Thứ Năm sau Chúa Nhật III Mùa Chay
Bài Ðọc
I: Gr 7, 23-28
"Này
là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".
Trích sách
Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa
phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên
Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối
mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc.
Nhưng họ
không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của
họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập
cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta
đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu
cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều
ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân
không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng
trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng
lòng (c. 8).
Xướng: 1)
Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra
trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. -
Ðáp.
2) Hãy tiến
lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta.
Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên
thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi
hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở
Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử
Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc
thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm:
Lc 11, 14-23
"Ai
không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân
chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta nhờ tướng
quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một
dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
"Nước
nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu
Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta
nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái
các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi.
Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến
giữa các ngươi rồi.
"Khi
có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó
được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết
khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận
với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Bằng cách
trừ quỷ, Ðức Giêsu chứng tỏ Ngài chính là Ðấng Cứu Thế đến giải thoát dân khỏi
ách thống trị của Satan. Qua phép lạ, đáng lẽ người Do thái nhận ra ánh sáng của
Thiên Chúa, nhận ra uy quyền nơi Ðức Giêsu, họ lại cắt nghĩa phép lạ theo một ý
lệch lạc. Họ nói Ðức Giêsu dùng quỷ vương mà trừ quỷ con, chỉ vì họ ghen tương
và cố chấp. Họ không nhìn nhận vương quyền của Ðức Giêsu. Chính thái độ cố chấp
ấy, họ sẽ chịu trách nhiệm và bị xét xử.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa,
rất nhiều khi vì ghen tương, ích kỷ, chúng con không nhìn nhận những giá trị tốt
đẹp nơi tha nhân. Chúng con tìm cách làm méo mó sự thật, làm bớt đi điều thiện
hảo. Xin cho chúng con có một cái nhìn tích cực và giúp phát huy tài năng nơi
anh chị em chúng con. Ðể trong tình yêu, mỗi ngày chúng con biết giúp nhau nên
hoàn thiện. Amen.
Tin Nhận Hay Từ Chối
Giáo hội
Nhật Bản rất anh dũng can trường, vì có nhiều vị tử đạo rất oanh liệt. Cuộc
bách hại kéo dài từ năm 1613 cho đến năm 1638, là năm mà hoàng đế Nhật Bản đang
trị vì lúc đó cho rằng: "Công giáo đã bị hủy diệt hoàn toàn". Không một
nhà truyền giáo nào được đặt chân lên trên đất nước Nhật Bản. Kể từ đó, 300 năm
sau, khoảng giữa thế kỷ XIX, thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi các nhà truyền giáo
được đặt chân lên nước Nhật lần II. Một biến cố đầy ý nghĩa đã được một linh mục
thừa sai kể lại như sau:
Tôi đang
giảng đạo Chúa cho một nhóm người tại Nagasaki, nghĩ rằng tất cả những người hiện
diện đều là những người không Công Giáo, nên sau bài giảng, tôi chân thành hỏi:
Có ai thắc mắc gì không?
Một người
giơ tay chất vấn: Chúng tôi xin được hỏi ông ba điều:
1. Ông có
tin Ðức Mẹ Ðồng Trinh hay không?
2. Ông có
vâng lời và hiệp thông với Ðức Thánh Cha hay không?
3. Là linh
mục, ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân hay không?
Sau khi
tôi trả lời chấp nhận cả ba câu hỏi trên thì người chất vấn cảm động thưa:
- Thưa
cha, tất cả chúng con đây đều là những người đồng đạo với cha. Chúng con đều là
những người Công Giáo cả.
Tôi không
cầm được nước mắt. Sau một lúc, tôi cố nén lòng lại và làm chủ được cảm xúc và
hỏi: Tại sao anh chị em lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?
Người đại
diện trong nhóm trả lời:
- Thưa
cha, vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng: Sau này có
ai đến giảng đạo, chúng con phải cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà đánh
giá xem họ có phải là các nhà thừa sai chân chính hay không? Nay chúng con quá
đỗi vui mừng vì cha đích thực là người được Hội Thánh sai đến. Chúng con sẽ
nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con đã truyền lại.
Anh chị em thân mến!
Những giáo dân Nhật Bản bị bỏ rơi trong một thời gian dài
hằng mấy trăm năm đã muốn dùng ba tiêu chuẩn của tổ tiên để lại, như ba dấu chỉ
cụ thể để thẩm định nhà truyền giáo đầu tiên đến với họ xem có phải là vị truyền
giáo mà tổ tiên của họ đã truyền lại cho họ hay không?
Ngược dòng thời gian, trở lại thời Chúa Giêsu, Ngài được
rao giảng sứ điệp cứu rỗi, chúng ta được chứng kiến biến cố tương tự, các tiên
tri đã loan báo trước cho dân chúng là khi Ðấng Cứu Thế đến, thì Ngài sẽ thực
hiện những dấu lạ: Cho kẻ câm nói được, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa
lành và Chúa Giêsu đã thực sự làm các phép lạ trên trước mặt dân chúng, trước mặt
các môn đệ và trước mặt cả những vị lãnh đạo các tôn giáo như các biệt phái, những
người Pharisiêu, để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng Thiên Sai được
mong đợi từ lâu. Tuy nhiên, có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác
động của Ngài. Họ cố tình giải thích lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho kẻ
khác đừng tin.
Qua bài
Tin Mừng hôm nay, mọi người đều phải có thái độ trước sự hiện diện của Chúa
Giêsu Kitô là: "Tin nhận hay từ chối". Cả trong thời đại hôm nay, mỗi
người chúng ta cũng phải có một thái độ rõ ràng đối với Chúa Giêsu Kitô. Ngài đến
với con người qua Giáo hội, qua những sứ giả được tuyển chọn, sai đi làm chứng
cho Người. Liệu chúng ta có đủ thành tâm và can đảm để cộng tác với ơn Chúa
Thánh Thần để tin nhận Chúa hay không?
Ðức cố Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng"
đã chia sẻ kinh nghiệm của mình như sau: Chúa là người, không phải là lý thuyết.
Chúa là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Cha năn nỉ, Cha
khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương. Chúa Giêsu là
tất cả của con, là cùng đích của ý hướng, là lý do các quyết định, là định luật
của tình cảm, là mẫu gương các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ trở
nên thánh.
Chúng ta
hãy cố gắng nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang tác động trong biến cố lịch sử của
nhân loại. Với Chúa cùng tiến bước, chúng ta sẽ vượt được các thử thách và về đến
đích điểm cách an bình.
Lạy
Chúa, xin giữ gìn con trong đức tin, cho con sống kết hiệp mật thiết với Chúa để
con luôn luôn trung thành thực thi thánh ý Ngài. Amen.
15/03/12 thứ năm tuần 3 mc
Lc
11,14-23
lắng nghe lời sự thật
Đức Giêsu trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất
rồi, thì người câm nói được. (Lc 11,14)
Suy niệm: Những kẻ không tin
thấy phép lạ trước mắt nhưng lại phủ nhận quyền năng của Chúa: “Ông ấy dựa vào
thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ”. Một lối gán ghép gắng gượng, một lời nói
xuyên tạc sự thật, không đủ lý chứng thuyết phục. Lời bịa đặt đó ngăn cản họ
và người khác đến với Chúa và đưa họ đến gần với ma quỷ vì nó là “cha của sự dối trá” (Ga 8,44).
Cần tỉnh thức và can đảm đến với Chúa Giêsu và đặt
niềm tin nơi Ngài; Ngài là “Đường, Sự Thật và là Sự Sống”. Ngài cho ta biết
Chúa là ai, ta là ai, ta từ đâu tới, ta đi về đâu, ta phải đi con đường nào để
đạt đến sự sống đời đời.
Mời Bạn: Mùa Chay kêu mời
ta trở về sống trong chân lý, sống đúng thân phận của ta trước mặt Chúa. Đức
Giáo Hoàng đương kim nhắc nhủ: “Đây là
chương trình thích đáng và cốt yếu của Mùa Chay: Lắng nghe Lời sự thật, sống,
nói và thực thi sự thật, loại bỏ gian dối đã đầu độc nhân loại và mở cửa cho mọi
xấu xa.”
Chia sẻ: Trong xã hội
ngày nay sự dối trá được bình thường hóa. Điều này ảnh hưởng tới đời sống đạo
thế nào?
Sống Lời Chúa: Xét mình mỗi ngày, sám hối
về những điều lầm lỗi của mình, và quyết tâm trở về với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải. Xin cho con
đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con. Xin cho con khiêm
tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày. Xin
cho tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do. (Thắp Sáng Niềm Tin,
170)
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15 - 3
Gr 7, 23-28; Tin Mừng theo Thánh Lc 11, 14-23.
LỜI SUY NIỆM:
Bấy giờ Đức
Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được.
Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa
thế quỷ vương Bêendêbum mà trừ quỷ.” (Lc 11,14-15).
Những kẻ chống
đối Chúa Giêsu, họ đang tìm cách hạ uy tín của Ngài trước đám đông dân chúng,
dưới bất cứ hình thức nào, kể cả dùng sự xuyên tạc sự thật một cách gian
ác xảo quyệt của mình. Đây là một sự xuyên tạc đầy ác ý một cách trắng trợn.
Khi cho rằng Chúa Giêsu dựa vào Quỷ vương để trừ quỷ, đây là sự lừa dối chính
mình và mọi người. Trong đời sống của chúng ta không thiếu những hạng người
này, bất cứ ở đấng bậc, giai tầng nào trong xã hội, cũng có những con người như
thế, chỉ vì sự ganh ghét, ganh tỵ khi thấy công việc của người khác làm, đem lại
những kết quả tốt đẹp, ngoài cả sự mong đợi cho cộng đồng. Hoặc là muốn bản
thân mình, uy tín của mình được tôn lên. Đồng thời đạp người anh em mình xuống.
Muốn người khác khi nào cũng phải thua kém mình. Điểu này dẫn đưa chúng ta phạm
tội kiêu ngạo và xúc phạm đến người khác.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
15 Tháng Ba
Ðời Là Một Chuyến Ði
Một tác giả nọ đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc
sống con người bằng một câu chuyện như sau:
Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ
nhà thờ có thói quen mà không ai có thể lay chuyển được. Mỗi ngày, cứ 15 phút
trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến cho người tổng đài trong vùng và hỏi giờ.
Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã đặt câu hỏi: "Thưa ông,
nếu không có gì làm phiền ông, xin cho ông biết lý do hỏi giờ như thế mỗi
ngày?". Ông từ nhà thờ mới giải thích: "Ồ, có gì đâu. Tôi là người phải
kéo gác chuông mỗi ngày vào giờ ngọ. Tôi cần biết giờ chính xác".
Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra. Ông nói
với ông từ nhà thờ như sau: "Thật là buồn cười. Trong khi ông hỏi giờ nơi
tôi, thì chính tôi lại điều chỉnh đồng hồ theo tiếng chuông của ông".
Tác giả của câu chuyện trên đây kết luận rằng:
cuộc sống quả là một bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm
ra được câu trả lời. Chúng ta cần một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục
đích của cuộc sống. Và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của
cuộc sống chính là Thiên Chúa, Chủ tế của sự sống.
Kinh thánh, Lời của Chúa, thường ví cuộc sống
như một cuộc hành trình. Từ lúc Noe xuống tàu, qua Abraham cất bước ra đi vào
vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Ðức Maria và cả cuộc đời không ngừng
di động của Ðức Kitô: tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình Ðức
Tin của người Kitô chúng ta.
Ðời là một cuộc hành trình... Ra khỏi lòng mẹ là
nhập cuộc và ra đi không ngừng. Tuổi thơ và thanh niên được dệt bằng những năng
động để không ngừng dự phóng và tiến tới. Ở tuổi trung niên, thành công tràn ngập
nhưng thất bại cũng giăng đầy lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi; vui
tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm... Rồi tuổi già chợt đến,
chúng ta mới nhận ra rằng tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ...
Ðời là một cuộc hành trình. Ðức Kitô đã trải qua
cuộc đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình. Sinh ra trong một
cuộc hành trình, vừa mở mắt chào đời đã phải vội vã ra đi như một người tị nạn.
Năm 12 tuổi lạc mất trong một cuộc hành trình... Ra đời, Ngài không ngừng đi lại
khắp nẻo đường Palestina. Và cuối cùng, Giêrusalem, đồi Calvê là điểm đến của
cuộc hành trình.
Qua cuộc hành trình không nghỉ ngơi ấy, Ðức Kitô
đã tuyên bố với chúng ta: "Ta là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống".
Chỉ trong Ngài, qua dấu chân của Ngài, chúng ta
mới thật sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình của chúng ta... Ngài là Con
Ðường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang. Nhưng Con Ðường của Ngài chính là
Con Ðường của yêu thương và phục vụ... Hãy tin tưởng rằng khi chúng ta sống yêu
thương, sống phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên Con Ðường của Ngài.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần III MC
Bài đọc: Jer 7:23-28;
Lk 11:14-23.
1/ Bài đọc I: 23 Nhưng điều Ta truyền cho chúng là: Hãy
nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta.
Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.
24 Nhưng chúng chẳng nghe,
chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa;
chúng đã lùi chứ không tiến.
25 Từ ngày cha ông chúng ra
khỏi đất Ai-cập tới nay, ngày này qua ngày khác, Ta không ngừng sai tất cả các
tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến với chúng;
26 nhưng chúng đã không
nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ. Chúng hành động còn xấu hơn cả
cha ông chúng nữa.
27 Vậy, ngươi sẽ nói với
chúng tất cả những điều ấy, nhưng chúng chẳng nghe đâu; ngươi sẽ gọi chúng,
chúng chẳng trả lời đâu.
28 Bấy giờ ngươi sẽ nói:
Đây là dân tộc không biết nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của mình, không chấp
nhận lời sửa dạy: sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó.
2/ Phúc Âm: 14 Bấy giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và
nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc
nhiên.
15 Nhưng trong số đó có mấy
người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ."
16 Kẻ khác lại muốn thử Người,
nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.
17 Nhưng Người biết tư tưởng
của họ, nên nói: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà
kia.
18 Nếu Xa-tan cũng tự chia
rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? ... bởi lẽ các ông nói
tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.
19 Nếu tôi dựa thế
Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính
họ sẽ xét xử các ông.
20 Còn nếu tôi dùng ngón
tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.
21 Khi một người mạnh được
vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn.
22 Nhưng nếu có người mạnh
thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn
tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
23 "Ai không đi với
tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết nghe lời Thiên Chúa là điều kiện để đạt
hạnh phúc.
Khi
phải đối diện với Lời Chúa hay những công việc Chúa làm, con người thường có ba
thái độ chính: tích cực vâng lời và làm theo những gì Thiên Chúa răn bảo; hay dửng
dưng coi thường “khó quá, ai làm nổi;” hoặc tiêu cực tìm lý do phê bình để khỏi
phải làm như “ở Nazareth nào có cái chi hay!”
Các
Bài Đọc hôm nay chú trọng nhiều đến phản ứng sau cùng, con người không những
không nghe lời Thiên Chúa, lại còn phê phán buộc tội để khỏi phải nghe và làm
theo. Trong Bài Đọc I, dân chúng không chịu nghe tiếng Thiên Chúa và cũng chẳng
chịu nghe Jeremiah, ngôn sứ của Ngài. Đã vậy, họ còn mạ lỵ Jeremiah và còn tìm
đủ cách để có cớ lọai trừ ông. Trong Phúc Âm, chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu
khai trừ quỉ câm, một số người đã không tin uy quyền của Chúa Giêsu, lại còn mạ
lỵ Ngài: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ.” Nói cách khác, họ có
ý muốn nói: Chúa Giêsu là đồng bọn của ma quỉ để dân chúng đừng tin vào
Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức
Chúa.
1.1/
Dân Chúa phải nghe tiếng Thiên Chúa: Nghe tiếng Thiên Chúa là điều kiện trước
tiên để con người nhận ra sự thật hay ý định của Thiên Chúa cho con người. Con
người phải biết nghe thì mới biết cách làm; nếu con người không chịu nghe thì sẽ
không biết cách làm hoặc làm sai. Nếu làm sai, con người sẽ phải lãnh nhận mọi
hậu quả xấu. Nếu một người không nghe theo tiếng Thiên Chúa, người đó không còn
là con Thiên Chúa nữa. Vì thế, Chúa truyền cho con người: “Hãy nghe tiếng Ta
thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo
mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.”
Không
nghe tiếng Thiên Chúa là lý do con người đã không tiến tới mà còn lùi bước. Con
người không muốn nghe tiếng Thiên Chúa vì họ kiêu ngạo nghĩ mình đã biết cách
giải quyết vấn đề, hay nghe theo tiếng của thần khác Thiên Chúa. Đây là tình trạng
của dân tộc Israel
trước Thời Lưu Đày, như Jeremiah trình thuật: “Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để
tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã
lùi chứ không tiến.”
1.2/
Dân Chúa phải nghe tiếng các ngôn-sứ của Thiên Chúa: Vì tình thương, Thiên Chúa
không sửa phạt dân ngay; nhưng Ngài luôn sai các ngôn sứ của Ngài tới để kêu gọi
dân chúng ăn năn trở lại: “Từ ngày cha ông chúng ra khỏi đất Ai-cập tới nay,
ngày này qua ngày khác, Ta không ngừng sai tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn
sứ đến với chúng; nhưng chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu
cứng cổ. Chúng hành động còn xấu hơn cả cha ông chúng nữa.”
Chúa
nói trước với Jeremiah về sự cứng lòng của dân, để ông biết Ngài đã kiên nhẫn sửa
dạy dân; và cũng để ông khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến sự cứng lòng của họ: “Vậy,
ngươi sẽ nói với chúng tất cả những điều ấy, nhưng chúng chẳng nghe đâu; ngươi
sẽ gọi chúng, chúng chẳng trả lời đâu.” Sau cùng, tiên tri Jeremiah phải đồng ý
với Thiên Chúa: dân chúng xứng đáng chịu hình phạt và thời chiến tranh và lưu
đày phải xảy ra, vì “Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa
của mình, không chấp nhận lời sửa dạy: sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng
nó.”
2/ Phúc Âm: Thái độ tiêu cực của con người:
2.1/
Thái độ của con người trước phép lạ Chúa Giêsu làm: Có 3 phản ứng của con người
khi họ chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu chữa một người khỏi quyền lực của quỉ câm:
(1)
Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
(2)
Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương
Beelzebul mà trừ quỷ."
(3)
Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Vừa chứng kiến
dấu lạ, lại đòi một phép lạ khác trước khi có thể tin!
2.2/
Thái độ tích cực của Chúa Giêsu: Ngài kiên nhẫn cắt nghĩa và muốn họ nhận ra
hai điều:
(1)
Một người không thể dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ: Một người có thể dựa
thế người khác để làm tất cả mọi điều, nhưng không thể để khai trừ những người
thuộc quyền họ; vì đòan kết là điều kiện chính để sinh tồn: "Nước nào tự
chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự
chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? Bởi lẽ các ông nói
tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ.” Hơn nữa, có nhiều người trừ quỉ trong Israel trước thời
Chúa Giêsu; ngay cả Vua Solomon cũng trừ quỉ bằng các cây cỏ. Vì thế, nếu họ tố
cáo Chúa Giêsu thuộc về ma quỉ, họ cũng tố cáo tất cả những người này: “Nếu tôi
dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy,
chính họ sẽ xét xử các ông.”
(2)
Chúa Giêsu đến để vô hiệu hóa các quyền lực của ma quỉ: “Còn nếu tôi dùng ngón
tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các
ông.” Ngài cắt nghĩa thêm: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ
lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế
hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin
tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Ma quỉ chỉ có quyền lực trên
con người, trong lâu đài của chúng là thế gian này. Vương quốc của chúng được
an tòan khi Chúa Giêsu chưa đến. Nhưng khi Triều Đại của Ngài đến, mọi sự thay
đổi. Vì Ngài có quyền lực mạnh hơn ma quỉ, nên Ngài có thể khai trừ chúng khỏi
con người như trình thuật hôm nay. Ngài vô hiệu hóa các vũ khí chúng dùng để
cai trị con người như: kiêu ngạo, tham muốn, hưởng thụ vật chất ... Một khi con
người quyết tâm theo Chúa, ma quỉ sẽ không dám đụng chạm tới họ. Ma quỉ chỉ có
quyền trên những ai muốn ở lại với chúng.
2.3/
Không thể giữ thái độ trung lập trên bước đường theo Chúa: Truyền thống Do-thái
tin cuộc đời này là bãi chiến trường tranh chấp giữa quyền lực của Thiên Chúa
và của ma quỉ, giữa con cái của ánh sáng và của bóng tối. Trong cuộc giao chiến
này, con người không thể đứng trung lập: Họ phải chọn giữa Thiên Chúa hoặc ma
quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối, như Chúa Giêsu tuyên bố: "Ai không đi với
tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” Một người chọn
đứng bên lề, chọn không tham gia những công việc hữu ích, là chọn để giúp cho
các công việc gây thiệt hại có cơ hội phát triển. Họ cũng không thể chọn cả hai
bên: vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma quỉ, vì hai bên không đội trời
chung.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Nghe theo tiếng Chúa là điều kiện tiên quyết để con người có hạnh phúc.
-
Chúng ta cần có thái độ tích cực để nhận ra và thi hành điều hữu ích trong cuộc
sống. Cần tránh thái độ tiêu cực chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ
thiện chí của tha nhân.
-
Không cộng tác với Thiên Chúa là cộng tác với ma quỉ. Không có thái độ trung lập
và cũng chẳng có thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai
không cùng tôi thu góp là phân tán (Lc 11,23)
Suy niệm:
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: Một hôm tôi đang giảng
dạy cho một nhóm người tại Nagasaki .
Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều:
- Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không?
- Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức Thánh Cha không?
- Tôi có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: "Tại sao ông lại đặt
ra ba câu hỏi vừa rồi?" Người đó trả lời: "Vì ông bà chúng con trước
khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải
lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính
không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội Thánh sai đến,
chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại."
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu
là nhà truyền giáo đích thực. Ngược dòng thời gian trở về thời Chúa Giêsu,
chúng ta cũng được chứng kiến một biến cố tương tự. Các tiên tri đã báo trước
cho Dân Chúa là khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: cho kẻ
câm được nói, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành. Chúa Giêsu đã thực
hiện lời tiên tri đó trước mặt nhiều thành phần trong dân để chứng minh Ngài là
Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy nhiên có những người không nhìn
nhận sự hiện diện và tác động của Chúa, họ cố tình giải thích lệch lạc để khỏi
phải tin và làm cho người khác đừng tin, như được trình thuật trong Tin Mừng
hôm nay.
Quả thật, đứng trước Chúa Giêsu, con người phải có thái độ hoặc
tin nhận hoặc chối từ. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối
với Chúa Giêsu. Ngài đến với con người qua Giáo Hội, qua những sứ giả được tuyển
chọn và sai đi làm chứng cho Ngài nhưng liệu chúng ta có thành tâm và can đảm cộng
tác với ơn soi sáng của Thánh Thần để tin nhận Ngài không? Tác giả tập sách Đường
Hy vọng đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
"Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Ngài là Cha ở bên
con với tất cả quyền năng và tình thương. Ngài là tất cả của con người, là cùng
đích trong ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương
mẫu các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ nên thánh. Thiên đàng
không có gì khác hơn Thiên Chúa hiện diện."
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng tình yêu mà xua trừ sự dữ ra
khỏi lòng người. Hành động của Chúa đã quá đủ để chúng con cảm nhận tình Chúa
yêu thương chúng con biết chừng nào; Chúa yêu từng người trong chúng con, Chúa
ban cho chúng con theo cách mà Chúa biết chúng con cần. Vâng chúng con cần tình
yêu, cần ơn cứu rỗi cho mình và cho người khác. Xin cho chúng con vững tin vào
quyền năng và lòng thương xót vô bờ của Chúa.
Suy niệm:
Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm.
Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).
Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,
còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.
Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.
Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùngCanaan .
Người Do-thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).
Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).
Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,
dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.
Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).
Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,
còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.
Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.
Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng
Người Do-thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).
Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).
Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,
dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.
Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này.
Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).
Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,
nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.
Vả lại, có những người Do-thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.
Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không ? (c. 19).
Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).
Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,
nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.
Vả lại, có những người Do-thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.
Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không ? (c. 19).
Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ.
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).
Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).
Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác.
Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.
Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.
Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.
Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.
Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.
Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.
Như thế là con người được thật sự tự do.
Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.
Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.
Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.
Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.
Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.
Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.
Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.
Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.
Như thế là con người được thật sự tự do.
Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.
Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.
Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn,
nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.
Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,
không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?
Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).
Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).
Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.
nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.
Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,
không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?
Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).
Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).
Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.
Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai.
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,
vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,
ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).
Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,
vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,
ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).
Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
Ngày 15
Chúng ta khám phá được gì nơi bí tích Thánh Thể, bí tích có thể
giúp chúng ta đi vào cầu nguyện cách tốt đẹp hơn? trước tiên sự kiện, cầu nguyện
là một thái độ sâu xa trước khi là một thực hành, trước khi là thời gian dâng
hiến cho Thiên Chúa. Trước hết bí tích Thánh Thể không phải là nghi thức, đó là
thái độ sâu xa của Đức Kitô, lễ vật nội tâm dâng lên Chúa Cha, Đấng hằng ngày
luôn ban tặng lại cho chúng ta.
Nếu chúng ta muốn cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ của Đức
Giêsu. Chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn trong chúng ta thái độ của
Chúa Con. Nếu như dần dần thái độ tận hiến bản thân và đón nhận sự sống của Cha
hiện diện trong chúng ta cho đến độ trở thành một thái độ phản xạ, lời cầu nguyện
của chúng ta sẽ dễ dàng hơn và trong mọi trường hợp sẽ rất bộc phát. Và như một vòng tròn, vì để thái độ
này cắm rễ trong chúng ta, chúng ta phải dành một thời gian để cầu nguyện hay
không?
Cầu nguyện là đón nhận một thái độ,
nhưng để đạt được thái độ, cần phải cầu nguyện. Một ngày nào đó chúng ta phải
nhảy xuống nước và bắt đầu cầu nguyện, cũng như người không biết lội, bắt buộc
phải nhảy xuống nước, vì đó là phương pháp để học.
Bernard Pitaud, sulpicien
Thứ Năm 15-3
Thánh Louise de
Marillac
(c. 1660)
Thánh Louise sinh ở Ferrieres-en-Brie gần Meux, nước
Pháp, mồ côi mẹ khi còn nhỏ, và khi được 15 tuổi thì mồ côi cha. Ao ước của
thánh nữ là trở nên một nữ tu nhưng cha giải tội đã ngăn cản, và sau đó ngài
kết hôn với ông Antony LeGras. Trong hôn nhân này họ có được một đứa con
trai. Nhưng sau đó không lâu, ông Antony đã từ giã cõi đời sau một thời gian
đau yếu lâu dài.
Bà Louise may mắn có được các cha linh hướng khôn ngoan
và dễ mến, đó là Thánh Francis de Sales, và người bạn của ngài là Ðức Giám Mục
của Belley, nước Pháp. Bà Louise không gặp hai vị thường xuyên, nhưng tận
trong thâm tâm, bà linh cảm thấy rằng mình sẽ đảm nhận một công việc nặng nề dưới
sự hướng dẫn của một người chưa bao giờ quen biết. Ðó là vị linh mục thánh
thiện Vincent, mà sau này là Thánh Vincent de Paul.
Lúc đầu, Cha Vincent do dự nhận lời làm cha giải tội
cho bà Louise, vì sự bận rộn của ngài với tổ chức "Các Chị Em Bác Ái."
Hội viên của tổ chức này là các bà quý tộc có lòng nhân từ, giúp đỡ cha chăm
sóc người nghèo và các em bị bỏ rơi, là công việc rất cần thiết trong thời
gian ấy. Nhưng các bà cũng phải bận rộn với nhiệm vụ và công việc gia đình.
Trong khi công việc của cha thì cần rất nhiều người giúp đỡ, nhất là những
nông dân vì họ gần gũi với người nghèo và dễ có cảm tình với họ. Ngài cũng cần
ai đó có thể dạy cho họ biết đọc biết viết và tổ chức sinh hoạt hội đoàn cho
họ.
Chỉ sau một thời gian khá lâu, khi Cha Vincent ngày
càng quen biết với bà Louis, thì ngài mới nhận ra rằng bà là người mà Chúa đã
gửi đến để đáp lại lời cầu xin của cha. Bà Louis thông minh, khiêm tốn và có
sức chịu đựng bền bỉ. Sau một thời gian thi hành các công việc mà cha giao
phó, bà tìm thêm được bốn phụ nữ bình dị khác đến tiếp tay. Căn nhà thuê của
bà ở Balê đã trở thành trung tâm săn sóc người nghèo và người đau yếu. Và đó
là khởi đầu của tu hội Nữ Tu Bác Ái của Thánh Vincent de Paul, (mặc dù Cha
Vincent muốn gọi tổ chức này là "Nữ Tử" Bác Ái). Bà tuyên khấn năm
1634 và tu hội đã thu hút được nhiều người tham gia.
Cha
Vincent thường từ tốn và khôn ngoan trong cách cư xử với bà Louis và tổ chức
mới này. Ngài nói không bao giờ ngài muốn thành lập một cộng đoàn mới, mà
chính là Thiên Chúa thi hành mọi sự. Cha nói, "Tu viện của con sẽ là
nhà của người bệnh; phòng của con là phòng cho thuê mướn; nhà nguyện của con
là nhà thờ của giáo xứ; khuôn viên nhà dòng là đường phố hay các khu vực nhà
thương." Y phục của họ là y phục của phụ nữ nông dân. Mãi cho đến
vài năm sau, Cha Vincent de Paul mới cho phép bốn phụ nữ khấn khó nghèo, khiết
tịnh và vâng phục. Và phải mất nhiều năm hoạt động thì Tòa Thánh mới chính thức
công nhận tu hội này và đặt dưới sự hướng dẫn của Cha Vincent và Tu Hội Truyền
Giáo.
Bà
Louis đi khắp nước Pháp, thành lập chi nhánh trong các bệnh viện, cô nhi viện
và các tổ chức khác. Cho đến khi từ trần, ngày 15 tháng Ba 1660, tu hội của
bà đã có trên 40 nhà ở nước Pháp. Kể từ đó họ đã phát triển trên toàn thế giới.
Bà
Louise de Marillac được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1934, và năm
1960 thánh nữ được Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đặt làm Quan Thầy các Cán Sự Xã
Hội.
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét