Thứ Ba sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) St 1, 20 - 2, 4a
"Chúng
ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta".
Trích
sách Sáng Thế.
Thiên
Chúa phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên
mặt đất, dưới vòm trời". Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật
sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống.
Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy
sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt
đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
Thiên
Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc,
loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên
Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới
đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp; và Thiên Chúa phán:
"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm
chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển
trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa;
Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam
có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho
nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể
sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho
các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo
mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức
ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển
trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất
tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Thế
là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa
hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm,
thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong
ngày đó, Người nghỉ việc tạo thành.
Ðó
là gốc tích trời đất khi được tạo thành.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 8, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp
nơi hoàn cầu (c. 2a).
Xướng:
1) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú
mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? con người là chi mà
Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.
2)
Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng
danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo,
Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.
3)
Nào chiên nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim
trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 8, 22-23. 27-30
"Chúa đã phán: "Danh Ta sẽ ở
nơi đó, để nhậm lời van nài của dân Israel".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Salomon đứng trước
bàn thờ Chúa, đối diện với cộng đoàn Israel, ông giơ hai tay lên trời và nguyện
rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên trời dưới đất, không có thần
nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang
thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở
trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi
ngôi nhà con xây cất đây! Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin đoái nghe lời
cầu nguyện và sự van nài của tôi tớ Chúa; xin lắng nghe lời ca khen và kinh
nguyện mà tôi tớ Chúa dâng lên trước mặt Chúa hôm nay, ngõ hầu đêm ngày mắt
Chúa nhìn xem ngôi nhà này là nơi Chúa đã phán 'Danh Ta sẽ ở nơi đó', để nghe lời
cầu nguyện mà tôi tớ Chúa kêu xin trong nơi này, để nhậm lời van nài của tôi tớ
Chúa và của dân Israel sẽ cầu nguyện tại nơi đây. Từ thiên cung nơi Chúa ngự,
xin Chúa nhậm lời, và khi đã nhậm lời, xin Chúa dủ lòng thương".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5 và 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn
mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm
đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà,
và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa
là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi
nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy
nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người. - Ðáp.
4) Thực, một ngày sống trong hành lang
nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà
Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.
* * *
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến
Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến
và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 1-13
"Các ngươi gác bỏ một bên các giới
răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy
luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người
dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo
đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không
dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà
không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình,
rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn
đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không
tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri
rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng,
nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những
giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn
Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều
như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để
nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ",
và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu
ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi
(nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho
cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho
nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Người biệt phái và ký lục chất vấn Ðức
Giêsu vì các môn đệ của Ngài không rửa tay trước khi ăn theo lệ truyền. Ðức
Giêsu thẳng thắn vạch rõ cho họ từng vấn đề: Nếu so sánh luật Chúa và lệ truyền
của tiền nhân, luật Chúa quan trọng và buộc phải giữ cặn kẽ hơn.
Hơn
nữa, trong cách giữ luật Chúa, chỉ giữ theo hình thức chưa phải là đã giữ trọn
luật. Giữ luật vì tinh thần luật - cách giữ luật đó mới hoàn chỉnh. Thiên Chúa
thấu suốt tận đáy tâm hồn chúng ta. Chỉ Thiên Chúa đánh giá mới chân thật, công
bình.
Cầu
Nguyện:
Lạy
Chúa, ở đời chúng con thường đóng kịch với nhau. Chúng con thường tô son đánh
phấn khi đến với nhau. Chúng con sống hình thức, giả tạo với nhau và ngay cả với
Cha. Cha là chân lý, là sự thật chắc chắn Cha không thể chấp nhận được cách sống
của chúng con. Xin Cha sửa lại con người chúng con. Xin giúp chúng con biết sống
chân thành với Cha, với chính chúng con và với anh chị em chúng con. Chỉ khi
nào chúng con biết sống theo sự thật, chúng con mới xứng đáng là con của Cha.
Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
Tìm
cái cốt yếu
Nhiều
tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng
hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành
viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả
thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng
coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói
lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài
ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng
chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin
Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn
đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa
thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một
nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với
Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình
thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những
hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau:
"Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống
của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có
tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng
hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay,
rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề
luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa
Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số
của cải vào Ðền thờ, gọi là copan ,
nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối
với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền
của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức,
những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa
vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ
hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho
chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng
ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
Suy niệm:
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền
thống (cc. 3,
5, 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc,
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của
các tư tế.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn,
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa?
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
07/02/12 THỨ BA TUẦN 5 TN
Mc 7,1-13
*****
SỐNG THẬT ĐI…!
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc 7,6)
Suy niệm: Vở kịch “Tốt-xấu-giả-thật” của
nhà hát kịch 5B Võ Văn Tần “dẫn dắt khán giả đi vào vấn đề cốt lõi của đời sống
hôm nay: cái giả nhiều quá, cái xấu nhiều quá! Làm sao để có cái thật, làm sao
để có cái tốt?” Sứ điệp của tác phẩm là: “Chỉ có sự thật và lòng tốt có trong mỗi
người mới làm cho cuộc đời này tốt hơn, thật hơn, con người sống với nhau tử tế
hơn” (x. Lê Quí Dương, “Sống Thật Đi, Cuộc Sống Sẽ Đổi Thay”, Tuổi Trẻ
26.12.2011, tr. 13). Không rõ thời Chúa Giêsu hàng dỏm, hàng nhái, bằng giả,…
có nhiều không chứ thói đạo đức giả đã thành tệ nạn nơi những người Biệt phái.
Chúa Giêsu đả phá thái độ đó vì họ: “tôn kính Chúa bằng môi miệng, còn lòng thì
xa Chúa, gạt bỏ điều răn Thiên Chúa, duy trì truyền thống người phàm.”
Mời Bạn: Thiện căn ở tại lòng ta.
(Nguyễn Du). Gốc rễ của sự thiện nằm sâu trong tâm hồn bởi thế để sống đạo thật
sự trước hết phải bồi dưỡng, thanh tẩy, chỉnh đốn nội tâm của mình. Phải sống
thật trước cái nhìn của Chúa chứ không phải chỉ lo tô điểm cái vỏ đạo đức trước
mặt người ta.
Chia sẻ: Trong các dịp đại lễ, cùng với
việc tổ chức lễ bái, rước xách đẹp đẽ hoành tráng bên ngoài, chúng ta có để ý
chuẩn bị phần thiêng liêng như: tĩnh tâm, học hỏi, cầu nguyện không?
Sống Lời Chúa: Lòng tôi luôn gắn bó với
Chúa. Tôi năng tìm gặp Chúa nơi nội tâm của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết rõ con
người thật của con. Xin cho con biết nhận ra và khiêm tốn sám hối vì những lỗi
lầm thiếu sót của mình. Xin Chúa giúp con sống với Chúa và với anh em với tình
yêu chân thành không giả dối.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
St 1,20-2,4a; TIN MỪNG THEO THÁNH Mc 7, 1-13.
LỜI SUY NIỆM: “Thế là các ông lấy truyền
thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm
nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7,13). Đức Giêsu khi thấy các Biệt Phái
và Pharisêu quá chú tâm những hình thức bên ngoài mà quên mất những điều luật
quan trọng để làm thăng tiến đời sống con người trong tương quan với Thiên Chúa
và tương quan với nhau trong tinh thần yêu thương và phục vụ..
Chúa Giêsu,
Ngài đả phá một hệ thống tôn giáo đặt luật lệ và quy tắt trước nhu cầu con người.
Mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi phải đặt tình thương nhân loại lên hàng đầu. Chúa
Giêsu quả quyết bất cứ luật lệ hay quy tắc nào ngăn cấm một con người muốn giúp
đỡ người khác, khi người đó đang cần sự cứu giúp thì đều mâu thuẫn với Luật của
Chúa.
Tất cả những
gì ngăn cấm con người giúp đỡ cho đồng bào và đồng loại, cũng như bảo vệ sự sống
con người, đều là đi ngược với Thánh Ý của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
07 Tháng Hai
Một Lý Tưởng
Ðể Ðeo Ðuổi
Một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát
minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc trong bàng hoàng sửng
sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của Alfred Nobel, vua chất
nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào đó. Người anh của Alfred
qua đời và ký giả đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng dù sao, đây cũng là dịp để
Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về
ông. Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là người
làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây ra.
Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn
cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng kiến tạo
hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một nhà "kinh
doanh trên sự chết chóc" mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới hiểu được lẽ sống
đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc viết ngay tức
khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để thiết lập một trong
những giải thưởng lớn nhất thế giới: đó là giải thưởng Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng
thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng Hòa Bình thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn
là vua của chất nổ nữa, mà là Hòa Bình.
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho
cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Những
ngưeời bất hạnh nhất phải chăng không là những người sống mà không biết tại sao
mình sống, sống để làm gì và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là
những con người chỉ xây dựng cuộc sống của mình trên những sự chết chóc của người
khác. thế giới sẽ không bao giờ quên những Tần Thủy Hoàng, những Nero, những
Hitler, những Stalin, những Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người
ngày nay có kẻ đang thờ trong lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật
lên.
Người Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng,
có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho người khác những lý
lẽ của niềm tin và hy vọng của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc
thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc sống chứng tá của họ.
Khi nói về sự rao giảng Tin Mừng, Ðức cố Giáo
Hoàng Phaolô VI đã nói như sau: "Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng
một chứng từ. Có chứng từ khi một người Kitôhay một nhóm người Kitô sống giữa
nhân loại, bày tỏ được khả năng có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với
người khác hoặc tỏ tình liên đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những
gì là cao quí và thiện hảo. Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách
đơn sơ và bộc phát niềm tin của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị
thông thường và bày tỏ niềm hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy
hoặc không dám mơ ước. Với chứng từ không lời ấy, người Kitô làm dấy lên trong
tâm hồn của những ai đang thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể né
tránh được. Ðó là: Tại sao họ sống như thế? Ðiều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ
sống như thế? Tại sao họ sống như thế giữa chúng ta?".
Ðâu là chúc thư chúng ta
muốn để lại cho hậu thế? Ðâu là lời biện minh của chúng ta trước mặt người đời
nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần V TN2
Bài đọc: Gen 1:20 - 2:4; I Kgs
8:22-23, 27-30; Mk 7:1-13.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
20 Thiên
Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài
chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." 21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng
lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống
chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng:
"Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho
nhiều trên mặt đất." 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng:
đó là ngày thứ năm. 24 Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh
ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại."
Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại,
gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế
là tốt đẹp.
26 Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." 27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. 28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và
Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất,
và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò
trên mặt đất." 29 Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho
các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái
mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi
vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để
làm lương thực. Liền có như vậy." 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra
quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
1 Thế
là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành
công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên
Chúa nghỉ ngơi. 3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ
bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc
sáng tạo của Người. 4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng
tạo.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
22 Vua
Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en,
giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa
Ít-ra-en, chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như
Ngài. Ngài vẫn giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết
lòng bước đi trước nhan Ngài.
27 Có
thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi
Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con! Xin
đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của
tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này
đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở đấy"; xin
Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."
30 Xin
nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây. Từ
trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.
3/ Phúc Âm:
1 Có
những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những
người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa
mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi
người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa
rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy
nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ
và các đồ đồng.
5 Vậy,
người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không
theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? " 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ
I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi
viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa
Ta. 7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô
ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên
Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." 9 Người còn nói: "Các ông thật khéo
coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. 10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11 Còn các ông, các ông lại bảo:
"Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là
"co-ban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, 12 và các ông không để cho người ấy làm
gì để giúp cha mẹ nữa.
13 Thế
là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên
Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!"
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp.
Thiên Chúa là Đấng Tốt
Lành, Ngài tạo dựng mọi sự tốt lành, và không có sự gì Ngài tạo dựng xấu xa cả;
nhưng tại sao có những sự dữ trong thế giới? Một trong những nguyên nhân chính
là sự lạm dụng tự do, điều tốt lành do Thiên Chúa trao ban cho các thiên thần
và con người. Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự tạo dựng tốt lành của Thiên Chúa,
và sự lạm dụng tự do làm cho ra xấu xa của con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ,
tác-giả Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự tạo dựng chim trời, cá biển, thú vật,
và nhất là con người của Thiên Chúa. Tác giả nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa
thấy tất cả mọi sự đều rất tốt lành và Ngài chúc lành cho tất cả các tạo vật.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon xây dựng và khánh thành Đền Thờ không phải
vì muốn giới hạn Thiên Chúa; nhưng để dân chúng cảm thấy sự hiện diện của Ngài
trong đời sống. Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và Kinh-sư tố cáo các môn đệ của
Chúa vi phạm Lề Luật của tiền nhân, vì các ông không chịu rửa tay trước khi ăn.
Chúa Giêsu vạch ra các tội lỗi của họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của
Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt
đẹp.
1.1/ Ngày thứ năm, Thiên
Chúa tạo dựng chim trời và cá biển: Khi theo dõi các chương trình của đài
Discovery hàng tuần, chúng ta không khỏi ngạc nhiên đến độ sửng sốt về các loài
thảo mộc, chim trời, cá biển, và các loài thú vật trong trời đất. Chúng quá đẹp,
quá nhiều giống loại khác nhau, và quá hữu ích cho con người. Một điều làm
chúng ta phải sửng sốt là mặc dù chúng trở thành của ăn cho nhau và cho biết
bao con người, nhưng chúng là nguồn lương thực không bao giờ cạn, vì lời chúc
lành của Thiên Chúa trong trình thuật hôm nay: "Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."
1.2/ Ngày thứ sáu, Thiên
Chúa tạo dựng con người: Việc tạo dựng con người được coi là tuyệt đỉnh của sự
tạo dựng vì những lý do sau:
(1) Khi tạo dựng các loài
khác, Thiên Chúa chỉ cần phán là chúng có; khi tạo dựng con người, Thiên Chúa lấy
ý kiến của những vị cùng ở với Thiên Chúa trên trời khi Ngài phán: "Chúng
ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” Hai chữ
tác-giả dùng khác nhau ở đây: (1) hình ảnh (selem),
là một bản in chính xác của những gì nguyên thủy; và (2), giống như (demut), chỉ sự tương tự hay gần giống
nhau. Con người mang hình ảnh của Thiên Chúa, và có những đức tính gần giống
như Ngài.
(2) Con người có quyền trên
các loài thọ tạo khác: Trình thuật hôm nay nói rõ mục đích của Thiên Chúa khi tạo
dựng con người: “để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Trong trình thuật sau này, các
thú vật được dẫn tới Adam để ông đặt tên cho chúng: “Ông gọi chúng là gì, tên của
chúng như vậy.” Khi một người đặt tên cho ai, người đó có quyền trên người được
đặt tên.
(3) Thiên Chúa sáng tạo gia
đình đầu tiên và chúc lành cho họ: Khi tạo dựng các sinh vật khác, tuy không thấy
tác-giả nói tới giống loại (đực hay cái) của chúng, nhưng được giả định phải có
cho việc sinh sản. Khi đề cập tới việc tạo dựng con người, tác giả nhấn mạnh tới
phái tính và lời truyền cũng như lời chúc lành cho gia đình. “Thiên Chúa sáng tạo
con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với
họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất."”
(4) Mọi sự được tạo dựng
cho sự xử dụng của con người: Con người không chỉ có quyền trên muôn vật, mà
muôn vật còn được đặt dưới quyền xử dụng của con người. Thiên Chúa phán:
"Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với
mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho
chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa
thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!
1.3/ Ngày thứ bảy, Thiên
Chúa nghỉ ngơi: Ngày này cũng được Thiên Chúa dựng nên cho con người với mục
đích để con người cùng nghỉ ngơi với Thiên Chúa. Chúng ta cần chú ý đặc biệt đến
lý do khi Thiên Chúa tạo dựng ngày này, vì nó sẽ trở thành đề tài cho những
xung đột giữa Chúa Giêsu và các biệt-phái cùng các kinh-sư. Tác giả viết: “Ngày
thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc
của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa ban phúc lành cho
ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công
việc sáng tạo của Người.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi
ngôi nhà con đã xây đây!
2.1/ Tại sao con người cần
có một nơi xứng đáng để thờ phượng: Nhiều người đã đặt câu hỏi: Nếu Thiên Chúa ở
khắp mọi nơi, tại sao cần phải đến nhà thờ mới gặp được Thiên Chúa? Họ có thể dẫn
chứng lời vua Solomon hôm nay: "Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng?
Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây
đây!" Câu hỏi này có thể được trả lời như sau:
Thứ nhất, theo bằng chứng lịch
sử, đó là điều Thiên Chúa muốn. Trong cuộc hành trình của con cái Israel trong
sa mạc 40 năm, chính Thiên Chúa đã truyền cho Moses phải thiết lập Lều Hội Ngộ,
Nhà Tạm, Bàn Thờ, chức tư tế, phẩm phục, cùng tất cả các đồ dùng trong phụng vụ
thánh. Ngài hứa sẽ ở với con người qua cột mây phủ trên Lều Hội Ngộ. Khi con
cái Israel đã định cư trong Đất Hứa, vua Solomon được phép Thiên Chúa để xây dựng
một Đền Thờ cố định tại Jerusalem, thay cho Lều Tạm. Vì thế, Đền Thờ là dấu chỉ
sự hiện diện của Thiên Chúa ở với con người. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã lập
bí-tích Thánh Thể để bảo đảm lời hứa "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế." Nơi nào có Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm, nơi đó có sự hiện
diện của Đức Kitô với con người.
Thứ hai, Đền Thờ được dựng
nên hoàn toàn cho lợi ích của con người, chứ không cho Thiên Chúa, vì toàn thể
vũ trụ là Đền Thờ của Ngài. Là loài hữu hạn, con người cần có một nơi cụ thể để
xác tín sự hiện diện của Thiên Chúa trước khi cầu nguyện. Mỗi khi dân Israel
nhìn thấy "cột mây" đậu xuống trên Lều Tạm, họ biết Thiên Chúa đang
hiện diện ở đó. Hơn nữa, nơi Thiên Chúa hiện diện còn phải là nơi cực thánh
linh thiêng để con người biết cách cư xử cho xứng đáng mỗi khi tới cầu nguyện;
chứ không phải nơi con người muốn làm gì thì làm.
2.2/ Công dụng của Đền Thờ:
Phụng vụ thánh gắn liền với sự hiện diện của Đền Thờ. Trong Cựu Ước, Đền Thờ là
nơi con người đến cầu nguyện với Thiên Chúa chung cộng đoàn cũng như cá nhân.
Thứ đến, Đền Thờ là nơi con người đến nghe và học hỏi Lời Chúa để biết cách
hành xử đúng theo những gì Thiên Chúa muốn. Sau cùng, Đền Thờ còn là nơi con
người đến dâng những lễ vật hy sinh để đền bù các tội lỗi của mình. Trong Tân Ước
cũng vậy, thánh đường là nơi các tín hữu đến làm việc thờ phượng chung cũng như
riêng. Hai điều nổi bật là lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí-tích. Việc tha
thứ tội lỗi trong Cựu Ước được thay thế bằng Lễ Hy Sinh của Đức Kitô trong
Thánh Lễ và bí-tích Hòa Giải.
3/ Phúc Âm: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì
truyền thống của người phàm.
3.1/ Luật Kosher thanh tẩy
của người Do-thái: Khi nói tới Luật, người Do-thái nghĩ ngay đến Thập Giới của
Thiên Chúa ban cho họ qua Moses; nhưng bên cạnh đó, còn nhiều những luật mà họ
gọi là “luật truyền miệng,” hay “luật bất thành văn.” Những luật này, sau một
thời gian được các tiền nhân giữ, đương nhiên trở thành luật và được ghi chép lại
trong ít thế kỷ trước khi Chúa Giêsu ra đời.
(1) Những gì được họ coi là
không thanh sạch: Có rất nhiều điều được coi là không sạch bởi người Do-thái:
người đàn bà mới sinh con, người phong cùi, xác chết, người Dân Ngoại, và rất
nhiều những rau cỏ cũng như các thú vật không được ăn vì không sạch. Tất cả những
đồ vật mà những loại người này đụng vào, đều trở nên không sạch. Vì thế, họ có
những khỏan luật mô tả những gì không sạch, và những điều luật làm sao để giải
quyết những gì không sạch.
(2) Vệ sinh và tội lỗi: Đối
với họ, thanh sạch không phải chỉ là chuyện vệ sinh, nhưng là chuyện liên quan
đến tội lỗi và Lề Luật. Kẻ nào vi phạm có thể bị trừng trị theo Luật và ngay cả
có thể bị tử hình
3.2/ Phản ứng của Chúa
Giêsu: Ngài chắc chắn không đả phá việc giữ vệ sinh trước khi ăn; nhưng Ngài muốn
vạch ra cho họ thấy những phi lý quá trớn về sự quan sát luật thanh sạch của họ:
(1) Giữ đạo thành thật bên
trong hay giữ luật cách giả hình bên ngoài? Tôn giáo hệ tại việc giúp con người
sống mối liên hệ chân tình với Thiên Chúa, chứ không phải ở việc giữ một số lễ-nghi
cách hời hợt bên ngoài. Chúa Giêsu dùng lời của tiên-tri Isaiah tố cáo họ:
"Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức
giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì
lại xa Ta.”
(2) Luật của Thiên Chúa phải được coi quan trọng
hơn luật của con người: Chúa tiếp tục chỉ trích họ: “Các ông thật khéo coi thường
điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông… Các ông lấy truyền
thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp và trao cho
con người quyền điều khiển. Chúng ta có bổn phận bảo vệ mọi sự tốt đẹp theo như
ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa không tạo dựng điều xấu xa; những điều này xảy
ra là do quỉ thần và sự lạm dụng tự do của con người.
- Thiên Chúa muốn hiện diện cách hữu hình với
con người trong Đền Thờ hay thánh đường. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp nơi;
nhưng phải vào thánh đường để lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí-tích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 07
Mỗi người đều có một không gian sôhg trên thiên đường! Đó là
điểm đặc biệt đầu tiên của thiên đàng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mới trọn
vẹn là chính chúng ta. Trong khi chúng ta sông trên trái đất, chúng ta phải chiến
đâu để nhân vị chúng ta tìm được một vị ữí thích đáng, để hiện diện trước mặt kẻ
khác trong sự thật của chính chúng taề Khi chúng ta được nhìn Thiên Chúa mặt đối
mặt, "chúng ta sẽ thây Người như vậy" (1 Ga 3,2). Chúng ta sẽ hiện diện
trong hữu thể là con của Thiên Chúa, cuối cùng chúng ta mới thật là mình.
Một câu hỏi cứ luôn trờ lại: "Người ta sẽ làm gì trên thiên đàng?" Có lẽ chán chết. Trời giông như một phòng thánh rộng rãi trong đó người ta chìm đắn trong cầu nguyện... Thiên đàng đâu phải thế. Chúng ta sẽ làm gì trên trời? câu trả lời thật đơn sơ. Chúng ta sẽ thực hành hai giới răn: yêu Chúa, yêu người thân cận như chính mình. Có hạnh phúc nào lớn hơn nữa không? Không! chỉ vi chúng ta sẽ yêu không bờ bến, không khoảng cách, không nghịch lý, chúng ta sẽ yêu bằng tình yêu của Thiên Chúa.
Hạnh phúc lớn nhất là được yêu. Yêu chính mình... Tình yêu này đôi khi rất khó trên trần gian, sẽ trờ thành tự nhiên, sáng chói và chìm vào biển tình yêu của chính Thiên Chúa chúng ta
Một câu hỏi cứ luôn trờ lại: "Người ta sẽ làm gì trên thiên đàng?" Có lẽ chán chết. Trời giông như một phòng thánh rộng rãi trong đó người ta chìm đắn trong cầu nguyện... Thiên đàng đâu phải thế. Chúng ta sẽ làm gì trên trời? câu trả lời thật đơn sơ. Chúng ta sẽ thực hành hai giới răn: yêu Chúa, yêu người thân cận như chính mình. Có hạnh phúc nào lớn hơn nữa không? Không! chỉ vi chúng ta sẽ yêu không bờ bến, không khoảng cách, không nghịch lý, chúng ta sẽ yêu bằng tình yêu của Thiên Chúa.
Hạnh phúc lớn nhất là được yêu. Yêu chính mình... Tình yêu này đôi khi rất khó trên trần gian, sẽ trờ thành tự nhiên, sáng chói và chìm vào biển tình yêu của chính Thiên Chúa chúng ta
Paul-Dominique Marcovits, o.p. - Cerf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét