Trang

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

Chúa Nhật IV Mùa Vọng


Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B

Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16
"Nước Ðavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa".
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua". Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?"
"Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 16, 25-27
"Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày".
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! - Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Thiên Chúa muốn Ðức Maria cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa muốn tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Ðấng Cứu Thế. Thế nhưng Thiên Chúa không dùng quyền áp đặt. Thiên Chúa ban tự do và tôn trọng sự tự do của con người. Nên giờ đây, Thiên Chúa đã sai Sứ Thần đến hỏi ý kiến Mẹ.
Mẹ Maria có quyền tự do để chọn lựa. Mẹ có thể vâng theo ý Chúa mà cũng có thể chối từ. Thế nhưng Mẹ đã khôn ngoan để hiểu rằng: Chọn theo ý Chúa là con đường duy nhất và bảo đảm đưa đến hạnh phúc đích thực. Hai tiếng: "Xin vâng" trong khiêm nhường và phó thác. Mạ đã được Thiên Chúa cất lên chức vị làm Mẹ Thiên Chúa và ơn cứu độ được ban xuống cho muôn người.
Chúng ta đã dùng quyền tự do của chúng ta như thế nào? Tự do đi đến hạnh phúc hay tự do đi vào khổ ải muôn đời?

Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con. Vì tình yêu thương, Cha đã ban cho nhân loại chúng con món quà thật quý giá, đó là quyền tự do chọn lựa. Quyền tự do là quyền của con người. Mất quyền tư do, con người không khác gì con vật, thế nhưng cũng thật là nguy hiểm cho chúng con, nếu chúng con lạm dụng tự do để đi đến phóng túng. Ađam - Eva đã lạm dụng tự do nên đã kéo cả nhân loại vào con đường bất hạnh. Ðức Giêsu và Mẹ Maria đã biết sử dụng tự do nên đã cứu thoát và đưa con người đến hạnh phúc vĩnh cửu.
Xin Cha giúp chúng con biết khôn ngoan, chính chắn khi phải quyết định và chọn lựa. Ðược sống hay phải chết đó cũng là do chúng con gây nên. Amen.


Suy Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
(2Samuel 7,1-5.8b-11.16; Roma 16,25-27; Luca 1,26-38)
Suy niệm: Mầu Nhiệm Nhập Thể
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Ðất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Ðavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Ðền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Ðền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Ðavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Ðavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Yêsu, con của Maria và Yuse thuộc dòng dõi Ðavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Ðó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Ðức Yêsu là nhân loại thụ thai Ðức Yêsu! Maria hạ sinh Ðức Yêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Ðó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Ðấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Ðức Yêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ðức Yêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Ðức Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Ðức Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh : "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Ðấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Ðức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ðức Yêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Ðức Yêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Ðức Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Ðức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Ðức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Ðất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Ðức Kitô, Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa".

Bài Giảng Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Ðại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Ðavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ðó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Ðavít và một Maria. Ðavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Ðấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Ðavít đã không nghĩ đến mình, Ðức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Ðiều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Ðavít và Ðức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.

Ðức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Ðức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Ðấng công chính xuống. Ðức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Ðức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Ðức Mẹlà lễ Ðức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Ðức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Ðức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Ðức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Ðức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Ðức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Ðức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Ðức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh Ðức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Ðức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Ðức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Ðức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Ðức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Ðức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Ðức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Ðức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Ðức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Ðức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Ðức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Ðức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Ðấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Ðức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Ðức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Ðức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ mùa Vọng.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

18/12/2011 - CHÚA NHẬT TUẦN 4 MV - B
Mt 1,18-24
*******
THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ là Emmanuen, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” (Mt 1,23)
Suy niệm: “Thương nhau, mấy núi cũng trèo, Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.” Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng khi thương nhau, yêu nhau, người ta tìm mọi cách để đi đến, gặp gỡ và ở lại với nhau. Cũng vậy, vì quá yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã đến và ở lại với ta trong mầu nhiệm Nhập Thể làm người. Tình yêu là động lực thúc đẩy Ngài đi con đường dài nhất và cũng không tưởng nhất là con đường từ trời xuống thế, từ Thiên Chúa toàn năng trở thành một hài nhi yếu ớt. Cũng vì yêu thương, Ngài chấp nhận trở thành Emmanuen, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Mời Bạn: Chúa đã đến và ở lại với chúng ta trong bí tích rửa tội khi ta trở thành con cái Chúa và đền thờ nơi Ngài ngự trị. Ngài tiếp tục ở cùng ta qua Lời Ngài, các bí tích, nhất là Thánh Thể. Bạn có cảm thấy sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa nơi bạn không?
Chia sẻ: Có những lúc bạn ước ao giá như đừng biết Chúa vì cảm thấy Thiên Chúa làm phiền bạn quá nhiều! Bạn muốn bỏ trốn khỏi Thiên Chúa, thậm chí muốn mời Người ra khỏi cuộc đời mình. Phải chăng vì sự hiện diện của Người cản trở và đi ngược lại với bản tính tự nhiên của bạn?
Sống Lời Chúa: Hãy cố gắng làm một việc tốt trong ngày để thể hiện lòng khao khát, mong chờ Chúa đến.
Cầu nguyện: Sốt sắng hát bài Để Chúa đến: “Xin cho lòng chúng con, không oán hờn và không ghen ghét. Xin cho lòng chúng con luôn quảng đại và luôn tha thứ. Xin cho lòng chúng con yêu mến người, yêu suốt đời...”
(5 Phút Lời Chúa)
*****************************************
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18 - 12
Chúa Nhật IV Mùa Vọng; 2Sm 7, 1-5 8b-12.14a.16; Rm 16, 25-27; Lc 1, 26-38.
LỜI SUY NIỆM:
          “Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.” (Lc 1, 38).
Thánh sử Luca trình bày câu chuyện Đức Mẹ được sứ thần Gáp-ri-en truyền tin về việc Đức Mẹ mang thai với quyền năng của Thiên Chúa, và đã được mẹ chấp thuận “vì đối với Thiên Chúa không gì là không thể làm được.” (Lc 1,37) Trong đời sống của mọi Ki-tô hữu luôn luôn được Thiên Chúa mời gọi cọng tác với Ngài trong một công việc nào đó, để mang ơn cứu độ cho con người đồng loại, nhưng vì dựa vào sức riêng của mình nhiều khi mình lại tự cho mình là kẻ bất toàn, đầy những tật nguyền xấu xa, rồi từ chối công việc được mời gọi. Qua đoạn Tin Mừng này chúng ta thấy nơi Đức Mẹ, Mẹ cũng hoàn toàn chưa biết công việc sẽ đưa Mẹ đi tới đâu và sẽ ra sao, nhưng Mẹ vẫn khiêm tốn đón nhận. Với niềm tin tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, để rồi Mẹ đã xin vâng. Trong hiện tại của chúng ta, cũng phải biết khiêm tốn xin vâng như Đức Mẹ, để trở nên công cụ trong tay Ngài, và tin vào ân sủng của Ngài. Chúng ta sẽ là những dụng cụ tốt trong tay quyền năng và yêu thương của Ngài.
Mạnh Phương
*****************************************
18 Tháng Mười Hai
Cái Nhìn Của Một Tướng Lãnh
Ðại tướng Marbot, trong tập ký sự, có kể lại một hôm, khi còn là thiếu úy, vua Nã Phá Luân sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Ðó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế của địch quân. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sông và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng dòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó đã báo động bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa tỏa ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng, Nã Phá Luân đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Ðôi mắt phượng hoàng của Nã Phá Luân đã xé tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ vũ khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Một cái nhìn của một vị tướng lãnh đã có sức nâng đỡ người lính chiến giữa trận địa như thế, cũng vậy, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi và nhìn mỗi người chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa không chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn cừu trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Người đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(Lẽ Sống)
*****************************************
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật IV Mùa Vọng, Năm B 
Bài đọc: II Sam 7:1-5, 8-11, 16; Rom 16:25-27; Lk 1:26-38.  
1/ Bài đọc I
1 Khi vua được yên cửa yên nhà và ĐỨC CHÚA đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, 2 thì vua nói với ngôn sứ Na-than: "Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." 3 Ông Na-than thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì ĐỨC CHÚA ở với ngài."4 Nhưng ngay đêm ấy, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Na-than rằng: 5 "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?
8 Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Đa-vít như sau: ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất.
10 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu,
11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. 16 Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."
2/ Bài đọc II:
25 Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa 26 nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. 27 Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.  
3/ Phúc Âm:
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. 30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." 34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! " 35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." 38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa “xây nhà” cho con người.
             Sau khi đã định vị, sửa dọn, và vui mừng đón chờ Đấng Cứu Thế trong ba Chủ Nhật vừa qua, phụng vụ Lời Chúa tuần này đưa chúng ta vào Mầu Nhiệm Cứu Độ ngòai sức tưởng tượng và vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Vì một Thiên Chúa, tuy uy quyền vô biên và sức mạnh khôn tả, đã chọn để xuống ở với con người; không phải trong chiếc lều vải như thời dân Do-Thái lang thang trong sa mạc, nhưng trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria như một Hài Nhi, để được sinh ra và ở với con người.
            Trong Bài đọc I, vì lòng nhiệt thành và biết ơn, Vua David muốn xây “Nhà” cho Thiên Chúa; nhưng Vua không hiểu rằng cả ngôi nhà vũ trụ cũng không chứa nổi Thiên Chúa. Ngược lại, chính Thiên Chúa sẽ xây “Nhà” cho David: cho chính Vua, cho giòng dõi của Vua, cho dân tộc Do-Thái, và cho tất cả mọi dân tộc. Trong Bài đọc II, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa tuy được giấu kín từ ngàn xưa, nhưng được mặc khải tiệm tiến qua các tiên tri; và được mặc khải rõ ràng qua Đức Kitô cho tất cả các dân tộc, không chỉ giới hạn trong dân tộc Do-Thái mà thôi. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca tường thuật chóp đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ được thực hiện qua biến cố Truyền Tin: Đấng Cứu Thế, Người Con Thiên Chúa, muốn nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, để “cắm lều” ở giữa con người. 
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Vua David muốn xây Nhà cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại muốn xây Nhà cho David.            
            1.1/ Vua David muốn xây Nhà cho Thiên Chúa: Trong tất cả các Vua của Do-Thái, không một ai quan trọng và nổi tiếng bằng Vua David. Bàn tay của Thiên Chúa ở với Vua trong mọi sự: chiến thắng tướng Goliath của Philistines (I Sam 17); thắng vượt mưu kế của Philistines (I Sam 27); đưa tất cả các chi tộc về một mối và cai trị họ; chiến thắng thành phố kiên cố Jerusalem (II Sam 5:6-12); kiếm được quà thách thức và kết hôn với Michal, con gái của Saul (I Sam 18:20-29). Không lạ gì mà trình thuật hôm nay kể: “Khi vua được yên cửa yên nhà và Đức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, thì vua nói với ngôn sứ Nathan: "Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải." Ông Nathan thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài."” 
            Thiên Chúa ở trong lều vải kể từ khi Ngài đưa dân Do-Thái ra khỏi đất nô lệ Ai-Cập. Lều vải là phương tiện nhà ở duy nhất của dân du mục, mặc dù không chắc chắn nhưng có thể dọn đi bất cứ chỗ nào. Thiên Chúa ở trong lều vải để luôn hiện diện với dân, để bảo vệ họ trong cuộc hành trình qua sa mạc, và để hướng dẫn họ mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc lữ hành vào Đất Hứa. Giờ đây khi dân Do-Thái đã tiến vào Đất Hứa và ổn định đời sống, Vua muốn xây dựng một ngôi nhà kiên cố cho Thiên Chúa ngự trị.  
            1.2/ Thiên Chúa sẽ xây “Nhà” cho Vua David: Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: "Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? Bây giờ ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là David như sau: Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi.”
            Thiên Chúa hứa sẽ xây nhà cho David, Ngài hứa sẽ làm cho Nhà Vua ba điều sau đây:
            (1) “Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất.” Như đã nói trên, Thánh Vương David là vị Vua nổi tiếng nhất trong lịch sử của Do-Thái.
            (2) “Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu.” Sau khi vào Đất Hứa, dân Do-Thái đã có lãnh thổ hợp pháp để ổn định đời sống.
            (3) “Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa. Đức Chúa báo cho ngươi biết là Đức Chúa lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.” Nhà là giòng dõi của David, sẽ nối nghiệp nhau làm vua cai trị dân tộc Do-Thái, cho đến khi Đấng Cứu Thế từ giòng dõi David ra đời.
            Tất cả là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa dành cho những ai biết kính sợ và vâng theo thánh ý của Ngài. Tuy David không được phép để xây Nhà cho Thiên Chúa, nhưng Solomon, con của Vua, đã xây dựng Đền Thờ tại Jerusalem đầu tiên cho Thiên Chúa ngự trị.
2/ Bài đọc II: Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa được mặc khải cho con người.
            Thiên Chúa đã có Kế Họach Cứu Độ cho con người ngay từ đầu, vì Ngài biết con người sẽ sa ngã vì không biết xử dụng tự do Thiên Chúa ban. Theo Kế Họach này, Thiên Chúa sẽ xử dụng và huấn luyện một Dân Riêng, đó là dân Do-Thái. Từ dân tộc Do-Thái và giòng tộc của David, Ngài sẽ cho Đấng Cứu Thế ra đời để chuộc tội cho con người. Khi Đấng Cứu Thế hòan tất Kế Họach Cứu Độ, tất cả mọi người trên khắp thế giới và ở mọi thời sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
            Mầu Nhiệm Cứu Độ vốn được giữ kín tự ngàn xưa: Tuy Kế Họach Cứu Độ đã được phác họa ngay từ đầu; nhưng không ai biết được Kế Họach đó nếu Thiên Chúa không mặc khải tiệm tiến qua các tiên tri, và mặc khải rõ ràng qua chính Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói với các tín hữu Roma: “Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ qua lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. Amen.”
            Chính người Do-Thái, mặc dù là Dân Riêng của Thiên Chúa, cũng không thấu hiểu Mầu Nhiệm này. Nhiều người Do-Thái vẫn nghĩ chỉ có họ mới xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; tất cả Dân Ngọai sẽ phải chịu cảnh hư mất. Nhiều người vẫn không tin Đức Kitô là Đấng Cứu Thế và họ vẫn đang chờ đợi một Đấng khác. Nhưng sau khi Đức Kitô hòan tất sứ vụ trần gian của Ngài, biết bao nhiêu Dân Ngọai được nghe rao giảng Tin Mừng. Nếu họ tin và vâng phục Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã phác họa cho họ ngay từ thuở ban đầu. Đó là Tin Mừng mà Thánh Phaolô muốn loan truyền cho các tín hữu của ngài: “Nhưng nay, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô.”
3/ Phúc Âm: Thiên thần truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.
            3.1/ Cuộc gặp gỡ giữa trời và đất: Tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra; và bắt đầu cuộc đời của Đấng Cứu Thế trên dương gian là biến cố Truyền Tin hôm nay. Không ai có thể ngờ một Thiên Chúa, Đấng dựng nên và có quyền trên muôn lòai, lại đến với một tạo vật của mình; để xin cho Người Con được vào cung lòng của Trinh Nữ và sinh ra làm người. Thánh-sử Luca tường thuật biến cố Truyền Tin như sau: “ Khi Bà Elizabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” 
            3.2/ Mầu Nhiệm Cứu Độ được mặc khải: Sứ-thần Gabriel nói về con trẻ sẽ được sinh ra như sau: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Đây chính là lời hứa thứ ba mà Tiên-tri Nathan đã loan báo cho Vua David trong Bài đọc I. Chỉ có một điều kỳ lạ không ai ngờ tới về đứa trẻ sinh ra, tuy là Con của Đấng Tối Cao nhưng lại thuộc giòng dõi David qua người cha nuôi, Thánh Giuse.
            3.3/ Phản ứng của Đức Trinh Nữ Maria: Vì đã khấn giữ mình đồng trinh, Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Điều Maria muốn giữ mình đồng trinh là điều đẹp lòng Thiên Chúa, vì Ngài muốn Con của Ngài nhập thể trong một cung lòng thanh sạch và tinh tuyền như thế. Hơn nữa, lời tiên tri của Isaiah cũng đã báo trước về người Trinh-nữ này (parthenos, Isa 7:14).
            Đức Trinh Nữ, cũng giống như nhiều người chúng ta, thắc mắc theo sự hiểu biết của con người: Làm sao thụ thai và sinh con mà còn đồng trinh? Chúng ta quên đi cách của Thiên Chúa: có thể giữ mình đồng trinh mà vẫn sinh con. Sứ thần cắt nghĩa cách của Thiên Chúa: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Sứ thần đưa một bằng chứng cụ thể: “Kìa bà Elizabeth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Sau khi đã lắng nghe lời cắt nghĩa của Sứ-thần, Đức Trinh Nữ Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:  
            - Vì yêu thương Thiên Chúa luôn muốn ở với để dạy dỗ, an ủi, hướng dẫn, và ban muôn ơn lành cho con người. Để luôn có Ngài trong cuộc sống, chúng ta cần chuẩn bị một chỗ ở xứng đáng cho Thiên Chúa, không phải chỉ trong những Đền Thờ vững chắc và to lớn, nhưng trong căn lều vải là chính con người yếu đuối của chúng ta.
            - Mầu Nhiệm Cứu Độ được Thiên Chúa chuẩn bị và bắt đầu từ dân tộc Do-Thái; nhưng Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong dân tộc này. Thiên Chúa muốn chúng ta rao giảng Tin Mừng và mang Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa tới cho muôn người.
            - Chúng ta có thể có ý định và kế họach cho cuộc sống; nhưng một khi Thiên Chúa muốn chúng ta thay đổi kế họach và làm theo thánh ý Ngài, chúng ta phải biết khiêm nhường lắng nghe và thi hành ý định của Thiên Chúa như Vua David và Đức Trinh Nữ Maria.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét