Thứ Năm sau Chúa Nhật 3 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 19-25
"Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của
chúng ta, và hãy thúc giục nhau thực thi bác ái".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, nhờ máu Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng bước
vào cung thánh. Ðó là con đường mới và sống động mà Người đã mở cho chúng ta,
xuyên qua tấm màn là thân xác Người; và ban cho chúng ta có một thượng tế cai
quản nhà Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến đến với lòng chân thành, đầy đức tin,
lòng được trong sạch khỏi lương tâm gian ác, và thân xác được tắm gội bằng nước
trong sạch. Chúng ta hãy kiên trì tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta, vì Ðấng
đã hứa là Ðấng trung tín. Chúng ta hãy thúc giục nhau thực thi bác ái và làm việc
thiện. Ðừng trốn tránh những buổi hội chung như ít người có thói quen, nhưng
anh em hãy khích lệ nhau, nhất là khi thấy ngày đó gần đến.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6.
Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người
tìm kiếm Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn
nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển
cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong
nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng
xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên
Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người
tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 7, 18-19. 24-29
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, tôi là ai và gia đình tôi
là chi?"
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Sau khi Nathan nói với Ðavít xong, vua Ðavít đến ngồi trước
Thiên Chúa mà nói rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, con là ai và gia đình con
là chi mà Chúa dẫn con đến đây? Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa, như thế Chúa còn
cho là ít, nên Chúa còn nói đến nhà tôi tớ Chúa trong tương lai lâu dài, vì lạy
Chúa, đó là thường tình của loài người.
"Chúa đã thiết lập dân Israel làm dân Chúa đến muôn
đời, và lạy Chúa, chính Chúa trở thành Thiên Chúa của họ. Vậy giờ đây, lạy Chúa
là Thiên Chúa, xin hãy thực hiện mãi mãi lời Chúa đã nói về tôi tớ và về nhà của
nó, và hãy làm như Chúa đã phán, để danh Chúa được ca khen đến muôn đời, và được
truyền tụng rằng: 'Chúa các đạo binh là Thiên Chúa của Israel'. Xin cho nhà tôi
tớ Chúa được vững chắc trước nhan thánh Chúa. Lạy Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
của Israel, vì Chúa đã mạc khải cho tôi tớ Chúa biết những lời này: 'Ta sẽ xây
dựng cho ngươi một ngôi nhà', vì thế, tôi tớ Chúa vững tâm thốt lên lời khẩn
nguyện trên đây. Vậy giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, và lời Chúa thì chân thật,
vì Chúa đã tỏ ra cho tôi tớ Chúa những điều hạnh phúc ấy. Giờ đây, xin hãy khởi
sự chúc phúc cho nhà tôi tớ Chúa, để nhà tôi tớ Chúa tồn tại trước mặt Chúa đến
muôn đời, vì lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa đã phán và xin giáng phúc cho nhà tôi
tớ Chúa đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 131, 1-2. 3-5. 11. 12. 13-14
Ðáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người (Lc 1, 32a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, để thương Ðavít, xin Chúa nhớ đến mọi
nỗi ưu tư của người: người đã thề như thế nào với Chúa, người đã khấn hứa cùng
Ðấng toàn năng nhà Giacóp rằng: - Ðáp.
2) "Tôi sẽ không vào lều trại nhà tôi, tôi sẽ không
bước lên giường nằm, tôi sẽ không nhắm mắt ngủ, không để cho mi mắt tôi được
nghỉ an, cho tới khi tôi gặp được nơi ngự điện cho Chúa, gặp được cung lâu cho
Ðấng Toàn năng nhà Giacóp". - Ðáp.
3) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà
Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người
con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.
4) "Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta và những
luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi
cai trị trên ngai báu của ngươi". - Ðáp.
5) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm
nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời,
Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.
* * *
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước
của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 21-25
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong
đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng
hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có
gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh
sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe". Và Người bảo họ rằng: "Hãy
coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ
đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được
cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
"Ðèn
đốt lên là để đặt trên giá đèn."
Những dụ
ngôn của Chúa Giêsu là một con đường dẫn đưa tới chân lý. Nhưng với điều kiện
phải biết nghe, hiểu và đón nhận. Chính Chúa Giêsu là ánh sáng thật, ánh sáng ấy
được thắp lên để soi chiếu cho mọi người. Vì thế ai nghe và đón nhận ánh sáng
thì sẽ được hạnh phúc muôn đời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa là ánh sáng thật, Chúa đã đến thế gian để diệt trừ tối tăm, tội lỗi
đang bao trùm chúng con. Nhưng chúng con vẫn chưa thực sự tin vào Thiên Chúa,
chưa tiếp nhận ánh sáng của Ngài. Xin mở cặp mắt đui mù, mở đôi tai bướng bỉnh
và mở tấm lòng chai cứng của chúng con ra, để chúng con biết nhìn, biết nghe,
biết khát khao đón nhận ánh sáng đích thực của Chúa. Amen.
Suy Niệm:
Ðong đấu
nào
Thi hào
Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ
đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng
làng, ngồi đó và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố
thí cho tôi".
Từ xa, khi
thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng
lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất
liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt
thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến
nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương
sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua
cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì
Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa".
Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người
anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi,
đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều
xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời
Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan
với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm
cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối
xử với người khác.
2 Tm 1, 1-8
1Tôi là Phao-lô, Tông Đồ của
Đức Ki-tô Giê-su, do ý muốn của Thiên Chúa, chiếu theo lời Thiên Chúa hứa ban sự
sống vốn có trong Đức Ki-tô Giê-su,2 gửi anh Ti-mô-thê, người
con yêu dấu. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban
cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.
3 Tôi tạ ơn Thiên
Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ tiên; tôi tạ ơn
Người khi tôi không ngừng nhắc nhở đến anh, trong các lời cầu nguyện của tôi,
đêm cũng như ngày.4 Nhớ đến những giọt nước mắt của anh, tôi ước
ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui.5 Tôi hồi tưởng lại
lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi
bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.
6 Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh.7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
6 Vì lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh.7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
Suy niệm:
Khi xa nhau, nhớ nhau, người ta thường viết thư cho nhau.
Ngày xưa phải mất nhiều thời gian một lá thư mới đến tay người nhận.
Nhưng nhận được lá thư từ xa thì thật là hạnh phúc.
Có lẽ thánh Phaolô đã viết thư này cho anh Timôthê
khi ngài đang ngồi tù tại Rôma, vào những năm cuối đời.
Ngài viết trong thư như sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế,
đã đến giờ tôi phải ra đi” (2 Tm 4, 6).
Ngài còn viết: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ,
tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2 Tm 2, 9).
Nếu đúng thế, thì lá thư này là một thứ di chúc để lại cho Timôthê,
người môn đệ, bạn đồng hành mà ngài gọi là người con yêu dấu (c. 2).
Ngày xưa phải mất nhiều thời gian một lá thư mới đến tay người nhận.
Nhưng nhận được lá thư từ xa thì thật là hạnh phúc.
Có lẽ thánh Phaolô đã viết thư này cho anh Timôthê
khi ngài đang ngồi tù tại Rôma, vào những năm cuối đời.
Ngài viết trong thư như sau: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế,
đã đến giờ tôi phải ra đi” (2 Tm 4, 6).
Ngài còn viết: “Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ,
tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2 Tm 2, 9).
Nếu đúng thế, thì lá thư này là một thứ di chúc để lại cho Timôthê,
người môn đệ, bạn đồng hành mà ngài gọi là người con yêu dấu (c. 2).
Đọc những câu đầu của lá thư,
chúng ta thấy tình cảm gắn bó của Phaolô đối với Timôthê,
người mà ngày đêm ngài luôn nhớ đến trong lời cầu nguyện (c. 3).
Phaolô cũng nhớ những giọt nước mắt lúc chia tay của Timôthê (c. 4),
lúc anh vâng lời ở lại Êphêsô, còn Phaolô tiếp tục hành trình (1 Tm 1, 3).
Phaolô vẫn không quên truyền thống đức tin nơi gia đình của anh.
Đức tin được thông chuyển đến Timôthê qua mẹ và bà ngoại.
Tên của hai phụ nữ này Phaolô còn giữ trong ký ức (c. 5).
Xem ra chưa phai mờ bao kỷ niệm thời Timôthê đi chung với Phaolô
trong những cuộc hành trình truyền giáo (Cv 16, 1-4; 19, 22).
Chia sẻ bao buồn vui, nhọc nhằn và nguy hiểm, trên đất liền và biển cả,
Phaolô và Timôthê trở thành những người bạn thân thiết cho sứ mạng.
chúng ta thấy tình cảm gắn bó của Phaolô đối với Timôthê,
người mà ngày đêm ngài luôn nhớ đến trong lời cầu nguyện (c. 3).
Phaolô cũng nhớ những giọt nước mắt lúc chia tay của Timôthê (c. 4),
lúc anh vâng lời ở lại Êphêsô, còn Phaolô tiếp tục hành trình (1 Tm 1, 3).
Phaolô vẫn không quên truyền thống đức tin nơi gia đình của anh.
Đức tin được thông chuyển đến Timôthê qua mẹ và bà ngoại.
Tên của hai phụ nữ này Phaolô còn giữ trong ký ức (c. 5).
Xem ra chưa phai mờ bao kỷ niệm thời Timôthê đi chung với Phaolô
trong những cuộc hành trình truyền giáo (Cv 16, 1-4; 19, 22).
Chia sẻ bao buồn vui, nhọc nhằn và nguy hiểm, trên đất liền và biển cả,
Phaolô và Timôthê trở thành những người bạn thân thiết cho sứ mạng.
Khi viết thư cho Timôthê trong vai trò một người giám quản,
phụ trách cộng đoàn Kitô hữu ở Êphêsô,
Phaolô muốn nâng đỡ Timôthê trong lúc anh đang gặp khó khăn.
Có vẻ anh muốn chùn bước trước những người dạy giáo lý sai lạc.
Phaolô đụng ngay vào tính nhút nhát của anh khi nhắc nhở:
“Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một tinh thần nhút nhát,
nhưng một tinh thần mạnh mẽ, yêu thương và tự chủ” (c. 7).
Timôthê cần vượt lên trên sự xấu hổ để làm chứng cho Chúa,
dám chia sẻ sự gian khó để loan báo Tin Mừng (c. 8).
phụ trách cộng đoàn Kitô hữu ở Êphêsô,
Phaolô muốn nâng đỡ Timôthê trong lúc anh đang gặp khó khăn.
Có vẻ anh muốn chùn bước trước những người dạy giáo lý sai lạc.
Phaolô đụng ngay vào tính nhút nhát của anh khi nhắc nhở:
“Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một tinh thần nhút nhát,
nhưng một tinh thần mạnh mẽ, yêu thương và tự chủ” (c. 7).
Timôthê cần vượt lên trên sự xấu hổ để làm chứng cho Chúa,
dám chia sẻ sự gian khó để loan báo Tin Mừng (c. 8).
Có một ngọn lửa nào cần khơi dậy nơi Timôthê.
Đối với Phaolô ngọn lửa ấy chính là đặc sủng của Thiên Chúa,
đặc sủng mà Timôthê nhận được khi Phaolô đặt tay trên anh (c. 6),
khi hàng kỳ mục ở Êphêsô đặt tay trên anh (1 Tm 4,14).
Timôthê đã được thụ phong rồi, ngọn lửa đã bừng sáng.
Không thể để khó khăn, nguy hiểm nào làm nó tắt được.
Đối với Phaolô ngọn lửa ấy chính là đặc sủng của Thiên Chúa,
đặc sủng mà Timôthê nhận được khi Phaolô đặt tay trên anh (c. 6),
khi hàng kỳ mục ở Êphêsô đặt tay trên anh (1 Tm 4,14).
Timôthê đã được thụ phong rồi, ngọn lửa đã bừng sáng.
Không thể để khó khăn, nguy hiểm nào làm nó tắt được.
Mừng lễ hai thánh Timôthê và Titô, hai phụ tá của thánh
Phaolô,
chúng ta cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội trên thế giới.
Khi “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” (c. 8),
chúng ta sẽ ra khỏi sự nhút nhát và xấu hổ, sợ hãi và lo âu của mình,
để làm chứng cho Chúa trong một thế giới đầy rối ren và phức tạp.
chúng ta cầu nguyện cho các vị lãnh đạo Giáo Hội trên thế giới.
Khi “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” (c. 8),
chúng ta sẽ ra khỏi sự nhút nhát và xấu hổ, sợ hãi và lo âu của mình,
để làm chứng cho Chúa trong một thế giới đầy rối ren và phức tạp.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
26/01/2012
THỨ NĂM TUẦN 3 TN
Th. Timôthêô và Titô, giám mục
Lc 10,1-9
*****
NƯỚC
CHÚA Ở ĐÂU? CÁCH NÀO?
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” (Lc 10,9)
Suy niệm: Khi sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu
căn dặn các ông hãy loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.” Nước ấy
“đã đến gần” thì phải đi tìm nước ấy ở đâu và như thế nào? Tin Mừng hôm nay trả
lời cho chúng ta câu hỏi ấy: 1/ Nước Thiên Chúa đã và đang đến trong lời rao giảng
của các môn đệ, khi các môn đệ vào từng “thành” từng “nhà” với lời chúc bình
an. 2/ Tìm Nước Thiên Chúa bằng cách đón nhận những sứ giả Tin Mừng cùng với lời
loan báo bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ
ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.”
Mời Bạn: Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, bạn không còn có thể sống
trong một giáo xứ “toàn tòng.” Có khi nhà bạn đang đơn độc giữa bao nóc nhà
không cùng tôn giáo, quan điểm với bạn. Dù vẫn biết rằng việc loan báo là rất
khó khăn, vì sẽ có những “nhà” từ khước lời rao giảng, nhưng nói thực, bạn đã bắt
đầu rao giảng chưa? Và bạn đã làm gì để rao giảng? Bạn nhớ Nước Thiên Chúa bắt
đầu hiện diện khi bạn trở thành dấu chỉ của sự bình an, và bạn thực sự rao giảng
Nước Thiên Chúa mỗi khi vào nhà nào mà bạn đem “bình an đến cho nhà này!”
Sống Lời Chúa: Kinh nghiệm cho biết kinh nguyện+Lời Chúa sớm hôm tại
gia sẽ cung cấp sức mạnh cho việc sống đức tin và loan Tin Mừng trong mọi hoàn
cảnh. Mời bạn thực hiện điều đó trong gia đình, cộng đoàn của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biến đổi chúng con thành khí cụ bình an
của Chúa để đem Tin Mừng đến với mọi người chúng con gặp gỡ.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Timôthêô và Thánh Titô, Giám mục; 1Tm 1, 1-8; Tin Mừng
theo Thánh Lc 10, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Người bảo các ông: ‘Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt
lúa về.’” (Lc 10,2).
Cánh đồng truyền giáo rộng lớn biết bao, đang cần rất nhiều tông đồ chuyên nghiệp
để đáp ứng nhu cầu này. Nhưng đây không thể tự sức của con người trong giáo hội
có thể đáp ứng được, nhưng phải do ân sủng của Thiên Chúa tuyển chọn và ban ơn
gọi. Chỉ có những con người được Thiên Chúa chọn và sai đi mới thật là những
con người làm việc vì Nước Trời. Còn mọi giải pháp theo cách của con người đều
làm hỏng công việc của Ngài vì chính trong mỗi con người đều có một sự tự do
suy nghĩ cũng như sự chon lựa theo cách riêng của mình, theo cách của con người
thì đều không được hoàn hảo và bền lâu. (Vì mỏng dòn và yếu kém). Chính vì vậy
Chúa Giêsu đã bảo chúng ta cầu xin Thiên Chúa sai thợ chuyên nghiệp đến; chúng
ta trong lúc cầu xin thì cũng biết sẳn sàng dâng hiến mình, biết sẳn sàng hy
sinh, để khi có tiếng gọi và sai đi của Ngài thì chúng ta đáp ứng ngay, để được
huấn luyện và đào tạo trở thành những thợ chuyên nghiệp cho Nước Trời. Đặc biệt
chúng ta phải biết nuôi dưỡng ơn gọi nơi chính mình bằng ân sủng của Chúa, để
truyền sang cho thế hệ mai sau.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-01
Thánh TIMÔTÊÔ Và TITÔ GIÁM MỤC
Thánh TIMÔTÊÔ (thế kỷ I)
Là con của người cha Hilạp và người mẹ Do thái,
thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi thánh Phaolô giảng đạo tại Lystra
miền tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến thánh Phaolô bị mém đá đến gần chết
(Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai vào năm 50 thánh Phaolô đã chọn
Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô (Cv 13,13.15,38) và cùng với
Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (Cv 16,1).
Như thế, Timotêô đã chứng kiến việc rao giảng
Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó Ngài thường được sách Công vụ các sứ đồ và
các thánh thư nhắc đến như một trong các "tông đồ" hay thừa phái
thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn Kitô hữu đã được thiết lập.
Khoảng năm 51 Ngài cũng ký tên với thánh Phaolô trong các thư gửi tín hữu
Thessalonica và chính Ngài đã từ Côrintô mang thư đến cho cộng đoàn mới trở lại
đạo.
Năm 57 Ngài trở lại để mang thư thứ hai gửi các
tín hữu Côrintô và năm sau, Ngài lại cùng với thánh Phaolô gửi thư chào Giáo hội
Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma, Timoteo vẫn còn ở bên cạnh Ngài, ký
tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62 cho dân Philêmon, dân Côlosê và
Philippe (Ph 2,20)
Năm 65 hình như Phaolô được thả và có dịp thi hành
dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới tây phương. Vắng mặt ở miền Đông. Thánh
Phaolô vãn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu không lên kết với một cộng
đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước hẹn với Á Châu và đặt địa điểm
ở Ephesô. Ở đây Ngài nhận được hai lá thư của Phaolô, một lá thư từ Macêdonia
khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng hai nămsau gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị
giam lần thứ hai.
Chính nhờ những lá thư này mà chúng ta biết được
nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm mà các Giáo hội ở Á châu phải
đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính khí mà con người Phaolô đã để
lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính nhút nhát, e dè, nhưng Ngài cũng
đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được nhắc nhở phải quan tâm tới sức
khỏe của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm
3,12) và những lời khuyên thánh Phaolô lặp lại không được gợi lên, bởi rằng
Timotêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày cùng của mình đã gần, và rồi
những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy gánh nặng một mình. Cuối cùng
Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình là Timotêô hãy giữ "đạo
lý", đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng, mến yêu, kiên nhẫn" (Tm
3,10) như Ngài đã học được. Phaolô gọi Timotêô đến an ủi mình trong những giờ
phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng Timotêô là con rất thân yêu của
thánh Phaolô.
Tân ước còn có một ghi chú nữa về Timotêô trong
thư Philip.13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô được thả ra khỏi cảnh tù tội
lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timotêô tháp tùng về Giêrusalem.
Một truyền thống cho rằng thánh Timotêô đã ở lại
Ephêsô cho tới hết đời. Sách "Công vụ thánh Timotêô" thế kỷ IV mô tả
cái chết của Ngài như là bị ném đá và bị đánh đập cho đến chết, nhưng tài liệu
quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng nguồn hay không.
Thánh TITÔ (thế kỷ I)
Sinh ra là lương dân, thánh Titô đã được thánh
Phaolô cải hóa và được gọi là "người con chân thành của tôi trong sự thông
hiệp với đức tin". Titô nhận được những sứ mệnh khó khăn. Ngài được thánh
tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn và thu tiền quyên cúng ủng hộ
Giáo hội ở Gierusalem.
Thánh Phaolô trong một bức thư đã bộc lộ lòng
yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: "Tâm trí tôi không thảnh
thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để sửa chữa những bất
hoà và thánh Titô đã mang lại cho Ngài những tin tức tốt đẹp hơn.
Thánh Titô lãnh trách nhiệm tổ chức giáo đoàn ở
đảo Crêta. Ơ đó Ngài nhận thư mang danh mình, thánh tông đồ truyền: "Hãy
nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm đạm, lành mạnh về đức tin,
đức mến và kiên nhẫn... hạng thiếu niên cũng vậy, hãy truyền dạy họ phải biết ở
điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương mẫu về đức hạnh, tinh toàn và
đoan trang trong giáo huấn (Tt 2,2-10).
Thánh Titô qua đời khoảng năm 105.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++
26 Tháng Giêng
Quốc Khánh Của Australia
Hôm nay 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người
Australia .
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên
được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người.
730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này
nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày
các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng
tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia
này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính
hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai
sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những
nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng
của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australiacó thể
giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng
ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi
càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng
cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can
thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa
ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và
Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng
ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtêmang hai dòng
máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư
thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn
minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh
Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy
sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ
thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của
Ngài cho mọi tạo vật.
Oân lại cuộc đời của ba
vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa.
Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu
rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban
cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ
những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm, Tuần III TN2
Bài đọc: Heb 10:19-25; 2 Sam
7:18-19, 24-29; Mk 4:21-25.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
19 Vậy,
thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung
thánh. 20 Người đã mở cho chúng ta một con đường
mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người.
21 Chúng
ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa.
22 Vì
thế, chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức
tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn
ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền.
23 Chúng
ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã
hứa là Đấng trung tín. 24Chúng
ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương
và làm những việc tốt. 25 Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như
vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy
Ngày Chúa đến đã gần.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
18 Vua
Đa-vít vào ngồi chầu trước nhan Đức Chúa và thưa: "Lạy Đức Chúa là Chúa
Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này?
19 Nhưng
lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của
tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con người, lạy
Đức Chúa là Chúa Thượng?
24 Ngài
đã lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy Đức
Chúa, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng.
25 Giờ
đây, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó,
xin Ngài giữ mãi mãi, và xin hành động như Ngài đã phán.
26 Danh
Ngài sẽ vĩ đại mãi mãi và người ta sẽ nói: "Đức Chúa các đạo binh là Thiên
Chúa thống trị Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít sẽ vững bền trước nhan
Ngài.
27 Thật
vậy, lạy Đức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải
cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm
dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy.
28 Giờ
đây, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán
là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy.
29 Vậy
giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại
mãi trước nhan Ngài. Bởi vì, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán,
và nhờ Ngài giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi."
3/ Phúc Âm:
21 Người
nói với các ông: "Chẳng lẽ đèn được mang tới để bị đặt dưới cái thùng hay
dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để được đặt trên trụ đèn sao?
22 Vì
chẳng có gì che giấu mà không phải là để được tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà
không phải là để đưa ra ánh sáng.
23 Ai
có tai nghe thì nghe! "
24 Người
nói với các ông: "Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì
Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa.
25 Vì
ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy
mất."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúa Giêsu là trung gian giữa Thiên Chúa và
con người.
Làm sao con người có thể tiến
gần tới Thiên Chúa? Phải chăng bằng kiến thức bí mật? Phải chăng bằng máu chiên
bò? Phải chăng qua Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa?
Các Bài Đọc hôm nay xoay
quanh Chúa Giêsu, Người là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc
I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái so sánh Bức Màn trong Đền Thờ, ngăn cản giữa con
người với Thiên Chúa, với Bức Màn mới, là chính thân thể của Đức Kitô. Ngài đã
xé tan bức màn trong Đền Thờ để con người có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa ở
mọi nơi và mọi thời. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, lời hứa của Thiên Chúa sẽ xây dựng
một dòng dõi tồn tại muôn đời cho vua David được thực hiện khi Chúa Giêsu xuống
trần. Ngài sinh ra trong dòng dõi David và Ngài sẽ làm vua cai trị dân Chúa đến
muôn đời. Trong Phúc Âm, Thánh Marcô dẫn chứng một số những câu nói của Chúa
Giêsu về ánh sáng, về sự thật, về sự liên hệ giữa việc cho đi và nhận lại, và về
sự cần thiết phải luôn cố gắng trau dồi thêm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu đã mở toang bức màn ngăn cản giữa con người
và Thiên Chúa.
1.1/ Bức màn ngăn cản
giữa Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ: Để hiểu ý tác-giả, chúng ta cần
phải trở về với cấu trúc trong Đền Thờ của Cựu-Ước. Để phân biệt Nơi Thánh và
Nơi Cực Thánh, một “bức màn” che kín từ trên xuống dưới được dựng nên, để ngăn
cách con người khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ có thầy Thượng Tế mới được
vượt qua bức màn này để dâng của lễ đền tội mỗi năm một lần mà thôi.
Khi Chúa Giêsu trút hơi thở
trên Thánh Giá, các tác giả của Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện “bức
màn này trong Đền Thờ bị xé ra làm đôi từ trên xuống dưới” (Mt 27:51, Mk 15:38,
Lk. 23:45).
1.2/ Ý nghĩa của biến cố
này: Tác giả Thư Do-thái chú giải: “Vậy, thưa anh em, nhờ máu Đức Giêsu đã đổ
ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. Người đã mở cho chúng ta một
con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người.”
Nhờ Chúa Giêsu, từ nay con
người có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa và bất cứ lúc nào; chứ không phải đợi
cho đến Ngày Xá Tội (Yom Kippur) xảy ra mội năm một lần, khi thầy Thượng Tế vào
cung thánh để dâng lễ đền tội cho mình và cho dân chúng.
Nhờ Chúa Giêsu, con người
thấu hiểu tình thương Thiên Chúa đã lấy chính máu mình để rửa sạch mọi tội của
nhân loại; để rồi con người cũng biết hiệp thông với Thiên Chúa, hy sinh đời
mình cho tha nhân.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Nhà của tôi tớ Ngài là David sẽ vững bền trước nhan
Ngài.
2.1/ David suy nghĩ về những
lời hứa của Thiên Chúa: Trình thuật kể: "Vua David vào ngồi chầu trước
nhan Đức Chúa và thưa: "Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của
con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy Đức Chúa là Chúa Thượng,
Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai
lâu dài. Phải chăng đó là định mệnh (luật
chung, bản dịch NPVGK) cho con người, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng?"
Bản dịch của RSV không đúng
với bản LXT và MT, họ dịch: "Ngài đã hứa hẹn cho nhà tôi tớ Ngài một tương
lai huy hoàng sắp tới, và đã cho con nhìn thấy các thế hệ tương lai." (Thou hast spoken also
of thy servant's house for a great while to come, and hast shown me future
generations).
Điều vua David đang suy nghĩ ở đây là con người
được Thiên Chúa hứa ban cho một tương lai lâu dài mãi mãi; chứ không phải chỉ
chấm dứt sau khi chết. Truyền thống Do-thái không có quan niệm rõ ràng về cuộc
sống đời sau và muôn đời (7:16) như chúng ta có bây giờ. Họ hiểu hạnh phúc của
những người được Thiên Chúa chúc phúc là cuộc sống lâu dài đời này; nhưng một
khi đã chết là hết.
2.2/ David cầu xin cho những lời hứa của Thiên
Chúa được ứng nghiệm: Nội dung của đoạn văn 24-29 chứng minh những gì chúng ta
phân tích bên trên. Chữ "mãi mãi" được tác giả lặp lại 5 lần trong
các câu 24, 25, 26, và 29. Ngay cả nội dung của câu 27 và 28 cũng hàm chứa lời
hứa "mãi mãi" của Thiên Chúa.
24 Ngài đã lập Israel, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi
mãi; còn Ngài, lạy Đức Chúa, Ngài đã trở thành Thiên Chúa của
chúng. 25 Giờ đây, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, lời
Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi
mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. 26 Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi
mãi và người ta sẽ
nói: "Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa thống trị Israel . Nhà của
tôi tớ Ngài là David sẽ vững bền trước nhan Ngài. 27 Thật vậy, lạy Đức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa của Israel, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây
cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy.
28 Giờ đây, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên
Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt
đẹp ấy. 29 Vậy giờ đây, cúi xin Ngài giáng phúc
cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tạimãi mãi trước
nhan Ngài. Bởi vì, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài
giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi
mãi."
Lời hứa này bị đe dọa trầm trọng khi các vua của
Israel và Judah bị triệt hạ và phải lưu đày sang Assyria
và Babylon , vì
đã bất tuân lời Thiên Chúa phán qua miệng các ngôn sứ. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn
trung thành với lời hứa, và cho dân Israel hồi hương để xây dựng lại
quê hương và Đền Thờ; cho đến ngày Đức Kitô nhập thể làm người.
3/ Phúc Âm: Những
thực tại trần gian và trên trời.
Trong Tin Mừng hôm nay, Marcô tường thuật một
lúc những câu dạy dỗ của Chúa Giêsu ở nhiều biến cố khác nhau. Một người có thể
nhận ra điều này khi đối chiếu với Tin Mừng của Matthew. Vì thế, chúng ta sẽ
phân tích từng câu một; vì mỗi câu tự nó đã đầy đủ ý nghĩa; sau đó chúng ta sẽ
tìm xem nếu các câu có liên hệ với nhau.
3.1/ Mục đích của đèn là để soi sáng: Chúa Giêsu
nói: "Chẳng lẽ đèn được mang tới để bị đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường?
Nào chẳng phải là để được đặt trên trụ đèn sao?” Ai ai cũng đều hiểu công dụng
của đèn là để soi sáng cho mọi người; vì thế, cần phải đặt trên trụ cao để soi
sáng một diện tích lớn chung quanh. Đèn để dưới sàn chỉ có thể soi sáng một diện
tích nhỏ. Lấy thùng úp vào đèn hay đặt dưới gầm giường là làm mất công dụng của
đèn.
Sự Thật được ví như đèn; mục đích của sự thật là
để hướng dẫn đời sống con người. Vì thế, con người cần phải học, nói, và sống
theo sự thật. Con người không được che đậy hay ẩn giấu sự thật, cho dẫu “sự thật
mất lòng.” Sống theo sự thật có thể làm một người bị chê bai, ghét bỏ, thiệt hại,
ngay cả mất mạng sống; nhưng chỉ có sự thật mới thực sự giải thóat con người.
Các thánh tử đạo là những ví dụ của những người dám sống theo sự thật.
3.2/ Sự Thật không thể bị che giấu: “Vì chẳng có
gì che giấu mà không phải tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà không phải đưa ra ánh
sáng. Ai có tai nghe thì nghe!" Con người có thể làm ngơ, từ chối, đàn áp,
hay tiêu diệt sự thật; nhưng sau cùng, họ cũng phải đương đầu với sự thật:
không ở đời này cũng ở đời sau. Ví dụ: Giáo Hội, trong quá khứ, đã từ chối
không chấp nhận nguyên lý “trái đất xoay chung quanh mặt trời” của Copernicus
và Galileo (thế kỷ 16 và 17); nhưng sau cùng Giáo Hội cũng phải chấp nhận sự kiện
khoa học này. Vì thế, con người phải rất cẩn thận khi sống ngược với sự thật,
vì phải lãnh mọi hậu quả của nó. Sức mạnh có thể làm cho người ta sợ; nhưng
không thể nào bưng bít sự thật. Hơn nữa, cho dẫu con người có thể giấu sự thật
khỏi tất cả mọi người, nhưng họ không thể giấu khỏi Thiên Chúa, Đấng nhìn xem
và thấu suốt mọi bí ẩn trong lòng.
3.3/ Cho đi bao nhiêu sẽ nhận lại bấy nhiêu:
Chúa Giêsu dạy: "Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy
cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa.” Điều này phải trở thành nguyên tắc làm
việc cho con người: hậu quả hay phần thưởng có được tùy thuộc vào cố gắng hay nỗ
lực một người bỏ ra. Nếu một người chuẩn bị và cố gắng nhiều, họ sẽ thu thập
nhiều; và nếu một người chuẩn bị và cố gắng ít, họ sẽ thu thập ít.
Ví dụ, trong lãnh vực học hỏi, nếu một người chịu
bỏ thời gian nghiên cứu học hỏi, người đó sẽ càng ngày càng có kiến thức rộng
rãi về lãnh vực chuyên môn người đó theo đuổi. Tương tự trong lãnh vực thờ phượng,
nếu một giáo dân chịu khó chuẩn bị đọc các bài đọc ngay từ lúc còn ở nhà, họ sẽ
dễ dàng hiểu và thâu thập được nhiều hơn khi vị linh mục chia sẻ Tin Mừng. Điều
này càng đúng trong lãnh vực phục vụ, nếu vị chủ chiên chịu bỏ thời giờ để dạy
dỗ và huấn luyện đoàn chiên, giáo dân sẽ hiểu biết và hăng say tích cực trong
việc giữ đạo hơn. Ngược lại, nếu con người không chịu bỏ thời gian chuẩn bị, và
cố gắng; làm sao con người có thể đòi kết quả như mình mong ước được?
3.4/ Phải biết dùng thời gian, tài năng, và của
cải Chúa ban: “Ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó
đang có cũng sẽ bị lấy mất.” Đây cũng là một nguyên lý sống cho con người: phải
năng dùng tài năng mình đang có, sẽ càng ngày càng tinh luyện hơn; nếu không, sẽ
mất dần những tài năng mình có. Ví dụ, việc học ngọai ngữ: Nếu một người tiếp tục
học hỏi và áp dụng những gì học ở trường, người đó sẽ dần dần thông thạo về ngọai
ngữ đó; nhưng nếu người đó không chịu tiếp tục học hỏi, vốn liếng đã thâu nhận ở
trường cũng từ từ mất đi. Tương tự với món quà vô giá là đức tin: Nếu một tín hữu
chịu khó đào sâu và tìm cơ hội để sống đức tin, người đó sẽ sở hữu một đức tin
vững chắc, không gì có thể lay chuyển được; nhưng nếu người đó không chịu đào
sâu và tìm dịp sống đức tin, người đó sẽ có ngày mất niềm tin đã được trao ban.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Kitô là Vị Trung Gian đem Thiên Chúa đến
cho con người, và đem con người về cho Thiên Chúa.
- Chúng ta phải là những ngọn đèn soi cho thế
gian bằng cuộc sống thực theo Tin Mừng, để soi sáng cho mọi người nhìn thấy và
tin tưởng vào Chúa.
- Những gì chúng ta sẽ nhận lãnh tùy thuộc vào
những gì chúng ta cho đi. Thiên Chúa và tha nhân sẽ bù đắp lại tất cả những gì
chúng ta đã hy sinh cho đi, và còn hơn thế nữa. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ giữ lại
cho mình, chúng ta sẽ mất dần những gì chúng ta đang sở hữu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét