Thứ Sáu sau Chúa Nhật 4 Quanh Năm
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 1-8
"Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời
vẫn như thế".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong
anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ
không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như
chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính
anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân,
hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm
và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì
đang có, vì Chúa đã phán: "Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu",
đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: "Chúa là Ðấng phù trợ tôi,
tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi". Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo
anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết
thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và
cho đến muôn đời vẫn như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu
độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi
ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ
không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. - Ðáp.
3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa,
Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ
cất nhắc tôi lên. - Ðáp.
4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt
xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con,
xin đừng hất hủi con. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (Năm II): Hc 47, 2-13
"Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên
Chúa".
Trích sách Huấn Ca.
Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì
Ðavít được chọn giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với
chiên con và đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã
chẳng hạ sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên
Goliath kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa đã
ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng can đảm
của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn, được ca tụng
vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều thiên vinh quang,
vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán bọn giặc Philitinh
cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời. Trong mọi việc, người
dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao; người thành tâm ca tụng
Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã cho người quyền năng chống lại
quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn thờ Chúa, để hoà nhịp những bài
thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời
gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện
của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của
người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh
quang trong Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.
Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu
độ tôi (c. 47b).
Xướng: 1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời
của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ
Người. - Ðáp.
2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng
Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy
Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài. - Ðáp.
3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ
bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời.
- Ðáp.
* * *
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi
bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 14-29
"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống
lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói:
"Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ
lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một
tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là
Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt
Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua
mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm
lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng
không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và
thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng
nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các
quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi
con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách,
thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ
cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm
cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin
đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức
vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm,
nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn.
Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền
đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem
cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Danh tiếng
Chúa Giêsu lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai
Hêrôđê khiến ông ta sống bất an. Lương tâm cắn rứt đưa ông ta đến tư tưởng:
Gioan tẩy giả tiếp tục sống trong Ðức Giêsu. Những ray rứt của một kẻ giết người
lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Ðây chính là tâm trạng của
những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của
Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi:
Hãy hối cải.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, chỉ vì ích kỷ, tự ái, ghen tương... mà Hêrôđê đã ám hại Gioan tẩy giả.
Và cho đến ngày nay, những thói xấu đó vẫn làm chủ con người, và đã gây ra bao
đau khổ cho tha nhân.
Xin cho mọi
người chúng con biết lắng nghe lời Chúa, biết phân biệt đâu là phải, trái, để
có cách hành xử đúng với một con người, con người của Thiên Chúa. Amen.
Suy Niệm:
Sự bất
tử của thánh nhân
Những bậc
vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên
tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi
Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của
Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang
sống lại trong con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để
xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc
xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả
đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên
trời như Êlia.
Gioan Tẩy
Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên
những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi
người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng
Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý,
còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng
lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy
Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy,
ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống
mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính
con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống
trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của
các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi
Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các
thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất
bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng
tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng
tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng
tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với
Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất
khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực
tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất
giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người
mãi mãi".
Chúng ta
cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với
thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi
lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
Suy niệm:
Như mọi con người khác ở trên đời,
con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.
Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.
con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.
Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.
Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông.
Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,
dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).
Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,
chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”
Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.
Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,
nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).
Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.
Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,
dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).
Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,
chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”
Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.
Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,
nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).
Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.
Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn.
Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.
Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,
Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,
trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:
“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).
Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,
nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.
Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),
nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.
Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.
Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).
Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê .
Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.
Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.
Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,
một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.
Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không
khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?
Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?
Tiếc quá ! Hêrôđê đã không có được can đảm này.
Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.
Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,
Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,
trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:
“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).
Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,
nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.
Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),
nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.
Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.
Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).
Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê .
Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.
Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.
Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,
một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.
Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không
khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?
Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?
Tiếc quá ! Hêrôđê đã không có được can đảm này.
Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22),
Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.
Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.
Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),
coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.
Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.
Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),
coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Ngày 03
Thánh Blasiô, Giám mục, tử đạo
Thánh Ansgari ô, Giám mục
Thứ sáu đầu tháng
Thánh Blasiô, Giám mục, tử đạo
Thánh Ansgari ô, Giám mục
Thứ sáu đầu tháng
Tất cả chi thể thân xác Chúa đã bị gãy và bị nghiền nát vì chúng
con; Chúa đã dâng lên Thiên Chúa tất cả như một tấm Bánh sống động, tinh tuyền
và đẹp lòng Thiên Chúa:
Đối với Chúa thật khó để minh chứng rõ ràng hơn nữa, toàn hảo hơn
nữa tình yêu vĩ đại của Chúa ban cho chúng con. Dù vậy, Chúa còn muốn nuôi sống
chúng con, cho chúng con thấy nơi thánh của tình yêu Chúa. Tài sản quí báu này
được chứa đựng trong tư trang nhiệm mầu. Chúa còn muốn khai mở trái tim của
Chúa cho chúng con, để với con mắt, chúng con thấy từ đâu xuất phát tất cả những
gì Chúa đã làm cho chúng con. Chúa không giữ lại cho mình một điều gì, nhưng
ban tất cả cho chúng con, cho cả trái tim Chúa. Gần như Chúa nói với từng người
chúng con: Hỡi con người! Hãy nhìn tất cả những gì Ta đã làm, tất cả những gì
Ta đã chịu đau khổ để cứu độ ngươi!
Jean-Juste Lansperge
03/02/12 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 4 TN
Th. Blasiô, giám mục, tử đạo
Mc 6,14-29
*****
SỐNG THEO SỰ THẬT
Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có
các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một
thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. (Mc 6,28)
Suy niệm: Đã bao lần các vị hữu trách trong ngành giáo dục nước
nhà quyết tâm “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong học
tập,” thế nhưng bệnh tình xem chừng không thuyên giảm mà còn có phần nặng nề
hơn. Việc “nói thật, sống thật, quý nhất sự trung thực…” lắm khi chỉ còn là câu
chuyện đầu môi chót lưỡi, là câu nói ngoại giao… Còn thực tế lại là nói một
đàng làm một nẻo, sợ sự thật, bưng bít sự thật,… Tấm gương Tin Mừng soi rọi
cung cách của hai mẫu người đứng trước sự thật: Gioan Tẩy Giả làm chứng cho sự
thật bằng lời nói và hy sinh cả mạng sống của mình; đối lại, Hêrôđê dẫu biết sự
thật tội lỗi của mình nhưng không dám chấp nhận sự thật để hối cải lại còn sát
hại cả Gioan Tẩy Giả là người đã nói sự thật cho mình.
Mời Bạn: Khi không sống theo sự thật chúng ta trở nên nô lệ cho sự
giả dối, và thuộc về ma quỷ, bởi vì ma quỷ là “kẻ nói dối, và là cha sự gian dối”
(Ga 8,44). Trái lại, sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32), và sâu xa nhất
là giải thoát khỏi tội lỗi để thuộc về Thiên Chúa. Khi bạn chọn sống theo sự thật,
dẫu bạn phải trả giá rất đắt nhưng đổi lại bạn đạt được kho tàng vô giá là mãi
mãi bạn được thuộc về Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập tôn trọng và yêu mến sự thật bắt đầu từ trong lời
nói đến một việc làm cụ thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đường là Sự Thật, là Sự Sống, xin
cho chúng con biết vượt qua cái yếu đuối của bản thân, biết tôn trọng sự thật,
và sống vì sự thật. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
THÁNH BLASIÔ, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO, THÁNH
ANSGARIÔ, GIÁM MỤC; Dt 12, 18-19.21-24. TIN MỪNG THEO THÁNH Mc 6, 7-13.
LỜI SUY NIỆM: “Các ông đi rao giảng,
kêu gọi người ta ăn năng sám hối.” (Mc 6,12). Các ông ra đi loan truyền sứ
điệp của Chúa Giêsu cho quần chúng, chứ không phải tạo ra một sứ điệp của mình.
Họ không nói điều họ tin hay điều họ đã thấy là đúng, nhưng chỉ nói lại cho mọi
người biết những gì Chúa Giêsu đã bảo họ. Các Tông Đồ không đem ý kiến của mình
đến với người khác mà chỉ mang đến cho mọi người chân lý của Thiên Chúa.
Sứ điệp:
“Ăn năng sám hối”. Đây là một sứ diệp gây khó chịu cho mọi người. Hối cải có
nghĩa là thay đổi Ý, sau đó hành động phải phù hợp với sự đổi Ý đó, có nghĩa là
đổi Ý và thay đổi luôn hành động nữa. Hối cải bao gồm sự thương tổn vì phải tự
nhận con đường mình đang đi, đang sống là sai lầm, đầy cay đắng. Hối cải bao gồm
sự xáo trộn, vì nó có nghĩa là người ta phải hoàn toàn đảo ngược nếp sống của bản
thân mình.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-02
Thánh ANSGARIÔ
Giám mục tông đồ các xứ Bắc Âu
(801-865)
Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đã trở
thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là "cây lao của Thiên Chúa".
Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều
đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu
thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm
Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một
biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh
nơi triều đình đã chết.
Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư
không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ
khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài
luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng:
Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành
cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những
tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy
lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một
trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập
ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng
dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold là vua miền Nam
Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Lu-y đặt
tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương,
ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon,
giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một
khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một
tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người
trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc
tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh
trách nhiệm.
Một tòa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần
này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết.
Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người
Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới
biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết lập một cộng
đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về
Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền
Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức
Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một
nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.
Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo
và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những
thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào vòng
máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de
Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đã thiết lập một trường
truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đã không hề đánh
mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền
giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở Constane đã đặt Ansgario làm
giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm
tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.
Ansgario muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa
bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của
Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có
những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang
này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.
****
Thánh BLASIÔ
Giám mục Tử đạo (.... - 316)
Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài
là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng... nhất
là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà
không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng:
"Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ". Ngài rao giảng,
day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.
Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại
vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch,
Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng
thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một
đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng
lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân
quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại sa
mạc.
Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống
trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc
nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người,
đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu
rừng này.
Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói:-
Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy
sinh của tôi.
Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến,
trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ
đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời bà la: - Lạy Chúa nhân từ,
xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật
bé bỏng của Ngài.
Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời
cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.
Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa
hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công. Thánh nhân nói: - Tôi không sợ
các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi
thì không.
Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục.
Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu
cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu
nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt
để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.
Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái
chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi
cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay
trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các
Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng
của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào
hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan
tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị
chết chìm ngay.
Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên
Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời
ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài
xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
(Daminhvn.com)
+++++++++++++++++
03 Tháng Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu
Có lẽ cái tên của
Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không
còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái
bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã
khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền
thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường
như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc.
Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với
cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể
tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học,
tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Cho người mù lòa và
câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương
pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn
sách, cành cây, con chó�
xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được
những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?
Ngày kia, cô giáo Anna
Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi ôm
trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô. Lần
đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và
cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.
Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể.
A�nh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của
người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên
khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người
cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về
Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự
thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ,
những trống rỗng.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ
tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của
những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành
động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
Ðạo Kitô của chúng ta là
Ðạo của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ
Tình Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người
Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến
không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu, Tuần IV TN2
Bài đọc: Heb
13:1-8; Sir 47:2-13; Mk 6:14-29.
1/
Bài đọc I (năm lẻ):
1 Anh em hãy giữ mãi
tình huynh đệ. 2 Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp
đón các thiên thần mà không biết.
3 Anh em hãy nhớ đến
các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ; anh em
hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân
thể.
4 Ai nấy phải tôn trọng
hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian
dâm và ngoại tình. 5Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền,
hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi
ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!
6 đến nỗi chúng ta có
thể tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người
đời làm chi tôi được? 7 Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy
nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ.
8 Đức Giê-su Ki-tô vẫn
là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
2/
Bài đọc I (năm chẵn):
2 Như mỡ được tách ra
từ hy lễ kỳ an, vua Đa-vít cũng được chọn giữa hàng con cái Ít-ra-en. 3 Ông chơi với sư tử
như giỡn với dê tơ, nô với gấu như đùa với chiên nhỏ.
4 Thời niên thiếu, ông
đã chẳng giết một tên khổng lồ mà rửa nhục cho dân, khi vung dây phóng đá hạ
tên Go-li-át ngạo mạn đó sao? 5 Vì ông đã kêu cầu Đức Chúa Tối Cao, Đấng ban cho ông sức mạnh để loại trừ một
kẻ thạo nghề binh đao và nâng cao uy thế của dân tộc.
6 Bởi thế, ông được
tôn vinh vì đã giết mười ngàn tên địch; thiên hạ ca tụng ông, trao tặng ông triều
thiên vinh hiển vì Thiên Chúa đã giáng phúc cho ông. 7 Ông đã đánh tan địch
thù tứ phía, tận diệt các đối thủ Phi-li-tinh; ông đập tan sức mạnh chúng mãi
mãi. 8 Trong hết mọi việc làm, ông dùng lời tôn vinh chúc tụng mà ngợi khen Đấng
Thánh Tối Cao; với trọn cả tâm tình ông hát lên những khúc thánh thi và yêu mến
Đấng tạo thành ông. 9 Ông cắt đặt ca viên, để trước bàn thờ, họ hát những bài ca thánh thót. 10 Ông tổ chức cho các
ngày lễ tăng thêm vẻ huy hoàng, và sắp xếp cho lễ lạt được hoàn hảo, để trong
những ngày ấy Danh Thánh được ca khen và từ sáng sớm lời chúc tụng vang lên
trong đền thánh. 11 Đức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của ông và nâng cao uy thế ông luôn mãi. Thiên
Chúa đã thiết lập với ông một giao ước: (cho) vương quyền (ông muôn năm tồn tại),
và ban cho ông ngai vinh hiển trong Ít-ra-en.
12 Sau vua Đa-vít, xuất
hiện một người con thông thái, và nhờ vua, người con ấy được an nhàn thịnh vượng. 13 Vua Sa-lô-môn nắm
quyền trị nước trong thời bình, Thiên Chúa đã cho ông được bốn bề yên ổn để ông
dựng một ngôi nhà dâng kính Thánh Danh, và chuẩn bị xây một đền thánh bền vững
muôn đời.
3/
Phúc Âm:
14 Vua Hê-rô-đê nghe biết
về Đức Giê-su, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: "Đó là ông Gio-an Tẩy Giả
từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ." 15 Kẻ khác nói:
"Đó là ông Ê-li-a." Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ như
một trong các ngôn sứ."
16 Vua Hê-rô-đê nghe thế,
liền nói: "Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy! "
17 Số là vua Hê-rô-đê
đã sai người đi bắt ông Gio-an và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy
bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê,
18 mà ông Gio-an lại bảo:
"Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!"
19 Bà Hê-rô-đi-a căm
thù ông Gio-an và muốn giết ông, nhưng không được.
20 Thật vậy, vua
Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn
che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.
21 Một ngày thuận lợi đến:
nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hê-rô-đê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ
và các thân hào miền Ga-li-lê.
22 Con gái bà
Hê-rô-đi-a vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui
thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho
con."
23 Vua lại còn thề:
"Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
24 Cô gái đi ra hỏi mẹ:
"Con nên xin gì đây?" Mẹ cô nói: "Đầu Gio-an Tẩy Giả."
25 Lập tức cô vội trở
vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu
ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm."
26 Nhà vua buồn lắm,
nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với
cô. 27 Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi,
chặt đầu ông ở trong ngục, 28 bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.
29 Nghe tin ấy, môn đệ
đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Con
người cần trung thành sống theo sự thật.
Đối
với những người không có đức tin nơi Thiên Chúa, họ không tin có sự thật tuyệt
đối, và hầu hết mọi sự thật đều có giá trị tương đối – chỉ đúng trong một thời
gian và hoàn cảnh nào đó thôi. Vì thế, họ quan niệm, để có thể bảo đảm thành
công trong cuộc đời, con người cần phải biết sống theo thời; chẳng hạn sống như
các câu tục ngữ dạy: “Gặp thời thế thế thời phải thế!” hay “gió chiều nào che
chiều đó!”
Nhưng
đối với những người có đức tin, Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm
nay, và như vậy mãi đến muôn đời; và thành công trong cuộc đời này không bảo đảm
sự thành công trong cuộc đời mai sau. Vì thế, nếu muốn đạt được cuộc đời mai
sau, con người không thể sống theo thời, mà phải sống theo sự thật.
Các
Bải Đọc hôm nay đưa ra những mẫu người sống theo 2 lối sống khác nhau. Trong
Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải sống theo sự thật,
tức là sống theo những gì Thiên Chúa dạy. Lý do là vì Đức Kitô đã chiến thắng tội
lỗi và sự chết, con người được bảo đảm cuộc sống mai sau. Trong Bài đọc I, năm
chẵn, Sách Đức Huấn Ca tường thuật hai mẫu gương: vua David và vua Solomon; mặc
dù không toàn hảo, nhưng họ biết ăn năn quay về với sự thật. Đó là lý do Thiên
Chúa tha thứ tội lỗi và tiếp tục chúc lành cho họ. Trong Phúc Âm, Thánh Marcô
tường thuật hậu quả của những con người không sống theo sự thật mà chỉ muốn làm
vui lòng người khác như vua Herode, bà hoàng Herodia, và Salome, con gái của
Bà; trong khi Gioan Tẩy Giả sẵn sàng chịu cầm tù và chết cho sự thật.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm
qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
Sau khi đã chứng minh Chúa Giêsu, Vị
Trung Gian của Giao Ước Mới, đã lấy máu mình mà rửa sạch tội lỗi của con người,
và đem lại Ơn Cứu Độ cho con người, tác giả khuyên các Kitô hữu phải giữ 7 điều
sau đây:
(1) Bác ái huynh đệ: “Anh em hãy giữ mãi
tình huynh đệ.” Đây là một trong hai giới răn căn bản nhất của Đạo Công Giáo:
“Mến Chúa yêu người.” Thánh Gioan nêu lý do tại sao giới răn này cần thiết: người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương
nhau.
(2) Tinh thần hiếu khách: “Anh em đừng
quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên
thần mà không biết.” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã sai các thiên thần đến loan
tin vui cho con người: cho Abraham và Sarah (Gen 18), cho cha mẹ của Samson
(Judg 13), và cho Tobit (Tob 3:17)
(3) An ủi kẻ ưu phiền: “Anh em hãy nhớ đến
các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ; anh em
hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân
thể.” Đạo lý này trùng hợp với thần học về thân thể của Thánh Phaolô.
(4) Trong sạch, khiết tịnh: “Ai nấy phải
tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các
kẻ gian dâm và ngoại tình.” Lý do tại sao phải sống khiết tịnh vì chỉ có những
ai có lòng trong sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa.
(5) Trung thành tin tưởng nơi Thiên Chúa:
“Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là
đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ
ngươi! đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ,
tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi được?” Nếu Thiên Chúa đã sẵn sàng hy
sinh Người Con Một cho con người, hỏi còn điều gì quí giá hơn Người Con này?
Thiên Chúa không ban của cải dư đầy vì nó gây nhiều thiệt hại hơn là lợi ích.
(6) Theo gương anh hùng của người xưa:
“Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng Lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn
xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ.” Người Công Giáo
không thiếu những gương sáng để noi theo: trước hết và trên hết là gương Đức
Kitô, sau đó đến các tổ-phụ, tiên-tri, rồi đến gương các thánh nam nữ ở mọi thời,
sau cùng gương cha mẹ và các cha xứ, các thầy, các sơ, những người sống gần gũi
trong thời chúng ta.
(7) Đừng sống theo những ngụy thuyết của
thế gian: Sự thật không thay đổi: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như
hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.”
2/
Bài đọc I (năm chẵn): David yêu mến Đấng tạo thành ông trọn
cả tâm tình.
2.1/ Mối liên hệ thân tình giữa Thiên
Chúa và vua David: Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa đòi hỏi phải có
hai chiều, và cần được thử thách để phát triển. Nhìn vào mối liên hệ giữa Thiên
Chúa và vua David giúp chúng ta hiểu thấu điều này.
(1) Thiên Chúa chúc lành cho David: Từ thời
niên thiếu, bàn tay của Thiên Chúa đã ở với David. Ngài giúp ông thoát khỏi
nanh vuốt của sư tử và gấu khi ông chăn chiên; chọn ông giữa hàng con cái Israel để làm
vua; ban khôn ngoan và sức mạnh để David giết một tên khổng lồ Goliath bằng dây
phóng đá mà rửa nhục cho dân. Khi đã được phong vương, uy quyền của Thiên Chúa
luôn ở với David. Ông đã đánh tan địch thù tứ phía, thống nhất 12 chi tộc, và
bành trướng lãnh thổ. Triều đại của David được coi như một triều đại huy hoàng
nhất trong lịch sử Israel .
(2) David cảm tạ tình yêu Thiên Chúa: Ông
rất nhạy cảm với tình yêu Thiên Chúa, như trình thuật hôm nay kể: "Trong hết
mọi việc làm, ông dùng lời tôn vinh chúc tụng mà ngợi khen Đấng Thánh Tối Cao;
với trọn cả tâm tình ông hát lên những khúc thánh thi và yêu mến Đấng tạo thành
ông. Ông cắt đặt ca viên, để trước bàn thờ, họ hát những bài ca thánh thót. Ông
tổ chức cho các ngày lễ tăng thêm vẻ huy hoàng, và sắp xếp cho lễ lạt được hoàn
hảo, để trong những ngày ấy Danh Thánh được ca khen và từ sáng sớm lời chúc tụng
vang lên trong đền thánh."
2.2/ David phạm tội; nhưng biết ăn năn
xám hối và quay về với sự thật: Như một con người, David không toàn hảo. Trong
lúc bị cám dỗ xác thịt, ông đã để cho sắc đẹp của bà Bathsheba làm ông điêu đứng;
và rồi tội này dắt tới tội kia, ông đã phạm tội tiêu diệt Uriah, chồng bà Bathsheba
và là một tướng trung thành với ông. Vì những tội phạm này, David phải chịu rất
nhiều hình phạt đến từ Thiên Chúa: chết chóc xảy ra trong gia đình, loạn luân xảy
ra giữa anh em và con cái; David và thuộc hạ phải chạy trốn Absalom, con mình.
Nhưng trong khi chịu đựng tất cả những đau khổ này, David không một lời oán
trách Thiên Chúa. Ông chỉ xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và đình chỉ việc giáng
phạt xuống trên gia đình ông. Những thử thách này đã giúp ông nhận ra hậu quả
khủng khiếp của tội và làm cho tình yêu của ông với Thiên Chúa được vững mạnh
hơn.
3/
Phúc Âm: Gioan
Tẩy Giả chết làm chứng cho sự thật.
3.1/ Rau nào sâu nấy: Nhìn vào gia đình của
Herode, một người có thể nhìn thấy quyền lực vủa ma quỉ thống trị gia đình này.
Vua Herode Cả có tất cả 5 đời vợ (Cleopatra của Jerusalem ,
Doris , Mariamne của Hasmonean, Mariamne của
Boethusian, và Malthake). Chính ông đã giết 3 người con: Antipater bởi Bà
Doris, Alexander và Aristobulus bởi Bà Mariamne của Hasmomean. Loạn luân xảy ra
khi Herodias, con của Aristobulus, kết hôn với Philip, chú của Bà; rồi lại muốn
kết hôn với Herode Antipas, em của Philip, như trình thuật kể hôm nay. Chuyện
loạn luân khác nữa là Salome, người con gái của Bà Herodias trong trình thuật
hôm nay, lại kết hôn với Philip, con của bà Cleopatra.
3.2/ Các thái độ sống khác nhau trong cuộc
đời:
(1) Vua Herode Antipas: thừa hưởng một nếp
sống hoang dâm và ác độc của vua cha, ông cũng không sống theo lập trường rõ rệt.
Ông đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục: lý do là vì vua đã lấy
bà Herodia, vợ của người anh là Philíp; và Gioan đã công khai chỉ trích nhà
vua. Thái độ không lập trường của ông được Marcô mô tả: “Thật vậy, vua Herode
biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông.
Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.”
Sự tình xảy ra là khi nhà vua mở một bữa
tiệc thết đãi quan khách tại Galilee, con gái bà Herodia, Salome, vào biểu diễn
một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Vua nói với cô gái:
"Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." Vua lại còn thề:
"Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được." Được sự
cố vấn của mẹ, cô xin “đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa.” Nhà vua buồn lắm,
nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với
cô. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi,
chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô
gái trao cho mẹ.
(2) Bà Herodia và Salome: sống và làm chứng
cho sự gian trá. Bà Herodia căm thù ông Gioan vì đã dám ngăn cản hôn nhân của
Bà, và muốn giết ông nhưng chưa được. Khi cơ hội tới qua câu hỏi của cô con
gái: "Con nên xin gì đây?" Bà đã lạnh lùng trả lời: "Đầu Gioan Tẩy
Giả." Lập tức, cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn
ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm."
(3) Gioan Tẩy Giả: sống và làm chứng cho
sự thật. Ông không chú ý đến nhu cầu vật chất, danh vọng, chức quyền; nhưng can
đảm sống và kêu gọi mọi người ăn năn xám hối.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải trung thành sống theo sự
thật, vì một cuộc sống theo thời thế sẽ không đưa chúng ta tới đích điểm của cuộc
đời.
- Chúng ta sẽ phải trả giá đắt để sống
theo sự thật, nhưng lối sống theo sự thật sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, và
giúp chúng ta đoàn tụ với Thiên Chúa và các chứng nhân của sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Thánh Blasiô
giám mục tử đạo
Thánh chữa bệnh cổ: Thánh Blasiô được nhắc tới khi chủ tế
cầm 2 cây nến buộc hình chữ X để vào cổ bệnh nhân và nguyện: "Nhờ sự bầu
cử của thánh Blasiô giám mục tử đạo, xin Chúa giải thoát con khỏi các bệnh cổ
và các bệnh khác. Nhân danh Cha và Con và Thánh thần".
Theo truyền miệng, thánh Blasiô đã là y sĩ trước
khi làm linh mục. Ngài làm giám mục thành Sebaste (nay là miền Trung nước Turkey
(Thổnhĩkì).
Trong kỳ bách hại, ngài trốn ẩn trong hang, sống
như thầy ẩn tu. Người ta nói ngài chữa bệnh và thuần hoá thú hoang ở đó. Một
hôm, người đi săn tìm ra ngài, hắn đưa ngài về nộp cho tỉnh trưởng, ông ta cho
lệnh đánh đập và giết ngài.
chừng 400 năm sau khi ngài qua đời, nhiều chuyện nói về thánh Blasiô, ngài trở
thành vị thánh thân quen, nhất là trong nước Pháp và nước Đức. Một câu chuyện kể
: Khi thánh Blasiô ở trong tù, có một bà mẹ đem đứa con nhỏ bị hóc xương cá
trong cổ họng xin ngài chữa. Ngài cầu nguyện trên đứa bé, và nó được khỏi. Hàng
năm đến lễ thánh Blasiô, với 2 cây nến buộc bằng sợi vải hình chữ X, linh mục
dùng để chữa bệnh cổ. Lời cầu nguyện giáo hội xin cho những người mắc bệnh cổ
và các bệnh khác được chữa lành. Nến được dùng vì câu chuyện sau: người ta kể rằng,
khi thánh nhân bị giam trong ngục tối, một phụ nữ bí mật đem nến và đồ ăn đến
cho ngài.
Thánh Blasio là 1 trong 14 thánh "holy helpers", thánh bổn mạng cho
các hoàn cảnh cuộc sống. Thời Trung cổ, người ta sùng kính các thánh này trong
một Nhóm thánh phù hộ.
Thánh Ansgar
Giám mục
bổn mạng nước Pháp, Đan mạch, Thuỵ điển,
Đức, Iceland
(801?-865)
Giám mục Ansgar hoạt động rất vất vả, nhưng ngay khi còn sống, ngài đã
thấy công việc của ngài bị tiêu huỷ, những cố gắng của ngài trở thành vô ích.
1. Thân thế: Ansgar sinh tại nước Pháp. Ngài nhập
dòng Benedicto, trở thành nhà giảng thuyết và là giáo sư nổi tiếng. Ngài được
sai đi truyền giáo tại Đan mạch. Trong 3 năm, ngài hoạt động và phục vụ người
dân ở đó, nhưng không mấy kết quả. Khi bên nước Thuỵ điển cần nhà truyền giáo,
ngài được phái đến với một tu sĩ nữa. Trên đường vượt biển, các ngài bị bọn cướp
bắt, bị đánh đập, nhưng sau cùng cũng tới được Thuỵ điển. Không đầy 2 năm sau,
Ansgar được gọi làm giám mục thành Hamburg
(nước Đức ngày nay). Ansgar làm việc và cầu nguyện tại đây 13 năm. Ngài nổi tiếng
giảng hay, nổi bật về lòng yêu thương người nghèo, người bệnh, đời sống khiêm tốn,
siêng cầu nguyện. Ngài cho dân tất cả những gì ngài có, ngài dẫn dắt đoàn
chiêncủa Chúa Kitô .Rồi một cơn đau khổ khác tới, Năm 845, Hamburg bị người
phương Bắc xâm lăng, đốt sạch hết cả. Giám mục Ansgar thấy dân quay về với thần
ngoại đạo. Nhưng ngài vẫn tiếp tục công việc rao giảng.
Ansgar được phong làm Tổng giám mục Bremen ,
và năm 854 bắt đầu việc truyền giáo mới tại Thuỵ điển và Đan mạch. Ngài chỉ xin
một phép lạ, là Chúa cho ngài nên người tốt. Sâu kín trong lòng, ngài ước ao hiến
đời mình cho đức tin, tình yêu qua việc tử đạo. Tuy nhiên, ngài đã được chết êm
ái tại Bremen .
Sau khi ngài qua đời, dân Thuỵ điển lại quay về với thần ngoại giáo.
2. Thành công, thất bại: Nhìn vào cuộc đời thánh Ansgar, người
ta thấy thất bại này qua thất bại khác tới, nhưng Ansgar là người thành công,
thắng cuộc trong mọi sự thực sự là vấn đề của cuộc sống: tình yêu, lòng sùng mộ,
hi sinh và cầu nguyện, bỏ mình vì Chúa và các linh hồn. Ước gì chúng ta nhớ đến
cuộc đời của thánh Ansgar, vị tông đồ của xứ Bắc Âu, mà thành người thắng trận
trong Chúa Kitô .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét