
[74] Thông điệp Haurietis Aquas (15 tháng 5 năm 1956), IV: AAS 48 (1956), 344.
[75] Cf. Cùng nguồn.: AAS 48 (1956), 336.
[76] “Giá trị của các mặc khải riêng tư về cơ bản khác với giá trị của một mặc khải công khai: mặc khải công khai đòi hỏi đức tin… Một mặc khải riêng tư… là một sự trợ giúp được ban tặng, nhưng việc sử dụng nó không phải là bắt buộc” (BENEDICT XVI, Tông huấn Verbum Domini [30 tháng 9 năm 2010], 14: AAS 102 [2010]), 696).
[77] Thông điệp Haurietis Aquas (15 tháng 5 năm 1956), IV: AAS 48 (1956), 340.
[78] Cùng nguồn.: AAS 48 (1956), 344.
[79] Cùng nguồn.
[80] Tông huấn C’est la Confiance (15 tháng 10 năm 2023), 20: L’Osservatore Romano, 16 tháng 10 năm 2023.
[81] THÁNH TÊRÊSE HÀI ĐỒNG GIÊSU, Tự truyệnBản chép tay A, 83v°.
[82] THÁNH MARIA FAUSTINA KOWALSKA, Nhật ký, 47 (22 tháng 2 năm 1931), Marian Press, Stockbridge, 2011, tr. 46.
[83] Mishnah Sukkah, IV, 5, 9.
[84] Thư gửi Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, Paray-le-Monial (Pháp), 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, 7 tháng 10 năm 1986, tr. IX.
[85] Acta Martyrum Lugdunensium, trong EUSEBIUS OF CAESARIA, Historia Ecclesiastica, V, 1: PG 20, 418.
[86] RUFINUS, V, 1, 22, trong GCS, Eusebius II, 1, p. 411, 13ff.
[87] THÁNH JUSTIN, Dial. 135,3: PG 6, 787
[88] NOVATIAN, De Trinitate, 29: PL 3, 994; xem. SAINT GREGORY OF ELVIRA, Tractatus Origenis de libris Sanctarum Scripturarum, XX, 12: CSSL 69, 144.
[89] Expl. Ps. 1:33: PL 14, 983-984.
[90] So sánh Tract. in Ioannem 61, 6: PL 35, 1801.
[91] Ep. ad Rufinum, 3, 4.3: PL 22, 334.
[92] Sermones in Cant. 61, 4: PL 183, 1072.
[93] Expositio altera super Cantica Canticorum, c. 1: PL 180, 487.
[94] WILLIAM OF SAINT-THIERRY, De natura et dignitate amoris, 1: PL 184, 379.
[95] ID., Meditivae Orationes, 8, 6: PL 180, 230.
[96] SAINT BONAVENTURE, Lignum Vitae. De mysterio Passionis, 30.
[97] Cùng nguồn., 47.
[98] Legatus divinae pietatis, IV, 4, 4: SCh 255, 66.
[99] LÉON DEHON, Directoire Spirituel des prêtres su Sacré Cœur de Jésus, Turnhout, 1936, II, ch. VII, n. 141.
[100] Đối thoại về Chúa Quan Phòng, LXXV: FIORILLI M.-CARAMELLA S., eds., Bari, 1928, 144.
[101] Xem, chẳng hạn, ANGELUS WALZ, De veneratione divini cordis Iesu in Ordine Praedicatorum, Pontificium Institutum Angelicum, Rome, 1937.
[102] RAFAEL GARCÍA HERREROS, Vida de San Juan Eudes, Bogotá, 1943, 42.
[103] THÁNH FRANCIS DE SALES, Thư gửi Jane Frances de Chantal, 24 tháng 4 năm 1610.
[104] Bài giảng Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, 20 tháng 2 năm 1622. [105] Thư gửi Jane Frances de Chantal, Lễ Trọng Lễ Thăng Thiên, 1612.
[106] Thư gửi Marie Aimée de Blonay, ngày 18 tháng 2 năm 1618.
[107] Thư gửi Jane Frances de Chantal, cuối tháng 11 năm 1609.
[108] Thư gửi Jane Frances de Chantal, khoảng ngày 25 tháng 2 năm 1610.
[109] Entretien XIV, về sự giản dị và thận trọng trong tôn giáo.
[110] Thư gửi Jane Frances de Chantal, ngày 10 tháng 6 năm 1611.
[111] Thánh MAR-GA-RÉT MARIA ALACOQUE, Tự truyện, số 53.
[112] Cùng nguồn.
[113] Cùng nguồn., số 55.
[114] So sánh. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Các chuẩn mực để tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được cho là siêu nhiên, ngày 17 tháng 5 năm 2024, I, A, 12.
[115] THÁNH MAR-GA-RÉT MARIA ALACOQUE, Tự truyện, số 92.
[116] Thư gửi Sœur de la Barge, ngày 22 tháng 10 năm 1689.
[117] Tự truyện, số 53.
[118] Cùng nguồn., số 55.
[119] Bài giảng về sự tin tưởng vào Chúa, trong Œuvres du R.P de La Colombière, t. 5, Perisse, Lyon, 1854, tr. 100.
[120] Spiritual Exercises in London, ngày 1-8 tháng 2 năm 1677, trong Œuvres du R.P de La Colombière, t. 7, Seguin, Avignon, 1832, tr. 93.
[121] Spiritual Exercises in Lyon, tháng 10-tháng 11 năm 1674, Cùng nguồn., tr. 45.
[122] THÁNH CHARLES DE FOUCAULD, Thư gửi Madame de Bondy, ngày 27 tháng 4 năm 1897.
[123] Thư gửi Madame de Bondy, ngày 28 tháng 4 năm 1901. So sánh Thư gửi Madame de Bondy, ngày 5 tháng 4 năm 1909: “Qua bà, tôi biết đến việc tôn thờ Bí tích Thánh Thể, các phép lành và Thánh Tâm”.
[124] Thư gửi Madame de Bondy, ngày 7 tháng 4 năm 1890.
[125] Thư gửi l’Abbé Huvelin, ngày 27 tháng 6 năm 1892.
[126] THÁNH CHARLES DE FOUCAULD, Méditations sur l’Ancien Testament (1896-1897), XXX, 1-21.
[127] ID., Thư gửi l’Abbé Huvelin, 16 Ma y 1900.
[128] ID., Nhật ký, ngày 17 tháng 5 năm 1906.
[129] Thư 67 gửi Bà Guérin, ngày 18 tháng 11 năm 1888.
[130] Thư 122 gửi Céline, ngày 14 tháng 10 năm 1890.
[131] Bài thơ 23, “Gửi Thánh Tâm Chúa Giêsu”, tháng 6 hoặc tháng 10 năm 1895.
[132] Thư 247 gửi l’Abbé Maurice Bellière, ngày 21 tháng 6 năm 1897.
[133] Những cuộc trò chuyện cuối cùng. Yellow Notebook, ngày 11 tháng 7 năm 1897, 6.
[134] Thư 197 gửi cho Sơ Marie Thánh Tâm, ngày 17 tháng 9 năm 1896. Điều này không có nghĩa là Thánh Têrêsa không dâng hiến những hy sinh, nỗi buồn và rắc rối như một cách để kết hợp mình với sự đau khổ của Chúa Kitô, nhưng cuối cùng, bà quan tâm không trao cho những lễ dâng này một tầm quan trọng mà chúng không có.
[135] Thư 142 gửi cho Céline, ngày 6 tháng 7 năm 1893.
[136] Thư 191 gửi cho Léonie, ngày 12 tháng 7 năm 1896.
[137] Thư 226 gửi cho Cha Roulland, ngày 9 tháng 5 năm 1897.
[138] Thư 258 gửi cho l’Abbé Maurice Bellière, ngày 18 tháng 7 năm 1897.
[139] So sánh THÁNH I-NHA-XI-Ô LOYOLA, Linh thao, 104.
[140] Cùng nguồn., 297.
[141] X. Thư gửi I-nha-xi-ô Loyola, ngày 23 tháng 1 năm 1541.
[142] De Vita P. Ignatii et Societatis Iesu initiis, ch. 8. 96.
[143] Linh thao, 54.
[144] Cùng nguồn., 230ff.
[145] TỔNG HỘI THỨ BA MƯỜI THỨ BA CỦA DÒNG TÊN, Nghị định 46, 1: Institutum Societatis Iesu, 2, Florence, 1893, 511.
[146] In Him Alone is Our Hope. Texts on the Heart of Christ [Chỉ nơi Người là niềm hy vọng của chúng ta. Bản văn về Trái tim Chúa Kitô], St. Louis, 1984.
[147] Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Chúa Giêsu, Paray-le-Monial, ngày 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, ngày 6 tháng 10 năm 1986, trang 7.
[148] Hội nghị các Linh mục, “Nghèo khó”, ngày 13 tháng 8 năm 1655.
[149] Hội nghị các Nữ tu Bác ái, “Hành xác, Thư từ, Bữa ăn và Hành trình (Quy tắc chung, điều 24-27), ngày 9 tháng 12 năm 1657.
[150] SAINT DANIELE COMBONI, Gli scritti, Bologna, 1991, 998 (n. 3324).
[151] Bài giảng trong Thánh lễ phong thánh, ngày 18 tháng 5 năm 2003: L’Osservatore Romano, ngày 19-20 tháng 5 năm 2003, tr. 6.
[152] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Dives in Misericordia (30 tháng 11 năm 1980), 1: AAS 72 (1980), 1219.
[153] ID., Giáo lý, 20 tháng 6 năm 1979: L’Osservatore Romano, 22 tháng 6 năm 1979, 1.
[154] CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO COMBONIAN CỦA TRÁI TIM CHÚA GIÊSU, Quy luật sống, 3.
[155] HỘI THÁNH TÂM, Hiến pháp năm 1982, 7.
[156] Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 174.
[157] Hành vi đức tin của tín hữu không chỉ có mục đích là giáo lý được đề xuất, mà còn sự hiệp nhất với chính Chúa Kitô trong thực tại của cuộc sống thần linh của Người (x. THÁNH THOMAS AQUINAS, Summa Theologiae, II-II, q. 1, a. 2, ad 2; q. 4, a. 1).
[158] PIUS XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor (8 tháng 5 năm 1928): AAS 20 (1928), 174.
[159] Bài giảng tại Thánh lễ Truyền dầu, ngày 28 tháng 3 năm 2024: L’Osservatore Romano, ngày 28 tháng 3 năm 2024, tr. 2.
[160] THÁNH I-NHA-XI-Ô LOYOLA, Linh thao, 203.
[161] Bài giảng tại Thánh lễ Truyền dầu, ngày 28 tháng 3 năm 2024: L’Osservatore Romano, ngày 28 tháng 3 năm 2024, tr. 2.
[162] SAINT MAR-GA-RÉT MARIA ALACOQUE, Tự truyện, n. 55.
[163] Thư 133 gửi Cha Croiset.
[164] Tự truyện, n. 92.
[165] Thông điệp Annum Sacrum (25/5/1899): ASS 31 (1898-1899), 649.
[166] IULIANUS IMP., Ep. XLIX ad Arsacium Pontificem Galatiae, Mainz, 1828, 90-91.
[167] Như trên.
[168] BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên bố Dignitas Infinita (2 tháng 4 năm 2024), 19: L’Osservatore Romano, ngày 8 tháng 4 năm 2024.
[169] Cf. Bênêđíctô XVI, Thư gửi Bề trên Tổng quyền Dòng Tên nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thông điệp “Haurietis Aquas” (15 tháng 5, 2006): AAS 98 (2006), 461.
[170] In Num. homil. 12, 1: PG 12, 657.
[171] Thư. 29, 24: PL 16, 1060.
[172] Adv. Arium 1, 8: PL 8, 1044.
[173] Tract. in Joannem 32, 4: PL 35, 1643.
[174] Expos. in Ev. S. Joannis, cap. VII, lectio 5.
[175] PIUS XII, Thông điệp Haurietis Aquas, 15 tháng 5, 1956: AAS 48 (1956), 321.
[176] THÁNH JOHN PAUL II, Thông điệp Redemptoris Mater (25 tháng 3, 1987), 38: AAS 79 (1987), 411.
[177] CÔNG ĐỒNG VATICAN THỨ HAI, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62.
[178] Cùng nguồn., 60.
[179] Sermones super Cant., XX, 4: PL 183, 869.
[180] Dẫn nhập Đời sống Đạo đức, Phần III, xxxv.
[181] Bài giảng Chúa Nhật XVII sau lễ Hiện Xuống.
[182] Écrits spirituels, Paris 1947, 67.
[183] Sau ngày 19 tháng 3 năm 1902, tất cả các lá thư của ngài đều bắt đầu bằng những chữ Jesus Caritas được phân cách bởi một trái tim được đặt trên cây thánh giá.
[184] Thư gửi l’Abbé Huvelin, 15 tháng 7 năm 1904.
[185] Thư gửi Dom Martin, 25 tháng 1 năm 1903.
[186] Trích dẫn trong RENÉ VOILLAUME, Les fraternités du Père de Foucauld, Paris, 1946, 173.
[187] Méditations des saints Évangiles sur les passages relatifs à quinze vertus, Nazareth, 1897-1898, Charité ( Mt 13:3), 60.
[188] Cùng nguồn., Charité ( Mt 22:1), 90.
[189] H. HUVELIN, Quelques directeurs d'âmes au XVII siècle, Paris, 1911, 97.
[190] Hội nghị, “Phục vụ người bệnh và chăm sóc sức khỏe của chính mình”, ngày 11 tháng 11 năm 1657.
[191] Quy tắc chung của Hội Truyền giáo, ngày 17 tháng 5 năm 1658, c. 2, 6.
[192] Thư gửi Bề trên Tổng quyền của Dòng Tên, Paray-le-Monial, ngày 5 tháng 10 năm 1986: L’Osservatore Romano, ngày 6 tháng 10 năm 1986, tr. 7.
[193] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Hậu Thượng hội đồng Reconciliatio et Paenitentia (2 tháng 12 năm 1984), 16: AAS 77 (1985), 215.
[194] Cf. Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), 36: AAS 80 (1988), 561-562.
[195] Thông điệp Centesimus Annus (01/05/1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.
[196] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 1888.
[197] Giáo lý, 8 tháng 6 năm 1994, 2: L’Osservatore Romano, 4 tháng 5 năm 1994, tr. 5.
[198] Diễn văn gửi đến những người tham dự Hội thảo quốc tế “Réparer L'Irréparable”, nhân kỷ niệm 350 năm ngày Chúa Giêsu hiện ra tại Paray-le-Monial, ngày 4 tháng 5 năm 2024: L'Osservatore Romano, ngày 4 tháng 5 năm 2024, trang 12.
[199] Cùng nguồn.
[200] Bài giảng tại Thánh lễ sáng tại Domus Sanctae Marthae, ngày 6 tháng 3 năm 2018: L'Osservatore Romano, ngày 5-6 tháng 3 năm 2018, trang 8.
[201] Diễn văn gửi đến những người tham dự Hội nghị quốc tế Hội thảo “Réparer L'Irréparable”, nhân kỷ niệm 350 năm ngày Chúa Giêsu hiện ra tại Paray-le-Monial, ngày 4 tháng 5 năm 2024: L'Osservatore Romano, ngày 4 tháng 5 năm 2024, tr. 12.
[202] Bài giảng tại Thánh lễ Truyền Dầu, ngày 28 tháng 3 năm 2024: L'Osservatore Romano, ngày 28 tháng 3 năm 2024, trang 2.
[203] Cùng nguồn.
[204] Cùng nguồn.
[205] Thông điệp Laudato Si' (ngày 24 tháng 5 năm 2015 ), 80: AAS 107 (2015), 879.
[206] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1085.
[207] Cùng nguồn., số 268.
[208] Tự truyện, số 53.
[209] Bản chép tay A, 84r.
[210] Cùng nguồn.
[211] Cùng nguồn.
[212] Bản chép tay A, 83v.; cf. Thư 226 gửi Cha Roulland, ngày 9 tháng 5 năm 1897.
[213] Kinh Hiến dâng cho Tình yêu thương xót, ngày 9 tháng 6 năm 1895, 2r-2v.
[214] Bản chép tay B, 3v.
[215] Thư 186 gửi Léonie, ngày 11 tháng 4 năm 1896.
[216 ] Thư 258 gửi l'Abbé Bellière, ngày 18 tháng 7 năm 1897.
[217] So sánh. PIUS XI, Thông điệp Miserentissimus Redemptor, 8/5/1928: AAS 20 (1928), 169.
[218] Cùng nguồn.: AAS 20 (1928), 172.
[219] THÁNH JOHN PAUL II, Giáo lý, 20/6/1979: L' Osservatore Romano, ngày 22 tháng 6 năm 1979, tr. 1.
[220] Bài giảng trong Thánh lễ tại Domus Sanctae Marthae, 27 tháng 6 năm 2014: L’Osservatore Romano, 28 tháng 6 năm 2014, tr. 8.
[221] Sứ điệp kỷ niệm 100 năm thánh hiến nhân loại cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, Warsaw, ngày 11 tháng 6 năm 1999, Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu. L'Osservatore Romano, ngày 12 tháng 6 năm 1999, trang 5.
[222] Cùng nguồn.
[223] Thư gửi Tổng Giám mục Lyon nhân dịp hành hương đến Paray-le-Monial nhân kỷ niệm 100 năm Ngày thánh hiến loài người cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày 4 tháng 6 năm 1999: L'Osservatore Romano, ngày 12 tháng 6 năm 1999, trang 4.
[224] Hội nghị, “Lặp lại lời cầu nguyện”, ngày 22 tháng 8 năm 1655.
[225] Thư Diserti interpretes (ngày 25 tháng 5 năm 1965), 4: Enchiridion della Vita Consacrata, Bologna-Milano, 2001, số. 3809.
[226] Vita Nuova XIX, 5-6: “Tôi tuyên bố rằng, khi nghĩ đến giá trị của nó, tình yêu ngọt ngào đến nỗi khiến tôi cảm thấy rằng, nếu không mất lòng can đảm, tôi sẽ lên tiếng và khiến mọi người khác phải ngã xuống tình yêu”.
[227] Bản chép tay A, 45v.