Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B
Bài Ðọc
I: Gr 31, 31-34
"Ta
sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".
Trích sách
Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán:
"Ðây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước
này không giống như giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm
tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu
Ta thống trị chúng". Chúa phán: "Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà
Israel
sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi
trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta".
Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải
dạy em rằng: "Ngươi hãy nhìn biết Chúa", vì mọi người từ nhỏ chí lớn
đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi
của chúng".
Ðó là lời
Chúa
.
Ðáp Ca:
Tv 50, 3-4. 12-13. 14-15
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1)
Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả
đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Ôi lạy
Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị
trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần
Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
3) Xin ban
lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con
sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Dt 5, 7-9
"Người
đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời".
Trích thư
gởi tín hữu Do-thái.
Khi còn sống
ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng
có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu
là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi
hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ
tùng phục Người.
Ðó là lời
Chúa.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Ga 12, 26
Chúa phán:
"Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở
đó".
Phúc Âm:
Ga 12, 20-33
"Nếu
hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở
Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức
Giêsu". Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả
thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó
chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu
sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó
cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự
Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết
nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến
trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời
phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám
đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một
thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải
vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là
lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ
kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu dù biết chắc sứ mệnh Thiên Chúa Cha muốn Ngài
thực hiện là đi con đường Thập Giá, con đường đau khổ. Nhưng vì sống kiếp con
người mỏng dòn, bản tính yếu đuối. Ðức Giêsu vẫn cảm thấy xao xuyến, bối rối
khi chén đắng gần kề. Trong những giây phút đó, Ðức Giêsu đã không ngừng hướng
nhìn lên Cha, cầu khẩn, phó thác mọi sự trong tay Cha.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, phải chăng cuộc đời chỉ có ý nghĩa, chỉ
có giá trị khi con người biết sống quên mình, biết nghĩ đến tha nhân?
Vâng, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không thối đi, thì nó
sẽ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó thối đi, sẽ sinh nhiều bông hoa. Ước gì cuộc
đời chúng con là hạt lúa được chôn vùi - chôn vùi chính mình, để nẩy sinh nhiều
bông hạt yêu thương cho Chúa, cho tha nhân. Amen.
Suy Niệm:
Chúa Nhật 5 Mùa Chay Năm B
Yêrêmia 31,31-34; Hipri 5,7-9; Yoan
12,20-33
Suy niệm: Giờ Của Chúa Giêsu
Con đường sám hối và giao hòa mà Phụng
vụ thứ Tư lễ Tro năm nay vạch ra, đã gợi cho chúng ta cùng sống lại những giai
đoạn của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người: nào là giao ước với Noe, diễn tả
ý định Thiên Chúa hứa bảo tồn sinh mạng cho loài người; giao ước với Abraham mở
ra một chân trời mới cho tình bạn và ơn cứu độ; giao ước Sinai quy tụ đám người
hỗn tạp vừa thoát cảnh nô lệ Aicập thành một dân riêng; trong cuộc lưu đày tại
Babylon, tuy không thấy Thiên Chúa tái lập giao ước, nhưng vẫn ngầm chứa một sức
mạnh đặc biệt thanh luyện niềm tin của toàn dân hướng về ngày giải thoát.
Có thể nói, quá trình lịch sử Dân
Thiên Chúa như quy hướng về giây phút cứu độ, giây phút mà giao ước giữa Thiên
Chúa với loài người đạt tới cao điểm của nó, giây phút mà thánh sử Yoan gọi là
"Giờ của Chúa Yêsu". Từ ngữ "Giờ của Chúa Yêsu" trong Phúc
Âm thứ 4 quá khó hiểu và đượm nhiều sắc thái bí ẩn!
Trong ba bài đọc Thánh Kinh của Phụng
vụ Chúa nhật hôm nay, Giáo hội như mời gọi ta suy niệm lại giờ cứu độ đó, để có
thể chuẩn bị tâm hồn đón nhận giao ước mới, giao ước muôn đời mà Thiên Chúa đã
ký kết với loài người qua cái chết của Ðức Yêsu.
1. Giờ Của Chúa Yêsu Trong Chương Trình
Cứu Ðộ
Lịch sử cứu độ đã vẽ lại cho chúng ta
chương trình của Thiên Chúa ngay từ lúc nguyên tổ thất trung. Lời Người hứa với
Abraham được lưu truyền và có sức mạnh quy hướng toàn dân ngóng trông giờ cứu độ.
Giờ đó được thực hiện bởi một người
mang tên Yêsu mà đức tin Kitô giáo tuyên xưng là Ðấng Cứu thế. Nhìn lại cuộc đời
của Ðức Yêsu, chúng ta sẽ bỡ ngỡ và ngạc nhiên khi thấy nhiều lần trong thời
gian hoạt động công khai Người đã tuyên bố: "Giờ tôi chưa đến" (Yn
2,4; 7,30; 8,20). Qua cách trình bày của các thánh sử, đặc biệt của tác giả
Phúc Âm thứ Tư, chúng ta khám phá ra phần nào bí ẩn của giờ Ðức Yêsu . Giờ của
Người không phải là những lúc thành công trong bước đường rao giảng Tin Mừng,
không phải hệ tại những phép lạ thực hiện, cũng không phải những lúc dân chúng
ngưỡng mộ, định tôn phong Người làm vua..., nhưng là giờ thực thi giao ước mới,
giờ chu toàn sứ mạng cứu chuộc nhân trần.
Bởi thế, câu nói: "Giờ tôi chưa đến"
hoặc "chưa đến giờ của Người" không những đã làm cho thân thế và hoạt
động của Ðức Yêsu thêm bí ẩn khó hiểu mà còn gây nên những tò mò, thắc mắc: giờ
đó là gì? Khi nào sẽ đến? Giờ đó liên quan thế nào với đời sống con người?
Trong sách Tin Mừng thánh Yoan đã ghi
rõ cho chúng ta biết khung cảnh và khoảng thời gian khi Ðức Yêsu tuyên bố giờ của
Người đã đến. Câu nói xảy ra vào tuần lễ cuối cùng trong cuộc đời dương thế của
Người, sau khi khải hoàn tiến vào Yêrusalem, giữa những tiếng hoan hô, kính phục
của đám dân Dothái vào dịp lễ Vượt qua năm 30. Lẽ ra, Người phải xem đây là
khung cảnh thuận lợi để tuyên bố giờ của Người đã đến, do đó giải tỏa được bao
thắc mắc, tò mò của những kẻ chung quanh! Nhưng không, thánh Yoan đã ghi lại bối
cảnh Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem bằng một giọng văn mỉa mai, diễn tả tâm trạng
chua xót của Người trước những tiếng hoan hô, những khuôn mặt hớn hở của đám
dân hiếu thắng, không chút hiểu biết về sứ mạng của Người.
Thế nhưng, khi có vài người lương dân
Hylạp, ngỏ ý muốn "nhìn thấy Ðức Yêsu" (Yn 12,21), thì thay vì trả lời
trực tiếp hoặc có thái độ đón nhận. Người đã công nhiên tuyên bố: "Ðã đến
giờ Con Người được tôn vinh!". Những người Hylạp này không phải là công
dân Dothái sống ở hải ngoại (diaspora) (Yn 7,35) nhưng họ quả thật là lương
dân, thuộc hạng người mà Thánh Kinh gọi là "Những kẻ biết kính sợ Thiên
Chúa" (Cv 10,2.22.35; 13,16.26). Họ không đến Yêrusalem như người ngoạn cảnh,
nhưng lên đền thờ để hành hương vào dịp đại lễ Vượt qua.
Phân tích nguyện vọng của họ trong câu
nói: "Chúng tôi muốn nhìn thấy Ðức Yêsu", hầu như chúng ta bắt gặp được
chủ ý thần học của thánh sử Yoan. Nếu họ chỉ muốn nhìn thấy Ðức Yêsu như một
nhân vật nào khác, có lẽ họ đã không cần tới Philipphê làm trung gian. Nhưng đặt
câu nói vào văn mạch của Yoan, "muốn nhìn thấy" Ðức Yêsu có nghĩa là
muốn nói chuyện với Người, muốn trao đổi với Người, muốn có tương quan với Người,
muốn biết Người. Vả lại, trong ngôn ngữ thần học của Yoan, ta thường gặp thánh
nhân đôi khi sử dụng động từ "nhìn thấy" để diễn tả một thực trạng nội
tâm sâu xa hơn, đó là "tin" vào Ðức Yêsu. Như vậy, ta có thể thay thế
câu: "Chúng tôi muốn nhìn thấy Ðức Yêsu" bằng câu: "Chúng tôi muốn
đặt niềm tin vào Người" (Cf Yn 1,14.18.51; 3,11.32; 8,56; 14,9.19). Vì
theo Yoan, mẫu người tín hữu đích thực, chính là người môn đệ yêu quý của Ðức
Yêsu, khi bước vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh: ông "đã thấy và đã
tin" (Yn 20,8).
Những người Hylạp muốn gặp Ðức Yêsu,
nhưng phải qua trung gian. Phải chăng điều đó ngụ ý rằng: lương dân sau này
cũng phải đón nhận Tin Mừng cứu độ qua trung gian lời rao giảng của các tông đồ:
họ như đã nhìn thấy Ðức Yêsu qua sứ điệp Tin Mừng... Nhưng giữa việc lương dân
muốn nhìn thấy Ðức Yêsu và các việc tông đồ rao giảng Tin Mừng cứu độ còn có một
biến cố quan trọng nữa: đó là cuộc Thương khó và Phục sinh của Ðức Yêsu, đó là
lúc Người thể hiện giờ của mình theo lệnh Chúa Cha: "Giờ đã đến để Con Người
được tôn vinh" (Yn 12,32). Giờ Khổ nạn và Phục sinh đánh dấu cao điểm của
lịch sử cứu độ, giờ mà hồng phúc cứu độ không còn là di sản riêng của dân
Dothái, giờ mà mọi phân cách giữa dân Dothái và Hylạp, đại diện cho lương dân,
không còn nữa.
Thật vậy, Yoan đã loan báo cho chúng
ta Tin Mừng cứu độ: khi lương dân biểu lộ niềm tin vào Ðức Yêsu, thì đó chính
là lúc vinh quang của Người được phát hiện. Và từ lúc ấy, Người đã mạc khải
cách cụ thể con đường cứu độ qua dụ ngôn hạt lúc mì. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất
không thối nát và tan biến đi, thì sẽ không thể sinh hoa kết quả nuôi dưỡng con
người được. Ðó là giờ khai mở con đường thập giá và khổ nạn để Ðức Yêsu thực hiện
sứ mệnh cứu chuộc nhân trần (Yn 12,27; Cf Mc 14,41).
2. Giờ Của Chúa Yêsu Trong Cuộc Sống
Nhân Loại
Theo thánh Yoan, giờ khổ nạn của Ðức
Yêsu đã bắt đầu khi dân ngoại tìm đến xem Người. Còn theo thánh Marcô thì giờ ấy
đã bắt đầu khi Người giáp mặt với kẻ "tội lỗi" trong vườn Giếtsêmani.
Và từ đây con đường thập giá của Người như mang trọn vẹn ý nghĩa: qua Ðức Yêsu
thụ nạn, ta thấy được niềm tủi hận, nỗi khổ đau và cảnh chết chóc của loài người:
tiếng kêu la, nước mắt của Ðức Kitô (Hr 5,7) nhưng vọng lại âm hưởng và báo trước
mọi trạng huống bi đát của nhân loại. Mọi người, không phân biệt Dothái hay
lương dân, đều được mời gọi chứng kiến và tham dự giờ của Người. Lời cầu nguyện
khẩn xin và thái độ vâng phục của Ðức Yêsu diễn tả thật đầy đủ vai trò trung
gian (Pontifex) và địa vị trưởng tử mọi loài thọ sinh (Primogenitus) của Người.
Nhờ thế cái chết và sự phục sinh của Người mang lại ý nghĩa cho cuộc sống nhân
loại.
Nhưng tại sao giờ của Ðức Yêsu lại là
giờ của Thập giá và Phục sinh.
3. Giờ Của Chúa Yêsu Ðể Thực Hiện Giao
Ước Mới
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan
giao ước giữa Thiên Chúa và loài người như trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy. Từ
giao ước với Adam (Kn 3,15), với Noe (Kn 9,1-17), với Abraham (Kn 17,1-17), với
dân được tuyển chọn ở Sinai (Xh 19,24), với Ðavít (2S 7), đến lời hứa giao ước
mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Yêrêmia loan báo (Yr 31,31-34): tất cả những lời
giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong giờ của Ðức Yêsu.
Lời loan báo: "Này đây sẽ đến những
ngày Ta ký giao ước của Ta..." trong Yêrêmia gặp được tiếng vọng đáp trả
trong câu: "Và bây giờ..." của Phúc Âm thứ tư (Yn 12,27-31). Nay là
lúc lời hứa ban giao ước mới cho con người được thực hiện. Quả vậy, nội dung của
giao ước mới hệ tại việc Thiên Chúa ghi luật pháp của Người trên trái tim và
ban Thánh Linh trong tâm hồn loài người, để họ có thể nhận biết Thiên Chúa (Ez
36,26-27). Từ đó, Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ
(Kn 3,15), đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết
giữa Thiên Chúa với họ.
Bởi thế, khi dân ngoại ngỏ ý với các
môn đệ, là đại diện dân Dothái, được nhìn xem, hiểu biết Ðức Yêsu, thì ta có thể
nói đó là toàn thể nhân loại như đang quy hướng và tiến về giờ của Ðức Yêsu, để
biến lịch sử thế giới thành lịch sử cứu độ. Như vậy, cuộc hành trình của nhân
loại, dầu lắm khi mang đầy thương tích khổ đau, thất bại, tuyệt vọng, cũng sẽ
tìm được ý nghĩa tròn đầy trong giờ của Ðức Yêsu, giờ cứu độ bằng con đường Khổ
giá và Phục sinh.
Giảng Lễ
Các tuần lễ mùa Chay - có thể nói - đến
hôm nay là hết. Chúa nhật sau đã là Lễ Lá và đi vào Tuần Khổ nạn, Thương khó rồi.
Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay vì thế không còn nói đến việc chuẩn bị đi vào Mầu
nhiệm Cứu độ nữa. Giờ của Ðức Kitô đã đến, như lời Phúc Âm nói. Và như trong
câu đầu của bài đọc I, nay đã đến ngày Thiên Chúa ký kết một giao ước mới với
Dân Người. Chúng ta hết thảy được mời gọi chứng kiến và tham dự chính mầu nhiệm
cứu thế sắp diễn ra trong phụng vụ. Thế nên, không còn phải là lúc nhìn vào
mình hay nhìn đi đâu, nhưng là nhìn vào chính Thiên Chúa, chính Ðức Kitô đang sắp
sửa thực hiện cho Dân Chúa kế hoạch cứu vớt ngàn đời. Bổn phận của chúng ta,
trong ngày hôm nay và trong suốt tuần này, là phải chăm chú hướng lòng, hướng mắt
về Chúa để chiêm ngưỡng và đón nhận mọi hành vi mà Ngài sắp làm cho ta. Các bài
Kinh Thánh hôm nay có sức giúp ta làm công việc ấy, vì tất cả đều nói đến giờ của
Chúa và của Ðức Kitô.
Trước hết, bài đọc thứ nhất cho ta thấy
đã đến ngày Thiên Chúa muốn ký kết với Dân Người một giao ước mới, khác hẳn mọi
giao ước trước đây. Chúng ta nhớ trong các Chúa nhật trước, phụng vụ đã lần lượt
nhắc đến các giao ước thời Noe, thời Abraham, thời Môsê, thời lưu đày. Càng đi,
các bản giao ước ấy càng trở nên phong phú, sâu xa và thiêng liêng, hoàn hảo
hơn. Nhưng chưa bao giờ ta nghe nói đến một giao ước tốt lành như hôm nay. Hình
ảnh về giao ước Noe là một chiếc cầu vồng ở trên trời, vừa xa chúng ta, vừa dễ
tan biến.
Với Abraham dấu hiệu của giao ước là lễ
nghi cắt bì; nhưng thật sự chỉ hạn chế trong dòng dõi Dothái về phương diện máu
thịt. Sang đến thời Môsê, đó là luật pháp và máu chiên bò rảy xuống trên dân.
Giao ước vẫn còn hình thức xã hội và bề ngoài. Song đến thời lưu đày, thật ra
không có giao ước mới nào: nhưng việc Chúa đưa dân lưu lạc trở về cũng là dấu
chỉ Ngài giữ lời giao ước. Nhất là trong lúc lưu đày, Chúa hướng lòng dân chờ đợi
một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu, cũng như bài đọc thứ I hôm nay cho
chúng ta thấy. Khác với mọi giao ước trước đây, giao ước mới này sẽ được ghi
trong tâm khảm mỗi người, để mọi người thấy Chúa ở ngay trong tâm hồn mình, khiến
ai ai cũng tự mình có kinh nghiệm về Thiên Chúa, không cần phải hỏi thăm hay học
hỏi với ai về sự hiểu biết này nữa. Giao ước mới này - như vậy - vượt xa mọi
giao ước trước. Liên hệ giữa Chúa và chúng ta trở thành sâu xa, nội tại ngay trong
tâm hồn. Chúa sẽ xóa bỏ mọi tội lỗi cho dân Người, không còn nhớ nữa. Người chỉ
còn tỏ rõ bộ mặt thương yêu, hiều dịu với ta, để ta cảm thấy thật sự tình Người
mật thiết.
Nhưng lòng con người đã sẵn sàng để
Chúa ghi giao ước tốt đẹp đó vào chưa? Ðó là cả vấn đề. Kinh thánh thường phàn
nàn: lòng dân Dothái thật chai đá. Và lòng ai ai không ít nhiều như vậy? Thế mà
giao ước của Chúa chỉ có thể viết trên những trái tim bằng thịt, nồng nàn yêu mến
Chúa, chia sẻ những tâm tình của Chúa. Cho nên những người đạo đức hồi xưa luôn
cầu khẩn: Lạy Chúa xin tạo dựng cho con một trái tim trong sạch, như chúng ta vừa
đọc trong bài đáp ca. Thành ra, bao giờ Chúa cũng sẵn sàng ký kết giao ước tình
yêu, Ngài chỉ còn chờ thời gian thuận lợi về phía ta. Hôm nay, Ngài tuyên bố
ngày giờ đó đã đến rồi. Căn cứ vào đâu, nếu chẳng phải vào chính lời Ðức Kitô
tuyên bố trong bài Phúc Âm: Giờ Con Người đã đến?
Quả vậy, Ðức Yêsu là Con Người, là người
Con Một yêu quý của Thiên Chúa Cha. Ngài đã sinh ra làm người, trở thành Adong
mới, mang tất cả thân phận nhân loại ở nơi mình. Ngài gánh hết tội lỗi loài người.
Và giờ đây, Ngài sắp để tội lỗi bị đóng đinh vào thập giá, thế nên nhân loại tội
lỗi sắp được ơn tha thứ. Loài người sắp có khả năng đón nhận giao ước mới. Trái
tim Ðức Kitô sắp bị lưỡi đòng thâu qua, để chết cho tội lỗi. Trái tim máu thịt
sắp chết, trái tim chai đá tội lỗi của loài người sắp được thay thế bằng trái
tim đầy lửa Thánh Thần yêu mến. Nếu Thiên Chúa phải chờ khi loài người trở lại,
từ bỏ tội lỗi để ký kết giao ước mới nơi tâm khảm mọi người, thì giờ của Thiên
Chúa, giờ Thiên Chúa ký kết giao ước tình yêu phải chờ giờ của Ðức Kitô, giờ
Ngài cứu chuộc mọi người trong mầu nhiệm thánh giá. Thế mà trong Phúc Âm hôm
nay, Ðức Kitô tuyên bố: Giờ Ngài đã đến.
Chúng ta hãy vui mừng đón nhận tin
này. Bao thế hệ loài người chờ đợi ngày hôm nay. Chính Ðức Mẹ cũng đã phải chờ
đợi. Hôm ở tiệc cưới Cana, Người đến thưa với Chúa: nhà đám đã hết rượu rồi.
Tin ấy gợi lên trong tâm hồn Chúa Yêsu bao nhiêu hình ảnh Kinh Thánh thường ví
cảnh lầm than của dân Chúa tội lỗi với cảnh thiếu rượu, thiếu nước. Ðức Mẹ nói
đến một sự kiện vật chất; nhưng Chúa Yêsu lại nghĩ ngay đến bình diện thiêng
liêng. Lời xin của Ðức Mẹ trở thành lời cầu ơn tha thứ cứu độ. Nhưng chưa đến
giờ ấy, Chúa Yêsu đã trả lời: chưa đến giờ của Người.
Hôm
nay, ngược lại, Người tuyên bố rõ: giờ Người đã đến rồi. Người tuyên bố như thế,
khi thấy dân ngoại ngỏ ý muốn gặp Người. Làm sao Người có thể không đáp ứng được
lòng khát vọng của muôn dân? Không phải chỉ dân Dothái cần ơn cứu độ. Mọi dân tộc
đang đặt hy vọng vào Người, Người là Ðấng yêu thương nhân loại, làm sao có thể
từ chối lời cầu xin tha thiết của thế giới lầm than vì tội lỗi? Lời xin ấy trở
thành như tiếng nói của Chúa Cha, ngỏ ý chờ đợi ngày giờ để thi hành kế hoạch
tình yêu, tha tội lỗi cho loài người, đã ký kết giao ước mới cho họ.
Như
thế ta mới dễ hiểu vì sao Ðức Kitô lại gọi giờ của Người là giờ vinh quang. Người
trở thành vinh hiển thật sự trong giờ phút chấp nhận ra đi cứu thế. Và ta cũng
dễ hiểu, vì sao sau khi Ðức Kitô tuyên bố giờ Người đã đến, có tiếng Chúa Cha
phán với Người, như để tỏ dấu thông cảm, thỏa mãn...
Thế
nên tâm tình thứ nhất của chúng ta hôm nay sau khi đọc các bài Kinh Thánh này,
là cảm mến lòng nhân ái bao la của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Chúa Cha đã dự
liệu ngày giờ ban ơn tha thứ và ký kết giao ước mới cho ta. Chính Chúa Con đã bằng
lòng đi đến ngày giờ ấy để kế hoạch tình yêu được thực hiện hầu ta nhận được
tân ước vĩnh cửu trong Máu Thánh Người. Ðồng thời chúng ta cũng biết qua Kinh
Thánh: giao ước đòi ta đáp ứng mới có thể trở thành phong phú. Nên Chúa Yêsu muốn
kéo tất cả chúng ta lên với Ngài trên thánh giá, để đóng đinh xác thịt tội lỗi
ta vào đó, để trái tim chai đá của ta bị đâm thâu hầu trái tim ta trở nên mềm mại
cho ơn Thánh Thần yêu mến nhào nặn.
Như
vậy, chúng ta cần chăm chú nhìn vào Chúa Yêsu, như bài Thánh Thư hôm nay mô tả
để ta bắt chước trong đời sống cụ thể. Người khóc lóc, nhưng tin tưởng, xin
Chúa Cha tha tội cho loài người. Người cũng không làm gì khác hơn ở trong thánh
lễ này, vì giờ đây mầu nhiệm thập giá cũng được thực hiện lại để kéo lòng chúng
ta lên với Chúa, chia sẻ tâm tình cứu thế của Ngài. Nếu chúng ta thành thật kết
hợp mật thiết với Ngài trong thánh lễ này, thì chắc chắn trong cả tuần, chúng
ta phải thao thức ghét tội và tha thiết cầu xin cho dân tộc, thế giới được sạch
tội, để đời sống của chúng ta thực sự là đời sống trong Tân Ước vĩnh cửu, mà Ðức
Kitô khai mạc khi giờ Người đã đến.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
25/03/12
CHÚA NHẬT TUẦN 5 MC – B
Ga 12,20-33
Ga 12,20-33
NHƯ
HẠT LÚA CHẾT ĐI
“Hạt lúa mì rơi xuống đất… chết đi, mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Suy niệm: Buổi sáng mở tờ báo ra đọc, ta có cảm giác như sự ác, điều xấu nhan nhản hoành hành khắp nơi trong xã hội. Người tốt, việc tốt trở thành loại hàng hiếm hoi, xa xỉ. Có vẻ như con người hôm nay mải mê lo cho mạng sống mình, chăm chút cho sự an nhàn, yên vui của bản thân, và ngại làm điều tốt, việc lành cho nhau, kể cả nơi người Kitô hữu. Đang khi ấy, Đức Giêsu dạy ta phải dám liều, quên mình, chấp nhận hy sinh để sinh hoa trái cho đời. Được bảo quản an toàn nơi kho lẫm, hạt lúa mì không thể kết hạt. Thế nhưng, nếu chấp nhận bị gieo vùi vào lòng đất lạnh, dãi dầu với nắng sáng mưa chiều, nó sẽ sinh nhiều hạt lúa khác cho đời. Cũng vậy, nếu biết chôn vùi các dục vọng cá nhân, làm mục nát đi thói cầu an ích kỷ, ta mới có thể là người Kitô hữu có ích cho cuộc đời và Nước Trời.
Mời Bạn: Hạt giống Giêsu được gieo vào lòng đất địa cầu trong ngày nhập thể làm người. Hạt giống ấy lớn lên, tăng trưởng ở Nadarét. Hạt giống ấy chấp nhận chết đi trên cây thập giá, mang lại hoa trái sự sống cho tất cả nhân loại. Bạn học được bài học gì từ mẫu gương của hạt giống Giêsu?
Sống Lời Chúa: Xét xem tôi đang say mê xây đắp cho cái gì thuộc về mình (của cải, tiện nghi, danh tiếng, quyền lực, quan điểm…), tìm mọi cách để sửa đổi ngõ hầu dám sống quên mình vì Chúa hơn trong mùa Chay này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận tự hủy mình khi xuống thế làm người. Chúa tiếp tục chôn vùi sự an toàn bản thân để chết trên thập giá cho chúng con. Xin cho chúng con cũng biết noi theo gương Chúa, chấp nhận quên mình hy sinh cho nhau.
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật V mùa Chay; Gr 31, 31-34; Dt 5, 7-9; Tin Mừng
theo Thánh Ga 12, 20-33.
LỜI SUY NIỆM: Lạy Cha, xin tôn vinh
Danh Cha” . Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ
còn tôn vinh nữa! Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm! Người
khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy! Đức Giêsu đáp: “Tiếng ấy
đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các ngươi”. (Ga 12,28-30).
Trong những
thời điểm đặc biệt và quan trọng đối với sứ vụ của Chúa Giêsu, thường có tiếng
của Thiên Chúa xác nhận và thúc đẫy Ngài đi đến cùng đích của sứ vụ mà Ngài đảm
nhận. Trong cuộc đời Ki-tô hữu của chúng ta, khi được Chúa tuyển chọn và được
sai đi, thì luôn có sự hiện diện của Chúa; Ngài ban ơn đủ sức mạnh và khả năng
để chu toàn sứ vụ mà Ngài đã sai đi. Ngài không để chúng ta phải cô độc một
mình. Chúa luôn luôn hiện diện, và thầm thì trong tâm trí của chúng ta, chúng
ta tập thói quen năng tiếp xúc với Ngài, chúng ta sẽ nghe tiếng nói của Ngài bằng
tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Chúng ta chỉ bị cô độc khi không đón nhận ơn gọi của
Ngài, không chịu làm việc cho Ngài mà tự ý sắp đặt cuộc đời theo ý riêng của
mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
25 Tháng Ba
Căn Hầm Bí Mật
Một người hà tiện, bủn xỉn
kia có thói quen giữ tất cả vàng bạc và những vật quý giá trong một chiếc hầm bí
mật tự tay ông ta lén lút xây cất dưới nền nhà.
Một ngày kia, như thường
lệ, ông ta lẻn xuống hầm để ngắm những vật quý, nâng niu những thỏi vàng và những
dây chuyền, những cà rá nạm kim cương, hột xoàn to bằng những hạt đậu. Rủi
thay, vì vô ý gài cửa không kỹ, nên bộ phận bí mật vụt bật lên đóng sầm chiếc cửa
cực kì kiên cố lại, chắn lối ra duy nhất.
Dĩ nhiên không ai trong
nhà biết về chiếc hầm bí mật. Vì thế, mọi người đã bỏ cuộc sau khi lục lạo tìm
kiếm ông ta mọi nơi trong nhà cũng như mọi gốc cây, bụi kiểng ngoài vườn.
Sau một thời gian dài chờ
đợi nhưng không nghe thấy tăm hơi của ông ta ở đâu, người ta quyết định bán căn
nhà. Người chủ nhà mới có ý định sửa chữa lại một vài căn phòng của ngôi nhà và
trong khi các người thợ nề đập một bức tường, người ta khám phá ra cánh cửa bí
mật ăn thông xuống chiếc hầm. Khi những ngọn nến được thắp lên, người ta không
khỏi sợ hãi thấy bộ xương của một người đang đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn
con với một số vàng bạc, kim cương bị quăng tung tóe xung quanh. Có dấu hiệu
cho thấy là thậm chí người chết đã phải ăn một cây nến trước khi bị chết đói.
"Khốn cho các ngươi
là những kẻ phú quý ở Sion, khốn cho các ngươi là những người tự cho mình là an
toàn trên núi Samaria ".
Lời chúc dữ những người
giàu có bất nhân và kiêu căng trên của tiên tri Amos cũng như những lời Chúa
Giêsu chúc dữ những kẻ giàu trong Tin Mừng không phải là những lời lên án tiền
bạc và của cải cách chung. Nhưng đây là những lời nêu lên sự nguy hiểm của quan
niệm kiêu hãnh, của tính tự cao, tự đại và nhất là thái độ và nếp sống ích kỷ,
dửng dưng không để ý đến những người nghèo khổ đang sống bên cạnh. Ðây là thái
độ và nếp sống thường thấy nơi những người giàu có.
Mahatma Gandhi, người đã
đưa dân tộc Ấn Ðộ đến nền độc lập khỏi ách thống trị của Anh quốc đã tuyên bố một
tư tưởng cách mạng có thể đổi mới xã hội: "Trong hoàn cảnh đói khổ của những
người đồng bào, đồng chủng, nếu ta giữ một vật gì mà ta không cần dùng đến ngay
bây giờ thì đó là những của chúng ta ăn cắp".
Sống trong hoàn cảnh
kinh tế khó khăn hiện nay, tinh thần liên đới và sự sẵn sàng chia sẻ cơm ăn áo
mặc cho những người cần đến là những ngọn đuốc sáng, là những đức tính giúp người
Kitô chúng ta đóng trọn vai trò men trong bột ở giữa xã hội chúng ta đang sống.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật V Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: Jer 31:31-34; Heb
5:7-9; Jn 12:20-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự vâng phục và đau khổ mang lại ơn Cứu Độ cho con người.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhiều người khinh thường sự vâng phục và
chạy trốn đau khổ. Nhiều người thời đại cho vâng lời là yếu đuối và giới hạn tự
do của họ. Vì thích hưởng thụ, nên họ cũng trốn tránh mọi gian khổ và từ chối
phải hy sinh cho người khác. Nhưng họ phải hiểu: Nếu một trẻ nhỏ chưa đủ trí
khôn suy xét, em phải vâng lời cha mẹ để tránh được những hậu quả xấu sẽ xảy
ra; tương tự như vậy cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa: vì con người
không thể hiểu những bí nhiệm trong trời đất, vâng lời Thiên Chúa là chuyện tự
nhiên phải làm, nếu họ không muốn gánh chịu các hậu quả không hay xảy đến. Hơn
nữa, nếu cha mẹ hay những người đi trước cũng sống ích kỷ và trốn tránh đau khổ,
làm sao họ có mặt trong cuộc đời, và được hưởng những tiện nghi và địa vị như họ
có bây giờ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy những lợi ích do vâng lời và chịu đựng
đau khổ mang lại. Trong Bài Đọc I, dân tộc Israel đã hủy bỏ giao ước mà Thiên
Chúa đã ký kết với họ trên núi Sinai, khi họ không vâng phục Lề Luật của Thiên
Chúa. Nhưng vì yêu thương nên Ngài sẽ ký kết họ một giao ước mới để giúp họ dễ
nhớ và dễ làm hơn, bằng cách khắc ghi Lề Luật trong tâm trí của họ. Trong Bài Đọc
II, tác giả Thư Do-thái xác quyết: Vì Chúa Giêsu vâng lời làm theo ý Chúa Cha
và chịu đựng đau khổ, Ngài đã đem lại ơn cứu độ cho những ai vâng lời Người.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra ích lợi của việc vâng lời và chịu đau khổ
qua hình ảnh của hạt giống: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự
khác biệt giữa giao ước mới và cũ
1.1/ Lý do tại sao giao ước cũ ra vô hiệu: Giao ước là những cam kết giữa hai
bên về những bổn phận và quyền lợi của mỗi bên. Nếu một bên không chu tòan bổn
phận, giao ước sẽ trở nên vô hiệu và vị hủy bỏ. Trong giao ước Thiên Chúa ký kết
với dân trên núi Sinai, Chúa hứa sẽ săn sóc và bảo vệ Israel nếu họ
tuân giữ Lề Luật Ngài ban cho dân qua Moses. Dân đã hủy bỏ giao ước này vì họ
đã không tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa. Tiên-tri Jeremiah nhìn thấy trước
ngày Chúa sẽ thiết lập một giao ước mới với dân khi ông tuyên bố: “Này sẽ đến
những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Judah một
giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm
tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu
Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa.”
1.2/ Sự khác biệt giữa giao ước mới và cũ: Có một sự khác biệt nhỏ giữa Bản Bảy
Mươi và Bản Do-thái: Bản Bảy Mươi nói rõ “ghi trong trí não;” trong khi Bản
Do-thái dùng chữ tổng quát “bên trong, kêreb.” Vì thế, điều khác biệt giữa hai
giao ước là: Trong giao ước mới, Lề Luật được khắc trong trí và trong tim con
người; trong giao ước cũ, Lề Luật được khắc trên bia đá, ở ngòai con người. Nếu
Lề Luật được khắc ghi vào tận trí và tim con người, tất cả đều biết Thiên Chúa,
và không cần phải dạy bảo nhau hay nói "Hãy học cho biết Đức Chúa."
Con người của giao ước cũ phải học cho biết Lề Luật, và sau khi đã biết Lề Luật,
họ vẫn vi phạm, vì không có sức mạnh từ bên trong để thi hành. Con người của
giao ước mới không cần phải học mới biết vì Lề Luật đã được ghi khắc vào tâm
trí, và họ có sức mạnh từ bên trong để thi hành Lề Luật. Đa số các học giả Kinh
Thánh và thần học đều cho Lề Luật đề cập ở đây là Giới Luật Yêu Thương của Tân
Ước, cách cụ thể là hai giới luật “Mến Chúa yêu người.” Một khi con người có
tình yêu, họ có sức mạnh từ bên trong để chu tòan mọi Lề Luật. Thánh Thomas
Aquinô giải thích: Luật yêu thương không những giữ tay con người đừng phạm tội,
mà còn kềm chế cả trí óc con người, để đừng ham muốn hay làm thiệt hại tha
nhân.
2/ Bài đọc II: Sự
vâng phục của Đức Kitô mang lại ơn Cứu Độ cho con người.
2.1/ Chúa Giêsu vâng lời Thiên Chúa Cha: Cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật
cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu, khi Ngài kêu xin lên Thiên
Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này.
Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26:39, Mk 14:36, Lk
22:42). Tác giả Thư Do-thái cũng tường thuật cuộc chiến đấu và sự vâng lời của
Chúa Giêsu: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc
lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.
Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.” Sự kiện này cho ta thấy ngay cả
Chúa Giêsu, trong thân phận con người, cũng không dễ để từ bỏ ý riêng mình,
vâng lời và làm theo thánh ý Chúa Cha. Chỉ có một điều giúp Chúa Giêsu vượt qua
cuộc chiến đấu là tình yêu Ngài dành cho Chúa Cha, và sự xác tín của Ngài vào Kế
Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
Nếu từ bỏ ý mình đã khó, ôm lấy đau khổ còn khó hơn. Tác giả Thư Do Thái cho thấy
sự liên quan giữa vâng lời và đau khổ: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải
qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Từ bỏ ý mình là đã phải
chịu đau khổ rồi; từ bỏ ý mình và chấp nhận chịu đau khổ, còn đau khổ hơn nữa.
Một cuộc đời vâng lời chịu đựng đau khổ như thế giúp con người hòan tòan tin tưởng
nơi Thiên Chúa và sinh ích cho mọi người.
2.2/ Những ai vâng lời Chúa Giêsu sẽ được hưởng ơn Cứu Độ:
- Sự vâng lời của Đức Kitô mang lại ơn cứu độ cho con người: Nếu Chúa Giêsu
không chấp nhận con đường Thập Giá, Ngài sẽ không thể mang lại ơn cứu độ cho
con người.
- Để được hưởng ơn cứu độ, con người phải vâng phục Đức Kitô: Nếu con người
không tin Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến để đổ máu cứu chuộc con người, con
người sẽ không được hưởng ơn Cứu Độ.
3/ Phúc Âm: Khi
Chúa Giêsu chịu giương cao trên Thập Giá, Ngài sẽ kéo con người lên theo.
3.1/ Vinh quang đạt được qua vâng lời và chịu đau khổ: Trình thuật mở đầu với sự
mong muốn của mấy người Hy-lạp được gặp Chúa Giêsu. Đặc tính của người Hy-lạp
là tìm kiếm sự khôn ngoan, họ lang thang bất cứ đâu họ nghĩ có sự khôn ngoan để
học. Họ chắc chắn đã được nghe về Chúa Giêsu và hôm nay tìm đến để học sự khôn
ngoan của Ngài. Họ không thất vọng, vì Chúa Giêsu dạy cho họ 3 điều khôn ngoan
họ sẽ không tìm thấy ở bất cứ nơi nào:
(1) Phải chết đi mới đem lại sự sống: Con người ham sống và sợ chết; nhưng theo
Luật Thiên Chúa, phải chết đi trước mới có thể sống và mang lại sự sống. Chúa
Giêsu dạy: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác.” Nếu một người sợ chết, họ sẽ không bao giờ biết sống; nhưng nếu một
người không sợ chết, họ sẽ sống và sống dồi dào. Họ sẽ không sợ bất cứ một quyền
lực nào cả.
(2) Phải hy sinh cho đi mới mong được nhận lại: Tục ngữ Việt-nam dạy “Hòn đất
ném đi, hòn chì ném lại.” Nếu người khác đã hy sinh lo cho mình, mình phải hy
sinh đền trả lại cho hợp lẽ công bằng. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ
phải bắt đầu trước bằng cách hy sinh cho người khác, và không cần trả ơn để
Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời sẽ trả ơn. Những người ích kỷ chỉ biết vun quét
cho mình, sẽ dần dần bị người khác nhận ra và khai trừ, và họ sẽ mất cuộc sống
đời sau như lời Chúa nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
(3) Phải phục vụ mới mong được quý trọng: Con người thích được phục vụ và được
người khác quý trọng, nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy;
và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ
quý trọng người ấy.” Họ không thể thích cả hai; nếu muốn được quý trọng, họ phải
hy sinh để phục vụ mọi người. Người hy sinh phục vụ mọi người sẽ được Thiên
Chúa và mọi người quý trọng và thương yêu.
3.2/ Cuộc chiến đấu để từ bỏ ý mình của Chúa Giêsu:
(1) Vâng theo thánh ý để Thiên Chúa được vinh quang: Thánh-sử Gioan không tường
thuật cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu, những gì Ngài tường thuật
hôm nay thay thế cho biến cố đó. Chúa Giêsu bị đặt trước hai con đường: hoặc
theo ý mình bằng cách xin Chúa Cha cứu cho thóat khỏi Cuộc Thương Khó tàn bạo sắp
xảy ra, hoặc chấp nhận tiến tới để danh Cha được vinh quang. Ngài tâm sự với
các mô đệ: "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy
Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha,
xin tôn vinh Danh Cha."
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn
tôn vinh nữa!" Chúa Cha luôn làm chứng cho Chúa Con trước mặt mọi người,
trong những biến cố quan trọng như khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, khi Chúa Giêsu
Biến Hình, và trước Cuộc Thương Khó của Ngài. Dân chúng lẫn lộn khi nghe tiếng
Chúa Cha làm chứng, có người nói: "Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo:
"Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" Đức Giêsu đáp: "Tiếng
ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.” Khi Cuộc Thương Khó xảy đến,
họ biết đó là ý định của Thiên Chúa, chứ không do sức mạnh và quyền lực của thế
gian.
(2) Chịu đựng đau khổ để con người được cứu độ: Ngòai việc vâng lời để làm vinh
quang Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn muốn chịu đau khổ để con người được cứu độ. Vì
tội không vâng phục của con người, Adam cũng như tất cả mọi người, con người sống
dưới quyền lực của ma quỉ và ách nô lệ của tội lỗi và sự chết. Bằng việc chấp
nhận Cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu gánh tội cho con người, kéo họ ra khỏi quyền lực
của Satan, tên thủ lãnh thế gian, và đưa mọi người về cho Thiên Chúa. Chúa
Giêsu tuyên bố: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo
mọi người lên với tôi." Khi Chúa Giêsu chịu giương cao trên Thập Tự, đó là
lúc Thiên Chúa đánh bại quyền lực của quỉ thần để giải thóat con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi có sự xung đột ý kiến, chúng ta phải từ bỏ ý mình và làm theo ý Chúa, vì
chúng ta biết ý Thiên Chúa luôn là ý khôn ngoan hơn ý chúng ta và chắc chắn dẫn
đến điều tốt lành.
- Như Chúa Cha và Chúa Con đã vì yêu thương, hy sinh chịu gian khổ để mang lại
ơn cứu độ cho con người, chúng ta cũng phải yêu thương và chịu đựng gian khổ để
mọi người nhận biết Danh Chúa và làm cho Nước Chúa mau trị đến.
- Bất tuân Thiên Chúa và sống ích kỷ là hai cách nhanh nhất đưa con người tới
chỗ diệt vong.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác
(Ga 12,24)
Suy niệm:
Lời Chúa hôm nay cho
chúng ta thấy “được” thì phải “mất”, bởi vì có mất thì mới nhận được thành quả
của việc để mất đó. Nghe qua có vẻ ngược đời, nhưng Chúa Giêsu đã giải thích rõ
cho chúng ta thấy. Như hạt lúa rơi xuống đất nếu nó không chết đi, không tróc vỏ
bên ngoài thì mầm không thể nẩy và lớn lên được thành cây sinh nhiều bông hạt.
Hạt giống phải mục
nát mới sinh nhiều bông hạt. Chúa Giêsu cũng chết đi để cho con người có được sự
sống đời đời và Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy chết đi mỗi
ngày với Chúa. Ai yếu mến mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất, còn ai ghét mạng
sống mình ở đời này thì sẽ có được sự sống đời đời. Điều Chúa Giêsu muốn nói
không phải muốn dạy ta ghét bỏ và hủy hoại mạng sống mình ở đời này. Thân xác
chúng ta phải trân trọng và gìn giữ vì chúng ta ý thức được đó là đền thờ của
Thiên Chúa. Trân trọng và giữ gìn chứ không phải là chiều chuộng và thỏa mãn những
đòi hỏi của thể xác. Vì vậy chúng ta chiều chuộng thân xác mình thì sẽ mất đi sự
sống đời đời mà Chúa Giêsu đã dùng giá máu của Ngài trên thập giá để đổi lấy mạng
sống cho chúng ta, cứu chúng ta khỏi sự chết.
Chấp nhận mất sự sống
đời này, chấp nhận chết đi là phải chịu vất vả khó nhọc, chịu đau đớn với những
từ bỏ, chính vì sợ những điều này mà chúng ta ngại hy sinh cố gắng và từ bỏ.
Trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng. Chết đi
cho tội lỗi là dứt bỏ những dục vọng đam mê trái luật Chúa, tránh xa những nơi
chốn và con người lôi kéo chúng ta phạm tội. Chấp nhận “cái mất” hiện tại chóng
qua để có những “cái được” vĩnh cửu trong tương lai. Như thánh Phaolô đã nói
“Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần
thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát.” (1Cr
9,25).
Chúng ta chỉ có thể kết
hiệp với Chúa trọn vẹn khi từ bỏ ý riêng để hoàn toàn làm theo ý Chúa, mà từ bỏ
ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Nó
đòi chúng ta ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp
cho mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Chịu mất bản thân mình, mất điều tầm thường
để được chính Chúa. Và chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng
không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi.”
Bạn và tôi, chúng ta
hãy đặt mình trước sự hiện diện của Chúa để thấy mình cần bỏ những gì đang cản
bước tiến của chúng ta đến nguồn sống vĩnh hằng là chính Chúa?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói nếu hạt lúa mì rơi xuống đất
không thối đi thì nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi thì nó sẽ sinh nhiều
bông hạt. Ước gì cuộc đời chúng con là hạt lúa được chôn vùi để nẩy sinh nhiều
bông hạt yêu thương cho Chúa và cho tha nhân. Amen
Suy Niệm
“Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi
thì nó vẫn trơ trọi một mình.
Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt”
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Ðó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ,
nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống?
Chết để sinh nhiều bông hạt ư?
Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?
Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn.
Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau,
nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
thì nó vẫn trơ trọi một mình.
Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt”
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Ðó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ,
nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống?
Chết để sinh nhiều bông hạt ư?
Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?
Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn.
Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau,
nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả
tôi lại thấy mình mất tất cả,
vì mất ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương,
tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt,
đó là buông ra và trao hiến.
Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ
ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ,
tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt
khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình,
ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình,
để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi:
“Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
tôi lại thấy mình mất tất cả,
vì mất ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương,
tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt,
đó là buông ra và trao hiến.
Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ
ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ,
tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt
khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình,
ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình,
để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi:
“Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ,
đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu,
những điều đó đã làm chính Ðức Giêsu dao động.
“Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến
Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng?
Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.” (c. 27)
Ðã có những giây phút giằng co, ngần ngại,
đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi.
Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện,
tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát.
Sau nhiều lần dám liều mất tất cả
để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều,
tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt
như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu,
những điều đó đã làm chính Ðức Giêsu dao động.
“Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến
Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng?
Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.” (c. 27)
Ðã có những giây phút giằng co, ngần ngại,
đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi.
Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện,
tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát.
Sau nhiều lần dám liều mất tất cả
để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều,
tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt
như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Ðức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài,
kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Ðã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Ðã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Ðể chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Ðấng Tuyệt Ðối và tha nhân. Amen.
Ðể chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Ðấng Tuyệt Ðối và tha nhân. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
Ngày 25
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY
Như hành động giải phóng, trước đó không đạt được gì cả. Thánh
Gioan nói trong Phúc Âm ngày hôm nay, Đức Giêsu "xao xuyến", nhấn
manh đến sự thật về con người Đức Giêsu ngay giây phút quyết định: "Tôi phải
nói gì đây?" Câu trả lời của Người là khao khát được sống: "Chính vì
giờ này mà Tôi đã đến", để thành một người sống động. Đó là một tiếng
"Thưa vâng" cho cuộc sống mà Người mang lấy, báo trước việc trao lại
vào trong tay Thiên Chúa trên thập giá. Việc công nhận do Con của Chúa Cha cho
phép Đức Giêsu bảo đảm nhận thức là con người trong Người: "Lạy Cha, xin
hãy tôn vinh Danh Cha!"
Trong thái độ duy nhất trước mặt Thiên
Chúa, trong việc công nhận của con người ngang qua sự công nhận của Thiên Chúa
là Cha, Đức Giêsu mở cho con người con đường cứu độ: Người ban cho họ căn tính
là "người". Đó là câu trả lời cho câu hỏi mà mỗi người tự đặt cho
mình: "con người" là gì?" Câu hỏi mang tầm phổ quát: "Đối với
Tôi, một khi Tôi được nâng lên cao, Tôi sẽ kéo mọi người đến với Tôi" Câu
hỏi để sống và hiểu đối với từng người, trong lịch sử đơn thuần của họ, “bây giờ"
thuật ngữ này được lập lại trong bản văn. Chỉ vì, khi sống tình huynh đệ, tất cả
thời gian đều là biết ơn.
Daniel Duigou - La Croix
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét