THỨ TƯ SAU CHÚA NHẬT V MÙA CHAY
(Đn
3,14-20.24-25.28 ; Đn 3 ; Ga 8,31-42.)
Bài đọc Đn
3,14-20.24-25.28
“Thiên Chúa
đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người”
14 Ngày ấy, vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói với họ : "Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết
Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng
ta đã dựng nên, có đúng như vậy không ? 15 Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm,
tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng
ta đã làm không ? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném
vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi
tay ta chăng ?" 16 Sát-rác, Mê-sác và
A-vết Nơ-gô trả lời vua Na-bu-cô-đô-nô-xo rằng : "Chúng tôi không cần trả
lời ngài về chuyện này. 17 Nếu
Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu
chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. 18 Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết
cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy
pho tượng vàng ngài đã dựng đâu !" 19 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đổi sắt mặt, nổi cơn lôi đình với Sát-rác,
Mê-sác và A-vết Nơ-gô. Vua lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy
lần. 20 Rồi vua ra lệnh cho những
người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô
và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.
24 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo ngạc
nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn : "Chẳng phải
chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao ?" Họ đáp rằng : "Tâu
đức vua, đúng thế !" 25
Vua cất tiếng nói : "Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò
lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần
minh."
28 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cất
tiếng nói : "Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, Người
đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng
vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy
một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.
Đáp ca Đn 3,52+.53+.54+.55+.56+ (Đ. c.
52+b)
Đáp :
Xin dâng lời khen ngợi suy tôn
muôn đời.
52+ "Lạy
Chúa, chúc tụng Ngài
là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiên,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Đ.
53+ Chúc
tụng Chúa trong thánh điện vinh quang,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. Đ.
54+ Chúc
tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng,
xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời. Đ.
55+ Chúc
tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá
mà thấu nhìn vực thẳm,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. Đ.
56+ Chúc
tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời. Đ.
Tung hô Tin Mừng x. Lc 8,15
Hạnh
phúc thay ai giữ lời Thiên Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nhờ
kiên nhẫn mà sinh hoa hết quả.
Tin Mừng Ga 8,31-42
“Nếu người Con có giải phóng các ông,
thì các ông mới thực sự là những người tự do”
31 Khi ấy, Đức Giê-su nói
với những người Do-thái đã tin Người : "Nếu các ông ở lại trong lời của
tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi ; 32 các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các
ông." 33 Họ đáp : "Chúng
tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm
sao ông lại nói : các ông sẽ được tự do ?" 34 Đức Giê-su trả lời : "Thật, tôi bảo thật
các ông : hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35 Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn
mãi, người con mới được ở luôn mãi. 36 Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới
thực sự là những người tự do. 37 Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham, nhưng các ông tìm
cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. 38 Phần tôi, tôi nói những
điều đã thấy nơi Cha tôi ; còn các ông, các ông làm những gì đã nghe cha các
ông nói." 39 Họ đáp : "Cha
chúng tôi là ông Áp-ra-ham." Đức Giê-su nói : "Giả như các ông là con
cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. 40 Thế mà bây giờ các ông
lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ
Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. 41 Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông
làm."
Họ mới nói : "Chúng tôi đâu phải
là con hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha : đó là Thiên Chúa !" 42 Đức Giê-su bảo họ : "Giả như Thiên Chúa là
Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và
bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã
sai tôi.
(Bản văn theo UB kinh thánh/HĐGMVN)
Suy Niệm:
Ðức Giêsu
nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được
tự do. Sự tự do mà Ðức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên
Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn Thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa
là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma
quỷ, của những đam mê dục vọng trần thế. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc và tự do
khi sống địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Ðức Giêsu,
khi ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa,
Chúa đã cho chúng con từ thân phận tôi tớ được trở nên con cái Chúa và được sống
trong ân sủng của Ngài. Xin ban sức mạnh cho chúng con, để chúng con biết tránh
xa tội lỗi là nguyên nhân làm chúng con xa Chúa và đánh mất hạnh phúc của đời
mình. Amen.
(theo Lời Chúa trong giờ kinh
gia đình)
Nô Lệ Tội Lỗi
Khi thi
hành bổn phận của vị Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hungary, Ðức Tổng Giám Mục Angelo
Ronalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai và quở trách Ngài về mọi mặt do
một linh mục gởi cho. Ðọc xong bức thư, Ðức Tổng Giám Mục Angelo Roncalli không
nói một lời, lòng vẫn thao thức yêu thương vị linh mục đã chỉ trích Ngài.
Thời gian
trôi qua, Ngài được phong chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi lên Hồng Y Giáo
Chủ ở Pénitria và cuối cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII. Khi
Ngài lên ngôi Giáo Hoàng thì vị linh mục viết thư chỉ trích Ngài vẫn còn sống.
Một hôm, gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức cuộc hành hương về Rôma để yết kiến
Ðức Tân Giáo Hoàng và cũng là vị cựu Tổng Giám Mục của họ ngày xưa. Vị linh mục
nọ cũng đi chung với phái đoàn. Ðến Rôma, vị linh mục ấy xin được gặp riêng để
yết kiến Ðức Gioan XXIII, và lời thỉnh cầu được chấp nhận.
Sau đây là
câu chuyện do chính linh mục ấy thuật lại: Trong lúc đứng ở phòng khách trên điện
cao Vatican để đợi đến phiên vào triều yết Ðức
Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư chỉ trích Ngài năm xưa. Tôi thầm nghĩ
đã mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây Ðức Thánh Cha không còn nhớ nữa đâu.
Nhưng nếu rủi khi Ngài còn nhớ thì sao? Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp và
hy vọng Ðức Thánh Cha sẽ tha thứ cho tôi.
Ðang lúc
suy nghĩ miên man thì bỗng cánh cửa chợt mở, linh mục thư ký dẫn tôi vào. Vừa
thấy tôi, Ðức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần hỏi
thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận và bùi ngùi nhắc đến những người bạn
cũ năm xưa bên Hungary .
Ngài thương nhớ tất cả, không trừ một ai và như thể xứ sở của tôi là chính quê
hương của Ngài vậy.
Lúc ấy
lòng tôi rất khấp khởi, vì chắc Ðức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn hào ngày
xưa. Câu chuyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình. Bỗng tôi thấy Ðức
Thánh Cha đưa tay với lấy cuốn Kinh Thánh, Ngài mở ra để trước mặt tôi bức thư
hỗn láo kia. Tôi xấu hổ và sợ hãi, tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo thắc
mắc, thì Ðức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi cách dịu dàng và bảo: "Con đừng
sợ, Cha không bao giờ giận con đâu? Cha cám ơn con, Cha cũng là người có những
khuyết điểm. Cha ngăn bức thư con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc mà xét
mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa lánh những
lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế, Cha lại nhớ đến con và
cầu nguyện cho con".
Anh chị em thân mến!
Ðức Gioan XXIII nổi tiếng là vị Giáo Hoàng hiền lành và
khiêm nhượng. Ngài đã biết tận dụng những lời phê bình chỉ trích để canh tân đời
sống đức tin của mình luôn mãi. Vì những lời khen tặng, nhất là vì lịch sự, như
hậu ý vụ lợi có hại cho sự phát triển tinh thần và nhân cách của người nhận hơn
là làm lợi cho họ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy thái độ của
Chúa Giêsu đối với người Do Thái vừa mới tin vào Ngài. Ngài thấy lòng tin của họ
chưa được trọn vẹn lắm, nên Ngài đã đề nghị với họ những biện pháp thiết thực để
củng cố lòng tin đó. Nhưng Ngài đòi họ cần phải sống Lời Chúa, để cho Lời Chúa
thấm nhập vào trọn cuộc đời họ, để Lời Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ tội lỗi.
Tuy nhiên, những người Do Thái này chưa có đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của
Chúa. Họ tự phụ mình là con cháu của Abraham và không cần ai chỉ dạy thêm điều
chi nữa.
Anh chị em thân mến!
Chúa Giêsu
chờ đợi những người Do Thái mới tin Chúa, như đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa
nghe. Hãy noi gương của Thiên Chúa và của Abraham mà phát triển mối tương quan đức
tin với Ngài: "Nếu các ngươi là con cái của Thiên Chúa Cha, thì chắc chắn
các ngươi sẽ yêu mến Ta. Nếu các ngươi là con cái của Abraham thì các ngươi hãy
thi hành công việc của Abraham mà tin lời Ta".
Vậy, những
người Do Thái tự phụ này không thể nào thăng tiến trên con đường đức tin. Bởi
vì họ chỉ mượn danh nghĩa con cái Thiên Chúa, bà con của Abraham để hưởng lợi
mà thôi. Họ cho mình là người trong nhà, nhưng thực ra họ là những người con xa
lạ, người con hoang theo như từ ngữ của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe.
Ðức cố Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng"
đã khuyên chúng ta như sau: Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Vì như Lời Chúa dạy:
"Không ai được làm tôi hai chủ". Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày hãy
dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành
mấy phút? Con chỉ có một việc quan trọng nhất, như Maria đã chọn phần tốt nhất
là ngồi bên chân Chúa. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là
linh hồn các hoạt động của con thì con thấy nhiều, rõ nhiều rồi, cha miễn nói
thêm. Con chỉ có một của ăn là "Thánh ý Cha", nghĩa là con sống, con
lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn để con sống
lành mạnh. Ngoài ý Chúa, con sẽ chết. Con chỉ có một giây phút đẹp nhất, giây
phút hiện tại sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn. Ðời con sẽ tuyệt đẹp, nếu
con biết thêu dệt những giây phút kết hợp mật thiết với thánh ý Chúa.
Phải! ý
Chúa muốn cho mỗi người chúng ta trong hiện tại là trở nên những con thảo của
Ngài, chứ không phải là những đứa con hoang. Hãy thi hành công việc của Thiên
Chúa. Hãy để cho Lời Ngài thấm nhập trong cả cuộc sống của mình.
Lạy
Chúa, nhiều lúc vì tự phụ, con ỷ lại vào trí khôn, vào sức riêng của mình để xa
tránh Chúa. Xin Chúa thương ban cho con tâm hồn khiêm tốn hiền lành, để cho Lời
Chúa hướng dẫn từng giây phút cuộc đời con. Amen.
(theo Veritas Asia )
28/03/12
THỨ TƯ TUẦN 5 MC
Ga 8,31-42
Ga 8,31-42
GIẢI
THOÁT KHỎI NÔ LỆ TỘI LỖI
“Thật, tôi bảo thật cho các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội.” (Ga 8,34)
Suy niệm: Người Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Rôma thế mà lòng kiêu hãnh dân tộc vẫn không chấp nhận bị nô lệ: “Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ” (Ga 8,33). Chúa Giêsu nhắc họ về một tình trạng nô lệ nguy hiểm hơn nhiều: nô lệ cho nết xấu, cho tội lỗi; nguy hiểm hơn vì: - nó khó nhận biết: đang bị nó trói buộc mà vẫn tưởng mình tự do; - nó là viên thuốc độc bọc đường: người ta phạm tội mà vẫn cảm thấy vui khoái, an nhiên tự tại. Lời Chúa cảnh báo người Do Thái cũng là cảnh báo chúng ta phải gọi đích danh, nhìn đúng chân tướng của thứ nô lệ nguy hiểm này.
Mời Bạn: Chế độ nô lệ ngày nay đã bị xoá bỏ, nhưng vẫn còn đó biết bao nhiêu kiểu nô lệ mới: tình trạng bóc lột sức lao động, cách riêng lao động trẻ em, những hình thức mại dâm công khai hoặc trá hình, v.v… Bi đát hơn nữa có những thứ nô lệ trói buộc cả tinh thần: Cứ nhìn những người nghiện ma túy trong cơn vật vã khi thiếu thuốc mới thấy hết nỗi khổ của những ai phải chịu cảnh nô lệ do đam mê tự họ gây nên. Rồi còn những thứ nghiện mới, nghiện mua sắm, nghiện trò chơi trên mạng… Những thứ đó làm người ta mất tự do nhưng vẫn cứ tưởng rằng: “Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ.” Mời bạn nhìn lại chính mình xem còn đam mê nào bạn đang vướng mắc mà không thể dứt bỏ.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm chừa bỏ một thói quen xấu trong Mùa Chay này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối trước những cảm dỗ của thế gian. Xin thêm sức cho con, để con có thể vác thập giá theo Chúa bằng cách từ bỏ lối sống theo trào lưu tục hóa của thế giới hôm nay. Amen.
Lời Chúa Trong Gia Đình
Đn 3, 14-20.91-92.95; Tin mừng theo Thánh Ga 8, 31-42.
LỜI SUY NIỆM: Vậy, Đức Giêsu nói với
những người Do-Thái đã tin Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các
ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các
ông.” (Ga 8, 31-32).
Chúa Giêsu
đòi hỏi những người Do-Thái khi đã tin vào Ngài thì phải giữ lời của Ngài.
Chính lời Ngài là sự thật sẽ giải phóng họ khỏi tội lỗi để họ được tự do làm
con Thiên Chúa. Trong đời sống của chúng ta, Chúa cũng đang đòi hỏi phải ở lại
trong lời của Ngài. Muốn được vậy chúng ta phải xem lời của Chúa là hơi thở của
chúng ta. Chúng ta phải học hỏi lời Chúa luôn luôn vì Lời Ngài là lời hằng sống,
nên Lời luôn luôn là mới lạ đối với chúng ta, cần phải học để khám phá những điều
mới lạ đó, nhờ đó chúng ta được đi sâu vào phần chân lý ẩn tàng trong lời dạy của
Ngài. Nhờ những khám phá đó, giúp cho chúng ta cảm nhận tình yêu của Ngài đối với
chúng ta; giúp cho chúng ta càng yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài xứng hợp với tình
yêu của Ngài. Giúp chúng ta có một tương quan tốt đối với Ngài, qua đó chúng ta
cũng sẽ có tương quan tốt với tất cả mọi người và mọi tạo vật khác mà Ngài đã dựng
nên.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
28 Tháng Ba
Ðem Lại Một Chút Bầu Trời
Ngày kia, tại miền Nam
TrungQuốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân chúng
sinh sống trong một làng nhỏ dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn
rau cắt rốn của mình.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một
nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé lên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và khỏi
bị những viên gạch, những hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé
đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi!
Phong hủi!".
Với những dòng nước mắt
lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là
những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: "Tại sao ông lại lo
lắng cho tôi?". Nhà truyền giáo đáp lại: "Vì Ông Trời đã tạo dựng cả
hai chúng ta và cũng vì thế con sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ trở nên người
anh của con".
Suy nghĩ hồi lâu, em bé
cất tiếng hỏi: "Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của
ông?". Nhà truyền giáo mỉm cười đáp: "Con hãy trao tặng lại cho những
kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt".
Kể từ ngày ấy cho đến 3
năm sau khi em bé tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của
các bệnh nhân khác, đút cơm cho họ và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất
cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ lên tròn 11 tuổi và các
bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau: "Bầu trời nhỏ bé của
chúng ta đã về trời".
"Ngươi hãy yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi,
và hãy thương mến anh chị em như chính mình".
Chúng ta cố gắng áp dụng
luật trên với niềm xác tín rằng: với những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, với sự
trao nhau một nụ cười, một lời thông cảm, một sự tha thứ, với những hành động
chia cơm sẻ áo, dù chỉ là một ly nước lã, với các lần thăm viếng các bệnh nhân:
nấu cho họ tô canh, chén cháo, quét nhà, giặt giũ quần áo cho họ v.v... là
chúng ta mang một chút thực tại Nước Trời đến trong xã hội trần thế.
(Lẽ Sống)
Sự thật giải phóng con người
Bài đọc: Dan 3:14-20, 91-92, 95; Jn 8:31-42.
Con người thường
không muốn người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những
người có quyền thế. Nhưng dù sự thật mất lòng nhưng có sức mạnh giải phóng con
người. Nhiều người tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang làm nô
lệ cho sự giả trá. Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc con người phải
tìm ra sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng con người.
Trong Bài Đọc I,
Vua Nebuchadnezzar nghĩ các thần do tay mình dựng nên là thần thật nên bắt ba trẻ
Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc khí xướng lên; nếu không sẽ quăng chúng vào
lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ chối vì họ nhất quyết chỉ thờ lạy một mình
Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa từ lò lửa,
chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm nhường thú nhận: chỉ có Thiên Chúa của ba trẻ
Do-thái thờ là Thiên Chúa thật. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn chỉ cho người
Do-thái thấy họ thực sự không phải là con cái của Abraham, vì họ không làm những
gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin Thiên Chúa và đón tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới.
Họ không tin những gì Ngài nói và đang tìm cách giết Ngài.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ba trẻ Do-thái
làm chứng cho sự thật.
1.1/ Ba trẻ Do-thái
từ chối không thờ thần nào khác ngòai Thiên Chúa: Vua Nebuchadnezzar đe dọa ba
trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu các ngươi không phụng sự các thần
của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, tức khắc các ngươi
sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để xem có Thiên Chúa nào cứu được
các ngươi khỏi tay ta chăng?"
Ba trẻ Do-thái can
đảm nói với Vua: "Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. Nếu
Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu
chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu Người
không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần
của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!" Vua tức
giận, lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra lệnh
cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói ba trẻ và quăng họ
vào lò lửa đang cháy phừng phực.
1.2/ Vua
Nebuchadnezzar nhận ra Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego.
(1) Vua nhận thấy sự
khác lạ xảy ra trong lò lửa: Vua Nebuchadnezzar ngạc nhiên đứng bật dậy và cất
tiếng nói với các quan cố vấn: "Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị
trói vào lửa sao?" Họ đáp rằng: "Tâu đức vua, đúng thế!" Vua
nói: "Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề
hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh."
(2) Vua tin vào
Thiên Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra Thiên Chúa đã gởi thiên thần đến cởi trói
cho ba trẻ để họ đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, Vua Nebuchadnezzar cất
tiếng nói: "Chúc tụng Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và Abednego, Người
đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng
vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy
một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.”
2/ Phúc Âm: Sự thật sẽ giải
phóng các ông.
2.1/ Chúa Giêsu là
sự thật của Thiên Chúa.
(1) Sự thật giải
phóng: Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người: "Nếu các ông ở
lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông." Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ
phải tin những lời Ngài nói là sự thật; và những lời này sẽ giải phóng họ khỏi
những gì sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do đích thực, vì họ đã biết sự thật. Vì
thế, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại trong lời Chúa Giêsu, trở thành môn
đệ, sự thật, và tự do đích thực.
Những người Do-thái
không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng tự ái vì Ngài ám chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp:
"Chúng tôi là giòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai
bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?" Thực sự, người
Do-thái đã từng làm nô lệ cho Ai-cập, Assyria, Babylon ,
và Rome ; nhưng
ý họ muốn nói: họ thuộc giòng dõi Abraham, dân của Thiên Chúa.
(2) Chúa Giêsu giải
phóng con người khỏi tội: Điều Chúa Giêsu muốn nói là họ đang làm nô lệ cho tội:
hễ ai phạm tội là làm nô lệ cho tội. Có một sự khác biệt giữa con cái và nô lệ:
con cái được ở trong nhà luôn mãi, nô lệ không được như vậy vì có thể bị bán và
tống cổ bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu muốn cảnh cáo người Do-thái: các ông phải
coi chừng, các ông hãnh diện mình là con cái của Abraham; nhưng nếu các ông phạm
tội, các ông trở thành nô lệ, và có thể bị tống cổ ra ngòai.
Nếu họ tin vào Chúa
Giêsu, họ sẽ được giải phóng khỏi tội, và họ mới thực sự được tự do; nhưng người
Do-thái chẳng những không tin vào lời Chúa Giêsu, lại còn tìm cách giết Ngài.
Chúa Giêsu phân biệt Cha của Ngài và cha của người Do-thái. Họ hãnh diện tuyên
xưng: Cha chúng tôi là Abraham.
2.2/ Tổ-phụ Abraham
tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu không tin lời họ nói; vì nếu họ là con cháu
Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì Abraham tin vào Thiên Chúa. Ngài muốn nói với
họ, đức tin không phải chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải chứng tỏ bằng việc
làm: "Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn các ông phải làm những
việc ông Abraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, người đã nói
cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Abraham đã
không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các ông làm."
Abraham đón tiếp
các sứ giả của Thiên Chúa (Gen 18:1-8), chứ không tìm cách giết họ như người
Do-thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Nếu các ông tìm cách giết người được
Thiên Chúa sai đến, các ông không phải là con cái Thiên Chúa, cũng chẳng phải
là con cái của tổ-phụ Abraham.
II. ÁP DỤNG TRONG
CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học
cho biết sự thật bằng bất cứ cách nào, vì chỉ có sự thật mới giải phóng và cho
chúng ta sự tự do đích thực.
- Bao lâu chúng ta
còn phạm tội là làm nô lệ cho tội. Chỉ có Đức Kitô mới có thể giải phóng chúng
ta khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta phải tin và làm những gì Ngài dạy.
- Đức tin không chỉ
là những gì chúng ta hãnh diện tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải biểu tỏ bằng
việc làm. Chúng ta không được cứu bằng chỉ tuyên xưng ngòai miệng, nhưng phải
thực hành những gì Chúa dạy và phải can đảm làm chứng cho Ngài bằng hành động.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Nếu các ông ở lại trong Lời của Tôi, thì các
ông thật là môn đệ Tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các
ông (Ga 8,31-32)
Suy niệm:
Tin Mừng hôm nay cho
thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng
tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm
tin đó, như sống theo Lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát
triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn
để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ mình là con cái của Abraham và do đó
không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn
trên con đường đức tin.
Tác giả tập sách Đường
Hy vọng khuyên: "Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Chúa dạy không ai có thể
làm tôi hai chủ. Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để
sống đời nội tâm. Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt
nhất. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn của các
hành động của con, thì sẽ thế nào? Con chỉ có một của ăn là Thánh ý Thiên Chúa,
nghĩa là con sống và lớn lên bằng ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh
sống vui, ngoài ý Chúa con sẽ chết. Con chỉ có giây phút đẹp nhất, đó là giây
phút hiện tại. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu từng giây phút con tin vào Lời Chúa và
thực hiện thánh ý Ngài."
“Nếu các ông ở lại
trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi”. Lời Chúa phán với người Co
Thái xưa hẳn cũng rất mới và vẫn là lời nhắn nhủ yêu thương dành cho mỗi chúng
ta hôm nay. Người con hiếu thảo là người biết tuân giữ lời cha mẹ. Cũng vậy,
căn cứ vào thái độ đón nhận Lời Chúa và cách chúng ta thực hành Lời Chúa thì sẽ
đo được lòng yêu mến của chúng ta với Thiên Chúa. Chúa luôn sống và làm gương
cho ta trước khi Ngài mở miệng dạy chúng ta bằng lời. Vì thế, lời của Chúa và
Chúa là một. Yêu mến lời của Người là yêu mến Người.
Ý Chúa muốn cho mỗi
người chúng ta trong hiện tại là trở thành những người con thảo, hãy để Lời
Chúa thấm nhập và hướng dẫn cuộc sống chúng ta, giúp chúng ta sinh nhiều hoa
thơm trái tốt qua việc sống và thực thi Lời Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay dạy con biết sống theo sự thật
vì sự thật sẽ giải thoát con khỏi những ràng buộc của tội, khỏi tính kiêu căng
tự mãn, khỏi những nghi nan giả dối. Nhưng sự thật ở đâu, đâu là đường dẫn con
đến sự thật? Chúa đã nói: Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống. Lạy
Chúa, giữa muôn vàn chọn lựa, xin cho con biết chọn Chúa là chân lý, là lẽ sống
và là cùng đích cho đời sống con, để trong Chúa con được sống trong ánh sáng và
tình yêu.
Suy Niệm
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải
phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những người Do-thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài :
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài :
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Những người Do-thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37,
40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
Ngày 28
Thánh Giuse, người thợ mộc, một hôm được
tỏa sáng nhờ Đức Maria, bị xao động vì chức làm mẹ thật bất ngờ của vị hôn thê của mình.
Ngài đã nghĩ đến việc chia tay - nói theo kiểu chúng ta hôm nay, rời bỏ cách
kín đáo. Sự cô đơn mà ngài phải sống thật sâu xa. Ngài kiệt lực vì không chợp mắt
được trước cảnh cuộc sống bị đổ vỡ trong tâm trí. Giuse kết hợp với Đức Maria trọn cả cuộc đời; điều này không nghi ngờ gì cả. Ngài có
thể yêu một người khác không? Điều cuối cùng mà ngài có thể tưởng tượng được đến
từ Đức Maria mà ngài đã xây dựng biết bao mộng đẹp của một người trẻ đang
yêu, bây giờ rơi vào một tình thế khó khăn. Trước tiên đó là một thử thách cho
trái tim: từ nay ngài không còn được ngắm đến vẻ đẹp mà Thiên Chúa đã nghiêng
mình nhìn đến, và qua vị sứ giả Đức Maria được chào như Đấng "đầy ân sủng".
Giuse nghĩ đến việc chia tay dù rất nghi ngờ về điều này. Đây là
giây phút không thể tránh khỏi của sự thật. Ngài phải đưa ra một quyết định, vì
tương lai không có lối thoát.
Giuse, con người của hy vọng, kính sợ.
Chính điều này, ngài theo bước chúng ta trong chính hành trình cuộc sống của
chúng ta. Đối với từng người, ngài trở nên mẫu gương dễ chấp nhận, để gợi hướng
và dẫn đưa chúng ta đến với Đức Giêsu. Vì ngài biết ngài không thể tự mình rút
lui.
Jean-Guy Paradis
Thứ Tư 28-3
Thánh Tutilo
(c. 915)
utilo
sinh vào cuối thế kỷ thứ chín và đầu thế kỷ thứ mười. Ngài theo học ở đan viện
Biển Ðức Thánh Gall. Hai người bạn học của ngài được phong "chân phước."
Cả ba người sau này đều trở thành đan sĩ tại đan viện nơi họ theo học.
Thánh
Tutilo là một người có nhiều tài. Ngài là một nhà thơ, một họa sĩ vẽ chân
dung, một điêu khắc gia, một nhà giảng thuyết và nhà kiến trúc. Ngài còn là một
chuyên viên cơ khí.
Tài
năng trổi vượt nhất của ngài là âm nhạc. Ngài có thể sử dụng mọi nhạc khí của
các đan sĩ để dùng trong phụng vụ. Cùng với người bạn là Chân Phước Notker,
ngài sáng tác các giai điệu thánh vịnh đáp ca. Cho đến nay, chúng ta chỉ còn
giữ được ba bài thơ và một bài thánh ca trong biết bao nhiêu sáng tác của
ngài. Nhưng các bức họa và điêu khắc của ngài vẫn còn thấy rải rác trong các
thành phố ở Âu Châu.
Nhưng
Tutilo là thánh không chỉ vì các tài năng của ngài. Ngài là một người rất
khiêm tốn, chỉ muốn sống cho Chúa. Ngài ca tụng Thiên Chúa với những gì ngài
biết: qua hội họa, điêu khắc và âm nhạc. Tutilo được tuyên xưng là thánh vì
ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi và yêu mến Thiên Chúa.
Thánh
Tutilo từ trần năm 915.
Lời
Bàn
Dù
chúng ta có nhiều hay ít tài năng, dù chúng ta có thông minh hay không, điều
quan trọng là tận tụy thi hành công việc của mình. Ðó là phương cách nói lên
tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
|
|
Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét