Ngày 19 tháng 3
Lễ Thánh Cả Giuse
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ
phụ Người".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng:
"Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn,
ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế
vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một
ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố
đến muôn đời. Ta
sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của
ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi
mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến
muôn đời (c. 37).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời;
qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán:
"Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết
lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề
cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của
ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và
Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng
ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa
ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ
sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời
hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà
còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có
lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng
ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu
tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã
phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể
như sự công chính.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi
nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi
là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria
đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa
Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện
đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận
Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ
sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi
tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm
cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ
Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng
ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu
đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong
nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người
trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai
ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.
Sau ba
ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ,
nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu
biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ
Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha
Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng:
"Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của
Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo
hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.
Ðó là lời
Chúa.
Lễ Thánh Giuse
Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
(Mt 1, 16.18-21.24a)
Hôm nay
Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần
trong các sách Tin Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn
vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức
Maria.
Thánh
Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của
Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria
là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú
lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền
ấy có vẻ ngang trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình;
khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth , thánh Giuse luôn luôn trung thành với
thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa gọi thì
Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là một người
sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác
Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Và quả thật,
nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được
diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn
sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh
Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy
luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy
con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và
biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong
gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ
Giáo Hội Việt Nam
trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa
lòng dân tộc.
Ðức Thánh
Cha Nói Về Gương Thánh Giuse:
Anh chị em
rất thân mến,
Ngày 19
tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ
trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như
là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.
Trước hết,
thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh
Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên
Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin
tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được
rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Hơn nữa,
chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục,
một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn
khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây
bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc
lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết
bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu
mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh
Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế,
đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai
trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong
trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều
có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ
đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi
cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực
hiện "tình cha thiêng liêng".
Nguyện xin
thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước
tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những
ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse
hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu
cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của
Ðấng Cứu Chuộc.
+ Gioan
Phaolô II
(Lễ Thánh
Giuse năm 2002)
(bản dịch
của Nguyễn Việt Nam )
Thánh
Giuse, Mẫu Gương Ðời Sống Nội Tâm
Cho Những Người Cha:
Trong buổi
đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 17/3/2002, Ðức Thánh Cha nhận định rằng
Thánh Giuse là mẫu gương đời sống nội tâm cho những người cha muốn hoàn thành
nhiệm vụ trong gia đình và xã hội.
Ngày thứ
Ba 19/3/2002, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kính Lễ Thánh Giuse, dưỡng phụ
của Chúa Cứu Thế. Ở một số nước, ngày lễ này cũng là ngày Hiền Phụ.
Trước khi
đọc kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô,
Ðức Thánh Cha nhận xét rằng thánh Giuse đã có một đức tin mãnh liệt vào Thiên
Chúa khi được thiên thần báo mộng hãy chấp nhận Ðức Maria như hiền thê của
ngài. Tuy nhiên, "sự vô cùng tế nhị mà thánh Giuse đã thực thi trong vai
trò được Thiên Chúa trao phó cho ngài còn làm rõ hơn nữa đức tin của
ngài."
Từ cửa sổ
phòng làm việc, Ðức Thánh Cha giảng rằng đức tin của người thợ mộc thành Nazareth "luôn bao gồm
sự lắng nghe lời Thiên Chúa, tìm hiểu ý định của Ngài và vâng phục với tất cả tấm
lòng và nghị lực".
"Ðó
là lý do tại sao Tin Mừng mô tả ngài như một người công chính. Thực vậy, người
công chính là người cầu nguyện, sống đức tin, và tìm cách thực thi điều thiện hảo
trong mọi tình huống cụ thể của cuộc đời".
"Gia
tài quý giá mà thánh Giuse truyền lại cho chúng ta là đức tin được nuôi dưỡng bằng
lời cầu nguyện".
"Các
thế hệ của những người cha đã theo bước chân của ngài, họ là những người mà mẫu
gương của một đời sống đơn sơ và cần lao in đậm trong tinh thần con cái họ giá
trị khôn lường của đức tin, mà nếu không có được đức tin ấy thì những điều lành
khác trở nên vô ích".
Ðức Thánh Cha
kết luận:
"Vì
thế, giờ đây, tôi vui mừng đoan chắc sẽ cầu nguyện cách đặc biệt cho những người
cha trong ngày dành riêng cho họ: Tôi cầu xin cùng Thiên Chúa rằng họ sẽ là những
người có một đời sống nội tâm mạnh mẽ, những người thực thi sứ vụ của họ trong
gia đình và ngoài xã hội trong cách thế gương mẫu".
+ Gioan
Phaolô II
(Bản dịch
của Nguyễn Việt Nam )
19/03/12
THỨ HAI TUẦN 4 MC
Th. Giuse, bạn trăm năm Đức Maria
Mt 1,16-18.21.24a
Th. Giuse, bạn trăm năm Đức Maria
Mt 1,16-18.21.24a
VẺ
ĐẸP TÂM HỒN THANH KHIẾT
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1,24)
Suy niệm: Người ta thường nói: “Sống sao mơ vậy.” Chẳng hạn: chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cả ngày suy nghĩ về Chúa Giêsu, đêm đến chị thường mơ những cảnh nô đùa với trẻ thơ, đi dạo giữa các vườn hoa. Có lần chị hỏi Mẹ bề trên: “Tại sao cả ngày con ngẫm nghĩ về Chúa, nhưng con chẳng bao giờ mơ thấy Chúa cả?” Mẹ bề trên trả lời: “Con ơi! Với tâm hồn thơ bé như con thì Chúa gửi đến những hình ảnh bé thơ đến với con.” Cũng vậy, là “người công chính,” Thánh cả Giuse bén nhạy với thánh ý Chúa, lắng nghe tiếng Chúa cả trong giấc mộng, để khi tỉnh giấc, thì sẵn sàng thi hành ý Chúa qua giấc mơ đó: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.”
Mời Bạn: Sẵn lòng vâng theo lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh để làm hài lòng Ngài, ngay cả trong giấc mơ, là một đặc điểm của thánh Giuse. Noi theo gương Thánh Giuse, bạn hãy bén nhạy nhận ra Chúa đang nói với bạn, đang mời gọi bạn đi theo Ngài, đặc biệt sau một sự kiện hay sau khi đọc Lời Ngài. Bạn hãy tìm mọi cách thực thi thánh ý Chúa để đẹp lòng Ngài.
Chia sẻ: Sống sao mơ vậy. Nếu thường mơ làm điều bậy, bạn phải điều chỉnh thế nào?
Sống Lời Chúa: Tôi xét xem trong hoàn cảnh hiện nay, Chúa mời gọi tôi làm gì để đem lại hạnh phúc cho người thân cận của mình, tôi sẽ nỗ lực thực hiện trong mùa Chay này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa hài lòng khi thấy Thánh Giuse luôn chu toàn ý Chúa. Xin cho chúng con cũng biết đặt thánh ý Chúa hơn sở thích riêng tư và cố gắng làm trọn thánh ý đó. Amen.
Thánh Giuse trở nên công chính
nhờ niềm tin vào Thiên Chúa
Mt 1:16, 18-21, 24a.
Con người luôn bị giằng co giữa hai thái cực:
một bên là đức tin tuyệt đối vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa, một bên là sự
suy luận theo lý trí của con người. Khi có sự xung đột, con người phải chọn
đàng nào? Nhiều người cho họ chỉ tin những gì lý trí con người có thể hiểu được;
ngoài ra là mê tín dị đoan. Nhưng Thiên Chúa đã tuyên sấm qua miệng tiên tri
Isaiah: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của
Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, tư
tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các người như vậy” (Isa 55:8-9). Lịch sử
nhiều lần chứng minh: vâng lời làm theo ý Thiên Chúa mang lại những kết quả quá
lòng mong đợi của con người; ngược lại, bất tuân thánh ý Thiên Chúa để làm theo
ý riêng mình sẽ gây ra muôn vàn khổ đau cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những mẫu gương của những người thi
hành thánh ý Thiên Chúa cho dẫu họ không hiểu kế hoạch của Ngài. Trong Bài Đọc
I, Thiên Chúa hứa với vua David dòng dõi ông sẽ làm vua cai trị tới muôn đời.
Điều này được thực hiện qua Đức Kitô, Ngài thuộc dòng tộc David và sẽ cai trị tới
muôn đời. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi đông
như sao trên trời, trong khi ông chỉ có hai người con duy nhất: Isaac bởi Sarah
và Ismael bởi Hagar. Lời hứa này cũng được làm trọn nơi Đức Kitô, tất cả những
ai tin vào Đức Kitô, họ trở thành con cháu của tổ phụ Abraham. Trong Phúc Âm,
thánh Giuse chấp nhận đón Đức Mẹ về chung sống; sau khi được sứ thần của Thiên
Chúa cho biết việc Đức Mẹ chịu thai là do quyền năng của Thánh Thần.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhà của ngươi và
vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta.
1.1/ Lời Thiên Chúa hứa với vua David: Sau khi đã ổn định đất nước,
vua David nói với tiên tri Nathan ý định muốn xây nhà cho Thiên Chúa tại thành
của David; nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng:
"Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Khi ngày đời
của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng
lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra - và Ta sẽ làm cho vương quyền
của nó được vững bền.”
Không phải David sẽ xây nhà cho Thiên Chúa; nhưng chính Thiên
Chúa sẽ xây nhà cho ông. Nhà ở đây ám chỉ dòng dõi của David; từ dòng dõi này sẽ
xuất hiện Đấng Thiên Sai và uy quyền cai trị sẽ tồn tại đến muôn đời.
1.2/ Lời Hứa của Thiên Chúa: Thiên Chúa cho biết người sẽ xây
nhà cho Ngài là Solomon, con kế vị của vua David: “Chính nó sẽ xây một nhà để
tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với
nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của
ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi
mãi."
Lời Hứa của Thiên Chúa bị đe doạ bởi sự bất trung của hậu duệ của
vua David. Có những lúc tưởng chừng như nhà David sẽ hết người nối ngôi, như thời
kỳ bị lưu đày; nhưng Thiên Chúa vẫn quan phòng cách khôn ngoan, cho đến ngày Đấng
Thiên Sai ra đời từ dòng dõi David.
2/ Bài đọc II: Abraham được lời
hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.
2.1/ Đe dọa của niềm tin: Khi Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham
một dòng dõi, ông vẫn chưa có lấy một người con dù đã quá tuổi sinh con (Gen
15). Làm sao một người có thể có con đông như sao trên trời và như cát dưới biển,
khi chưa có lấy một người con trong lúc tuổi già?
2.2/ Đức tin của tổ phụ Abraham: Nhưng Abraham hoàn toàn tin vào
Lời Thiên Chúa hứa, và đó là lý do Abraham được trở nên công chính, như lời
thánh Phaolô viết: “Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa
cho ông Abraham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời
hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.”
Thánh Phaolô muốn đả phá một quan niệm sai lầm của người
Do-thái: con người trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngài
dùng chính những gì đã xảy ra cho Abraham để đả phá quan niệm này:
(1) Lời Hứa được Thiên Chúa ban cho Abraham cách nhưng không:
Abraham không làm gì để xứng đáng được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, như
Phaolô xác tín: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế
lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông
Abraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có
lòng tin như ông.” Hơn nữa Lề Luật được Thiên Chúa ban cho con người sau này,
thời của Moses trong cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai-cập. Thời của Abraham, làm gì đã
có Lề Luật để tuân giữ!
(2) Dòng dõi Abraham được trở nên đông đúc không do di truyền;
nhưng do bởi niềm tin của các tín hữu vào Đức Kitô. Phaolô viết: “Ông là tổ phụ
chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc.
Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ
chết được sống và khiến những gì không có hoá có.”
(3) Con người trở nên công chính bằng đức tin: Abraham không sống
trên dương gian để nhìn thấy Lời Thiên Chúa được thực hiện; hơn nữa, Abraham
còn chịu rất nhiều thử thách đe doạ niềm tin này. Ví dụ, việc Thiên Chúa muốn
ông sát tế Isaac, con ông, trên núi Moriah. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn và thử
thách, “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó
ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi
sẽ đông đảo như thế. Bởi thế, ông được kể là người công chính.”
3/ Phúc Âm: Khi tỉnh giấc,
ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
3.1/ Đức tin của Giuse bị thử thách: Cuộc đính hôn của thánh
Giuse với Đức Mẹ chắc chắn được Thiên Chúa quan phòng; nhưng Giuse không thể chấp
nhận việc Đức Mẹ mang thai khi hai người chưa ăn ở với nhau.
(1) Tình trạng pháp lý: Truyền thống Do-thái về việc cưới hỏi
cũng giống như phong tục của Việt-nam. Có ba giai đoạn trong việc cưới hỏi: thứ
nhất là giai đoạn hứa hôn, được làm bởi cha
mẹ hai bên khi hai trẻ vẫn còn nhỏ. Giai đoạn này không bị ràng buộc nếu sau
này một trong hai trẻ không đồng ý tiến tới; thứ hai là giai đoạn đính hôn, thường kéo dài trong khoảng một năm.
Theo Luật Do-thái, hai người chính thức thành vợ chồng tuy chưa ăn ở với nhau;
nếu muốn ly dị phải theo thủ tục pháp lý. Thánh Giuse và Mẹ Maria ở trong giai
đoạn này. Sau cùng là giai đoạn kết hôn, khi hai người ăn ở
với nhau.
(2) Cách giải quyết: Một điều Giuse biết chắc chắn là bào thai Đức
Mẹ đang cưu mang không phải là của mình. Là người công chính, Giuse không thể
chấp nhận bào thai của Đức Mẹ, và ông có hai cách để giải quyết: hoặc tố cáo và
Đức Mẹ sẽ bị ném đá vì tội ngoại tình, hoặc bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Vì có lòng
nhân từ, Giuse không muốn Đức Mẹ bị ném đá, ông “định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
3.2/ Đức tin của Giuse: Khi ông đang toan tính như vậy, thì sứ
thần Thiên Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu
David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền
năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."
Để hiểu việc làm của Giuse, chúng ta cần tìm hiểu truyền thống
Do-thái hiểu biết về Thánh Thần. Theo Kinh Thánh, Thánh Thần có ít nhất 4 nhiệm
vụ như sau:
(1) Ngài là người mang sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người
(Exo 31:3; Num 11:25; 27:18; Deut 34:9; 1 Sam 10:10; 2 Sam 23:2; Job 32:8; Psa
32:2);
(2) Làm cho con người hiểu biết sự thật (Gen 41:38; Num 24:2;
Psa 32:2; Joel 2:28; Lk 12:12; Jn 14:17; 15:26);
(3) Ngài cùng với Thiên Chúa tạo dựng (Gen 6:3; Jdg 14:6; 1 Sam
11:6; Job 27:3; 33:4; Psa 33:6; 104:30);
(4) Tái tạo dựng con người (Gen 1:2; Jdg 6:34; 11:29; 13:25;
15:9; 1 Sam 10:6; Psa 51:10; 143:10; Job 33:4; Eze 37:1-14; Acts 2:1-4).
Thấm nhuần truyền thống trên, Giuse chấp nhận bào thai của Đức Mẹ
dẫu biết bào thai không phải là của mình, ông cũng không đòi cắt nghĩa “việc chịu
thai bởi Chúa Thánh Thần;” nhưng tin Thánh Thần là nguyên nhân tạo dựng bào
thai đó. Suốt cuộc đời chăm sóc Đức Mẹ và Chúa Giêsu, thánh Giuse luôn để Chúa
Thánh Thần hướng dẫn mọi việc và vâng lời làm theo những gì sứ thần truyền.
Kinh Thánh tường thuật ba sự kiện: thứ nhất, thánh Giuse chấp nhận đính hôn với
Đức Mẹ để trở thành cha nuôi của Đấng Cứu Thế; thứ hai, thánh Giuse chấp nhận
đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai-cập lúc đang đêm; ngài không nại lý do
đang đêm hay làm gì sinh sống nơi đất lạ quê người; sau cùng, ngài chấp nhận
đưa gia đình hồi hương và lập nghiệp tại Nazareth; không than phiền phải di
chuyển đến nơi ở mới một lần nữa.
Nói tóm, tuy thánh Giuse không để lại một lời nào cho hậu thế;
nhưng ngài để cho chúng ta một tấm gương luôn biết lắng nghe và mau mắn thi
hành Lời Chúa. Ngài hoàn toàn tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa, và khiêm tốn
thi hành những gì Thiên Chúa truyền, vì Ngài biết trí khôn của mình không thể
hiểu nổi sự quan phòng của Thiên Chúa.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa
và vào Đức Kitô; chứ không nhờ những việc chúng ta làm.
- Thử thách và đau khổ trong cuộc đời là những cơ hội giúp chúng
ta chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết sống theo sự hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần.
- Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài hứa; vì thế,
chúng ta cần đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài.
Anthony Đinh Minh Tiên OP.
_____________________________________________________________________________________________
Này ông Giuse, con cháu
Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền
năng Chúa Thánh Thần (Mt 1,20)
Suy niệm:
Thánh Giuse nêu gương
cho chúng ta về nhiều điểm:
Một người luôn làm
theo ý Chúa: theo khuynh hướng tự nhiên, việc tuân theo ý Chúa để nuôi dưỡng Đức
Maria và Chúa Giêsu là điều rất khó, vì Đức Maria không phải là vợ của thánh
Giuse theo đúng nghĩa, và Chúa Giêsu không phải là con ruột của Người. Nhưng
Thánh Giuse đã nuôi dưỡng hai Đấng, không phải một cách miễn cưỡng mà hết sức
chu đáo.
Một người chu toàn
nhiệm vụ cách âm thầm: Trong các sách Tin Mừng, chúng ta không nghe Thánh Giuse
nói một lời nào, cũng không thấy Giuse được vinh dự gì nổi bật. Lời nói của Người
là làm bổn phận, vinh dự của Người là chu toàn bổn phận, niềm vui của Người
cũng là chu toàn bổn phận.
Giáo Hội coi Thánh
Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Người đã giữ gìn Đức Maria. Người
cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
Có một người làm
công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm
một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ
càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000
đồng một tháng. Sau một hồi vãng cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến
ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét
lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ
khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê
người quét lá rừng nữa. Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong
xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên
ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người
quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng
người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh... Cả thành phố trở nên
buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường
để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu
quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt
đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm... Và ngay hôm
đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.
“Này ông Giuse là con
cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần”
Lời loan tin của sứ
thần nhằm giải thích Đức Giêsu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài thuộc dòng
họ Đavit để cứu dân Ngài. Thánh Giuse, vì tin nên đã đón nhận làm theo Thánh Ý.
Người đã âm thầm cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Quả là một mẫu
gương về lòng khiêm nhường và một niềm tin mạnh mẽ nơi Thánh Giuse đáng để mỗi
người Kitô hữu chúng ta noi theo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Ngài đã ban cho thánh Giuse ơn đức tin, lòng
khiêm tốn để Người dám tin tưởng và tín thác vào Chúa. Xin Chúa cũng ban cho mỗi
người chúng con biết tin yêu và phó thác vào một mình Thiên Chúa là Đấng đem ơn
cứu độ, Đấng giải thoát chúng con khỏi ách gông cùm của tội lỗi. Xin cho chúng
con can đảm phó thác đời mình cho Chúa, ngay cả khi chúng con chưa hiểu hết
Thánh Ý nhiệm mầu. Xin cho chúng con biết cộng tác phần mình vào ơn ban của
Chúa, để tình thương và ơn cứu độ của Chúa được nhiều người biết đến qua cuộc sống
của chúng con.
Suy niệm:
Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần”(c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần”(c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Ngày 19
THÁNH GIUSE,
BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
THÁNH GIUSE,
BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Thánh Giuse cho thấy một linh hồn và cuộc sống nội tâm được
Thiên Chúa Cha ưu thích nhờ Ngôi Lời nhập thể.
Đây là mục đích duy nhất được áp dụng trong sự đơn sơ và từ bỏ:
vì Ngôi Lời hòa nhập vào những xáo trộn của chúng ta để giúp chúng ta bước vào
sự đơn sơ của Người.
Thánh Giuse là người đầu tiên đã bước vào: chính ân sủng, trong
Ngôi Lời nhập thể, và một ân sủng khác trong Chúa Cha, nhờ đó người được xếp đặt
vào điều đã có trong Ngôi Lời.
Thánh Giuse đã tự giấu mình đi và cũng đã che giấu Ngôi Lời nhập
thể, cho đến khi nhân tính thánh thiện của Người đến tuổi rao giảng. Lúc đó
thánh Giuse sẽ biến đi.
Thánh Giuse đã làm việc trong thinh lặng, xây dựng Giáo hội
trong vòng 30 năm như người chủ gia đình, trên gia đinh này cả tòa lâu đài được
xây cất (Ngôi Lời nhập thế là viên đá góc). Ngài là người thợ chính.
Và khi chăm sóc cho Đức Kitô được lớn lên, ngài cũng tham gia
vào việc xây dựng Giáo hội, cũng theo cách này mà Đền Thờ Giêrusalem được nâng
lên.
Mariedee la Trinité
Thánh Giuse
húc Âm
đã ca ngợi Thánh Giuse là người "công chính". Ý nghĩa của chữ
"công chính" rất sâu xa.
Khi
Phúc Âm nói Thiên Chúa "công chính hóa" người nào, điều đó có nghĩa
Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và "chính trực", biến đổi người đó bằng
cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được
Thiên Chúa yêu mến.
Khi nói
Thánh Giuse "công chính", Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở
lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện
vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.
Với những
gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo
đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người
đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.
Khi
Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không
trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng
là ngài dự định thi hành việc này "cách âm thầm" vì ngài là "một
người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ" (Mátthêu 1:19).
Người
công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa -- khi kết hôn với
Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi
đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức
tin và dũng cảm.
Vì
Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu,
nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu
sứ vụ rao giảng.
Thánh
Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ
trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều
mong ước khi từ giã cõi đời.
Thánh
Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc,
và vấn đề công bằng xã hội.
Lời
Bàn
Phúc Âm
không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét,
ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều
này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi
gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia
đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người
đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: "Ông ấy không
phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao...? (Mt 13:55a). Và "Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?" (Gioan 1:46b).
Lời
Trích
"Thánh
Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những
kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse.
Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi
người, và nói: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của
Thiên Chúa ngươi'" (Thánh
Bernadine ở
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét