Bài suy niệm trong tháng thánh Giuse
Ơn xin: Xin cho tôi biết để cho Chúa sử dụng đời mình
hầu phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
hầu phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Lm. Anthony Nguyễn Cao Siêu, S.J.
1. Thành Giuse là người
có đức tin lớn lao.
Ngài
đã đón nhận những biến cố độc nhất vô nhị do Thiên Chúa gửi đến cho đời mình.
Ngài đã uốn đời mình theo ý Chúa: ngài chấp nhận chung sống như một người bạn
bên cạnh người mà ngài yêu mến và muốn lấy làm vợ là Đức Maria. Đúng là ngài đã
chấp nhận đổi tình cầm sắt hóa ra cầm kỳ. Ngài đã chấp nhận thai nhi mà ngài
không phải là cha, vì tin vào quyền năng của Thần Khí đang tác động.
Thánh
Giuse không xa lạ với cái bất ngờ của đường lối Chúa, cái bất ngờ hẳn đã làm
ngài khắc khoải, chới với đến nỗi định âm thầm ly dị Maria (Mt 1,19). Rồi từ đó
ngài đạt được bình an trong đức tin. Tuy nhiên, đức tin của thánh Giuse – cũng
như của chúng ta – tuy lớn lao nhưng vẫn là một đức tin không ngừng lớn lên và
là một đức tin liên tục kéo dài. Thánh Giuse bị vây bọc bởi mầu nhiệm: mầu nhiệm
về Đức Maria mang thai bởi Thánh Thần và mầu nhiệm về thai nhi Giêsu. Bề ngoài,
dưới mắt người đời, thì Thánh Gia là một gia đình bình thường như mọi gia đình
khác. Nhưng bên trong Giuse thấy mình sống trong một thế giới thần linh, liên tục
đằm mình trong thế giới đó và vẫn không sao hiểu hết được (Lc 2, 33; 2, 48.50).
Mầu nhiệm luôn vẫy gọi Giuse bước sâu thêm. Cùng với nghề thợ mộc vất vả, thánh
Giuse hẳn đã sống đời chiêm niệm thâm trầm. Đức Giêsu vẫn lớn lên trước mắt
Giuse, lớn lên một cách bình thường. Maria vẫn là người được Giuse yêu mến kính
trọng. Bà vẫn chu toàn bổn phận làm mẹ một cách bình thường. Nhưng Giuse vẫn
khám phá thấy trong cái bình thường đó một mầu nhiệm đang hé lộ. Tin là một
hành trình tìm kiếm mãi.
Thánh
Giuse chấp nhận cái nghịch thường của ý định Thiên Chúa. Giuse muốn lập gia
đình với Cô Maria, người ông đã đính hôn nhưng chưa về chung sống như vợ chồng
(Mt 1, 18). Giuse chỉ mong làm một người chồng, một người cha bình thường,
nhưng Thiên Chúa lại không muốn ngài là chồng, là cha bình thường như những người
khác. Ngài không phải là cha đẻ của Đức Giêsu. Matthêu đã không viết là “ông
Giuse sinh Giêsu” ở Mt 1,16, nhưng đã viết: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của
bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, Đấng được gọi là Kitô”. Giuse đã sống
như một người bạn, người trợ giúp bên cạnh Đức Mẹ. Đức Maria vẫn là người mà
thánh Giuse chỉ “biết” trong đức tin. Thế nhưng cái nghịch thường mà thánh nhân
phải đảm nhận đó là: bề ngoài ngài vẫn được mọi người coi như chồng của Maria,
như cha của Giêsu, và ngài phải gánh mọi trách nhiệm trong tư cách đó. Nhưng thực
tế thì lại khác. Thánh Giuse đã chấp nhận điều đó trong âm thầm suốt đời. Đúng
là ngài phải trở thành nhà chiêm niệm. Chính đời ngài cũng là một mầu nhiệm mà
người ngoài không biết rõ được. Người ta chỉ coi ông Giêsu là con của ông thợ mộc
Giuse và bà Maria thôi. Người ngoài không biết rõ căn tính của tôi được, và tôi
cũng không được nói với ai.
Giuse
sống mầu nhiệm đời mình trước mặt Thiên Chúa. Chính cái âm thầm làm nên mầu nhiệm.
Chúng ta không thích âm thầm và ẩn danh. Chúng ta thích quyền lợi và nghĩa vụ
phải tương xứng. Nhưng khi phá vỡ cái âm thầm riêng tư, chúng ta cũng có nguy
cơ phá vỡ cả mầu nhiệm và đời sống chúng ta sẽ mất đi một điều rất quý, điều mà
chỉ riêng Thiên Chúa và ta mới hiểu được, cái thế giới thần linh riêng tư giữa
Thiên Chúa và ta mà người khác chỉ đứng ngoài. Không cần thiết người ngoài phải
biết hết, phải hiểu được hết mọi sự trong đời ta. Ta cũng không cần chia sẻ mọi
sự mình có, để mãn nguyện vì được thông cảm, được biện minh. Phải duy trì khoảng
cách với thụ tạo (đó là từ bỏ) để có thể nói được rằng Thiên Chúa là Đấng duy
nhất hiểu mình thật là gì. Chúng ta thường cảm thấy mình là điều người khác
nghĩ (thậm chí sống theo điều người khác nghĩ về mình). Chúng ta dễ quên rằng “Thiên
Chúa nghĩ về ta như thế nào thì ta là thế ấy” (thánh Têrêsa Nhỏ).
2. Thánh Giuse là một người đã thánh hiến đời mình cho sứ mạng của
Thiên Chúa.
Giuse
phải sống đức khiết tịnh trong một tình cảnh đặc biệt. Đúng là ngài đã chọn sống
như thế, tuy ngài có quyền sống như người chồng thật của Đức Maria. Đức khiết tịnh
nào cũng là một lựa chọn, một từ khước cái quyền tự nhiên mình có thể có. Không
cần thiết thánh Giuse phải là một cụ già để bảo đảm điều đó. Nếu ngài là một
thanh niên, chúng ta mới hiểu được rằng với ơn Chúa, người ta làm được cả những
điều vượt quá sức con người. Chắc chắn thánh Giuse đã giữ được khiết tịnh suốt
đời nhờ có cảm nghiệm sâu xa về việc mình đang tiếp cận với một mầu nhiệm linh
thánh. Maria bây giờ không còn là một đối tượng để mê đắm và chiếm hữu. Cô là
hiện thân của một mầu nhiệm khôn dò, mầu nhiệm khiến Giuse phải kính ngưỡng. Giữ
khiết tịnh chính là nhìn nhận Maria là người của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn
cách riêng. Người thiếu nữ mà tôi vốn yêu quý ấy nay đã là đối tượng cho tình
thương đặc biệt của Thiên Chúa và là nơi diễn ra mầu nhiệm cứu độ. Giữ khiết tịnh
chính là nhìn nhận trong đức tin rằng mình không còn quyền làm chủ trên đời
Maria nữa, vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn. Sống khiết tịnh
là sống trong một mầu nhiệm. Trước một mầu nhiệm ta chỉ có thể đáp lại bằng
cách sống một mầu nhiệm khác. Chẳng mấy chốc Giuse cũng thấy đời mình là một mầu
nhiệm, với những điều chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin. Cuối cùng Giuse thấy
mình được kêu gọi để thuộc trọn về Thiên Chúa như Maria, để cùng nhau cộng tác
cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Giuse
sống đức khó nghèo qua lao động chân tay. “Ông ấy không phải là con bác thợ
sao?” (Mt 13, 55), người làng Nadarét đã nói với nhau như thế về Đức Giêsu.
Chính Ngài đã theo nghề của Giuse theo kiểu cha truyền con nối (Mc 6, 3). Nghề
thợ mộc không phải là một nghề được trọng vọng vào thời đó. Lao động để nuôi
gia đình và giúp cậu Giêsu đi vào lao động. Lao động trở thành một thời gian kết
hiệp với Thiên Chúa trong âm thầm. Trong các Phúc âm, ta không thấy thánh Giuse
nói một lời nào. Ngài là con người hành động. Chúng ta không nên quên những cuộc
hành trình vất vả của ngài. Ngài không đi một mình. Ngài luôn đi với Maria và
Giêsu. Đi từ Nadarét lên Belem và lúng túng trước cảnh Maria sinh con đầu lòng
trong thiếu thốn, sợ hãi đem Con đi trốn qua Ai-cập rồi lại đưa về, đem Con tiến
dâng cho Thiên Chúa tại Đền Thờ để nghe lời tiên tri không vui của cụ Simêon,
và bồn chồn lo âu ba ngày đi tìm con bị lạc. Việc lao động chính của Giuse
không phải chỉ là lao động chân tay, nhưng còn là đứng mũi chịu sào để bảo vệ Đức
Giêsu và Mẹ Ngài. Như những gia đình khác trên mặt đất, Thánh Gia cũng không được
miễn trừ khỏi những sóng gió và lo âu.
Giuse
sống triệt để sự vâng phục đối với ý định của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng
Matthêu, ý định này được chuyển đạt qua việc sứ thần Chúa nói trong mộng (Mt 1,
24; 2, 13.19.22). Giuse chấp nhận hình thức chuyển đạt này. Trong Tin Mừng
Luca, sứ thần nói với Maria lúc thức, nên có cuộc đối thoại thực sự, và Maria
đã nói tiếng Xin Vâng. Trong Tin Mừng Mátthêu, sứ thần đã nói với thánh Giuse
lúc ngủ. Thánh nhân đã không nói tiếng Xin Vâng thành lời, nhưng ngài đã nói bằng
hành động vâng phục khi tỉnh dậy. Chúng ta cũng phải chấp nhận những hình thức
khác, những hình thức quen thuộc mà Chúa thường dùng với riêng từng người.
Giuse luôn vâng phục mau mắn mọi lệnh truyền. Ông luôn bị đánh thức vào lúc
đang an nghỉ. Thiên thần Chúa luôn bảo ông “chỗi dậy” để làm điều này điều khác
cách khẩn trương. Và ông đã chỗi dậy ngay để thực hiện (Mt 2, 13-14; 2, 20-21).
Bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya, Giuse lúc nào cũng thấy mình có
trách nhiệm với những kho báu của Thiên Chúa, đó là gìn giữ Hài Nhi và Mẹ Ngài.
Vâng phục mà không đặt vấn đề, đó là đức tính của Giuse.
3. Thánh Giuse người chấp nhận đóng một vai trò khiêm tốn nhưng
hết sức cần thiết trong chương trình cứu độ.
Giuse
là con vua Đavít (x. Mt 1, 20), và như thế khi được Giuse nhận là con mình về mặt
pháp lý, Đức Giêsu cũng thuộc về dòng tộc vua Đavít. Lời hứa xưa của Thiên Chúa
với Đavít qua miệng ngôn sứ Nathan đã được ứng nghiệm: “Khi ngày đời của ngươi
đã mãn, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, và Ta sẽ làm cho vương
quyền của nó được vững bền…Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.”
(2Sm 7, 12-13). Đó cũng là lời của sứ thần Gabrien nói với Đức Maria về người
Con mà Bà sắp cưu mang: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít… Người
sẽ trị vì nhà Gia cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
(Lc 1, 32-33).
Hành
động có tính quyết định và nền tảng là hành động nhận Maria đang mang thai về
làm vợ chính thức. Chính hành động đó đủ để thánh Giuse có một chỗ đứng độc đáo
trong lịch sử cứu độ. Người ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu như
Giuse cương quyết ly dị Đức Maria, hay lớn tiếng tố cáo vị hôn thê của mình.
Theo sách Đệ Nhị Luật thì Bà có thể bị ném đá (Đnl 22, 23-27), và Con
Thiên Chúa có thể chết trước khi chào đời. Ơn cứu độ sẽ bị đổ vỡ từ trong trứng
nước. Hành vi đón nhận Maria về làm vợ cũng bao hàm việc đón nhận cả thai nhi
mà ngài tin là do Thánh Thần. Như thế, Giuse đã là điểm tựa sống còn của ơn cứu
độ, là chỗ nương thân nhờ cậy của Maria và Hài Nhi. Nhờ Giuse, Đức Maria không
bị mang tiếng ngoại tình, và Đức Giêsu không phải là con hoang. Đức Giêsu có thể
công nhiên và tự tin mà đến với Dân Ngài. Vai trò của Giuse thật hết sức quan
trọng, nhưng cũng thật khiêm hạ. Chắc Giuse chẳng có gì để khoe về vị thế
quan trọng của mình. Chúa mới là người điều động mọi chuyện. Giuse chỉ xin được
là người giúp việc cho Thiên Chúa thôi.
Mừng
lễ Thánh Giuse, chúng ta được mời gọi để đứng đúng chỗ Chúa chọn cho mình trong
chương trình cứu độ nhân loại, và làm đúng việc Chúa trao phó một cách tận tụy
hy sinh. Xin được có lòng tin khiêm hạ và đời sống nội tâm sâu xa của thánh
nhân.
Lm. An-tôn NGUYỄN CAO SIÊU S.J.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét