Tin, cậy, mến và thập giá Đức Ki-tô (Lm. Karl
Rahner, S.J.)
Dịch từ bản tiếng Đức: “Glaube, Hoffnung, Liebe und das Kreuz Christi”
in Karl Rahner, Sämtliche Werke, Bd. 23, Herder.Freiburg , 2006, 366-370
in Karl Rahner, Sämtliche Werke, Bd. 23, Herder.
Thập giá-cây sự sống
tranh ghép trên cung thánh nhà thờ thánh Clemente, Roma. TKXII
Chúng ta chiêm ngắm thập
giá Đức Ki-tô với niềm tin, cậy, mến. Ba thái độ nền tảng của đời ki-tô hữu này
sẽ là chủ đề và nội dung ba phần suy niệm dưới đây, đặt trong tương quan với Thập
Giá Đức Ki-tô. Qua việc xếp thứ tự tin-cậy-mến, chúng ta cũng hiển nhiên ý thức
rằng việc khoanh vùng cục bộ cuộc sống ki-tô hữu chúng ta thành ba khía cạnh và
diễn tả chúng thành từng đoạn suy niệm một phải được lồng vào tổng thể, mà
trong đó ta khám phá ra ý nghĩa của tin-cậy-mến, khi chúng quy hướng về thập
giá Chúa. Dĩ nhiên những điểm suy niệm khiêm tốn dưới đây chỉ có thể diễn tả rất
ít sự phong phú khôn dò của mầu nhiệm Thập Giá.
Tin
Đức tin chiêm ngắm thập
giá Chúa. Điều mà thập giá ngỏ lời trước tiên với các tín hữu về cuộc sống của
họ chính là những thực kiện đánh dấu cách trần trụi và kinh khủng cuộc sống của
con người. Thực kiện ấy là: Thập giá (dù ta muốn gọi thế này hay thế khác) là một
“sự vật” thuộc về cuộc sống con người, mà suốt đời người ta không thể nào trốn
chạy được. Thập giá hiện diện trong chính cuộc đời của Đức Giê-su trong những
hoàn cảnh đáng sợ và đặc thù mà chúng ta không thể nào hiểu hết được. Nhưng
trong dòng lịch sử đáng thương của nhân loại không chỉ lặp đi lặp lại khắp nơi
toàn là những biến cố mới mà thôi, mà đối diện với bóng đen và sự khủng khiếp của
chúng thì chúng ta không thể nói gì hết ngoài sự câm lặng, như trước cái chết
đau thương của Đức Giê-su. Suy cho cùng, trong lịch sử ấy, không hề có sự phân
chia giữa kẻ chiến người bại, kẻ hạnh phúc người bất hạnh, mà thật ra (chúng ta
cứ quan sát cuộc đời một con người trong tổng thể và điểm kết của nó thì rõ) chỉ
có kẻ chiến bại mà thôi. Con người chúng ta là kẻ thảm bại dưới mọi hình thức:
nghèo đói, bệnh tật, thua cuộc, những o ép của cuộc đời, bất công tàn nhẫn của
xã hội, cảm giác tội lỗi và cuối cùng là cái chết. Con người bị dồn vào cõi mịt
mờ, cô đơn và vô thanh đến chết người ấy, điều mà trong ngôn ngữ nhà đạo chúng
ta xưa nay vẫn dùng là “Thập Giá”.
Chúng ta không thể giảm
nhẹ sức nặng của thập giá. Thập giá đè lên cuộc đời chúng ta cho tới khi cái chết
vồ lấy chúng ta; và thập giá, lại một lần nữa, là biểu tượng của kẻ chiến bại,
được dựng lên trên mộ phần. Dĩ nhiên chúng ta phải và có khả năng kháng cự lại
mọi sự dữ trong xã hội và đời sống cá nhân. Dù vậy, ta không được hiểu sai sứ
điệp thập giá, theo kiểu tự nhủ thầm, thôi đừng làm gì cả, hay theo kiểu ra lời
an ủi kẻ khác, về những điều mà theo lẽ chúng ta đã phải tranh đấu cho và vì họ.
Nhưng cả những điều vừa nói cũng sẽ chẳng thay đổi điều này: là tất cả chúng ta
rồi sẽ phải đối diện với cái chết, – tức cái tự tồn hữu ngay trong khái niệm sống
-, và thêm nữa cuộc sống của chúng ta là một đàng thánh giá tiến về sự chết, về
phía nỗi cô đơn và mịt mờ của nó.
Nhưng nếu bây giờ ta tự
hỏi: liệu đức tin của chúng ta, một khi ngước nhìn thập giá, có dám chấp nhận sự
khó hiểu đến vô lý của thập giá không. Đặt sự khó hiểu ấy đối diện với cái thực
tế phũ phàng của cuộc sống thì chúng ta được kết quả hiển nhiên là: chúng ta được
mời gọi vác lấy thập giá mình và bước theo Đức Giê-su. Hẳn ta thấy còn biết bao
nhiêu cá nhân và cộng thể vẫn không thoát ra được cơn cám dỗ triền miên, là cố
che dấu cái cay đắng của hoàn cảnh mình hay chối bỏ những lời chính Đức Ki-tô
đã thốt ra trên thập giá. Như đã nói, chúng ta được phép kháng cự lại thập giá.
Trong đời sống cá nhân và xã hội, chúng ta cũng đã phần nào giành được phần thắng,
lắm khi thắng rất oanh liệt. Vì thế, tự bây giờ chúng ta có quyền được hạnh
phúc, được quyền lạc quan về sức mạnh của cuộc sống, của tinh thần và thể xác.
Bao lâu chúng ta còn có thể sống với một thái độ như thế, thì chúng ta mới mong
có được tiếp phần chiến thắng thêm nữa. Nhưng tất cả những ý tưởng này không được
phép chối bỏ ý thức của chúng ta về thập giá. Những ai có tinh thần lạc quan về
cuộc đời phải là người nắm giữ bí mật về sự hiệp nhất này: là chúng ta phải thực
sự muốn ôm ấp sứ điệp của Thập giá, cho mình.
Tới đây, trong cõi
tĩnh lặng của tâm hồn, chúng ta đặt cho mình câu hỏi: Đâu là thập giá đời tôi,
thập giá mà tôi không muốn thấy và tự thâm tâm không muốn nhận lấy, nhưng thập
giá ấy thực ra sẽ trở thành thập giá chúc phúc của Đức Ki-tô, nếu tôi muốn thực
sự đón nhận nó? Mỗi người đều được hỏi như thế, và mỗi người phải tự mình cho
câu trả lời. Nếu một người lớn mà nói như thế này, rằng câu hỏi này thật ra
không phải là một nỗi bận tâm lắm trong đời anh ta, thì anh ta có thể hoặc là một
người, dù có thể vô danh, nhưng đã có được sức mạnh từ thập giá của Đức Giê-su
Ki-tô rồi, hoặc là một người hiện còn ở lại hoàn toàn trong sự mù lòa đáng sợ của
mình đến nỗi chẳng có thể đối diện nổi với những câu hỏi cuộc đời riêng. Tất cả
chúng ta, ai cũng bị đặt câu hỏi, nhưng mỗi người tùy theo cách của mình.
Cậy
Hy vọng (đức cậy)
trong bối cảnh thập giá là nội dung suy tư sau đây của chúng ta. Trước khi đi
vào đề tài này, chúng ta có một lưu ý nhỏ nhưng cần thiết. Chúng ta muốn nói đến
một niềm hy vọng có thể bao trùm và chứa đựng hết tất cả. Ý nghĩa và sức mạnh của
niềm hy vọng ấy, chúng ta gọi là Thiên Chúa và niềm hy vọng ấy, trong tương
quan với thập giá Đức Giê su, sẽ được nhìn nhận như một thách đố và đồng thời
là một bảo chứng. Ngược lại với hy vọng là sự hoài nghi tuyệt đối. Có khi nó
thâm nhập rất đơn giản và yên ả trong cuộc đời người này và có thể là một thái
độ thực sự “rắp tâm” trong cuộc đời một người khác. Tuy nhiên, ở nơi nào mà đời
người bị giày xéo bởi đau khổ, dằn vặt và sự chết, cũng như ở nơi nào mà cơ hội
để được là chính mình và tự mình xây dựng những khả năng như mình phải có bị cưỡng
đoạt, thì ở đó thế nào cũng có một kiểu hoài nghi nào đó, một kiểu mà quan niệm
tội lỗi và nghi ngờ xét theo nghĩa cá nhân không còn có thể kể đến nữa. Hơn thế
nữa, người ta không chỉ còn là nạn nhân chịu đau khổ do một kẻ khác gây ra, mà
chính Chúa phải tiếp nhận trách nhiệm của kẻ ấy, để rồi Ngài đón lấy họ và đưa
vào trong lòng thương xót vô biên của Ngài. Thậm chí cả khi chúng ta cho rằng
phần số của kẻ bị hoài nghi ấy xem ra còn khủng khiếp hơn thế nữa.
Chúng ta có rất nhiều
niềm hy vọng trong đời và chúng chóng nở chóng tàn. Hơn nữa, chúng ta cũng tự hỏi,
liệu chúng ta có một niềm hy vọng đến từ Thiên Chúa hay không. Một niềm hy vọng
bao trùm mọi hy vọng, sẽ không hư mất, mà tồn tại mãi, trong khi những điều hy
vọng hão huyền của riêng ta rồi sẽ mất đi. Chúng ta xây cho mình nhiều loại hy
vọng: sức khỏe, chiến thắng bệnh tật, thành công trong cuộc sống, tình yêu và cảm
giác được che chở, hòa bình trên thế giới và hàng ngàn điều khác mà cuộc sống của
chúng ta mong đạt tới. Những điều ấy tự chúng là tốt, và chúng ta luôn có dịp
kinh nghiệm lúc này lúc khác, cách này cách khác hoa trái tốt đẹp của những hy
vọng ấy. Nhưng cuối cùng mọi hy vọng kiểu ấy sẽ biến thành thất vọng. Chúng
chênh vênh rồi tàn lụi, cho dù trước đó những hy vọng ấy trở thành hiện thực
hay vẫn còn dang dở. Vì dầu thế nào đi nữa, chúng ta, ai cũng sẽ phải đi vào
cõi chết, và trên con đường ấy, từng niềm hy vọng một sẽ bị lấy đi.
Vậy sau đó thì sao?
Chuyện gì sẽ đến, nếu chúng ta, trong một giờ tĩnh lặng hay giữa những va chạm ồn
ào của cuộc sống, bị dồn vào tình trạng mất hy vọng tuyệt đối, không còn gì để
hy vọng nữa? Cái gì có thể soi sáng, nếu những nguồn sáng của cuộc đời thường
nhật của chúng ta, từng cái một tắt mất? Khi mà cả ngày và đêm, tất cả đều bị đẩy
vào cõi hư vô thinh lặng dị thường? Nào có phải trong giây phút lâm chung, tất
cả các hy vọng chỉ còn là những hoài nghi, cái hoài nghi tự mình bóp nghẹt,
nhưng sau đó sẽ còn lại một điều duy nhất? Cái duy nhất ấy là biến cố của niềm
hy vọng đơn thuần và duy nhất nhưng bao trùm tất cả? Rồi người tín hữu sẽ trải
qua kinh nghiệm này là, chính khi mọi hy vọng chết đi, thì niềm hy vọng “ấy” sẽ
trỗi lên và có thể chiến thắng. Lúc đó ta không cần bất kỳ hy vọng nào khác mà
chúng ta nên bám víu vào, cho bằng chính niềm hy vọng mà ta không hiếu hết được,
niềm hy vọng bao trùm tất cả và có tên gọi là Thiên Chúa, một niềm hy vọng trỗi
lên trong thinh lặng.
Và nếu chúng ta hiểu
và phó thác, rằng chính điều không thể hiểu được ấy là quê hương thật và thánh
phúc, thì ta sẽ trải nghiệm rằng, ta không cần phải gồng mình để bám trụ nữa,
không phải chiến đấu để chiến thắng nữa, không chạy cuống cuồng theo điều này
điều kia đề đặt hy vọng vào chúng. Cái bất khả lĩnh hội thì cách nào đó tự mình
dịch chuyển và mang trong mình sự ứng nghiệm có khi không thành lời.
Tuy nhiên, trong đức cậy
Ki-tô giáo còn có niềm hy vọng khác nhưng đi kèm sự hiểu biết, về cuộc chiến thắng
của Đức Giê-su trong hành trình tự hủy của Ngài. Và cả hai khoảnh khắc này, – tức
là một bên là phó mình vào trong ý định khôn dò của Thiên Chúa, hiểu như là một
ân phúc vô danh của chúng ta và một bên là sự tuyên tín về cuộc chiến thắng của
Đức Giê-su trong hành trình cõi chết -, sẽ định hình và bổ trợ người tín hữu và
xây dựng cho họ đức cậy Ki-tô. Và nếu có lúc nào đó ta đối đầuvới sự nhạt nhẽo
và nhàm chán của cuộc sống, với cảm thức tội lỗi không thoát ra khỏi chúng được
và đi vào những nỗi hồ nghi, thì lúc ấy, trong khi nhìn lên Chúa Giê-su, Đấng
thánh và quên mình, ta nhớ lại rằng: trong cuộc đời dương thế này, ta không được
phép, dù chỉ một lần, để mình rơi vào cái tình trạng vô nghĩa trống rỗng hồ
nghi, nhưng nhìn nhận phần số đời mình như là một thực thể sống động luôn luôn
hiện hữu bên Thiên Chúa. Vì lẽ đó, người tín hữu cũng cần đến niềm hy vọng ấy,
vì Đấng chịu đóng đinh trên thập giá đã yêu mến ta cho đến cùng. Và thế là kinh
nghiệm về Thiên Chúa, diễn ra trong lúc các hy vọng cá nhân mình tan chảy, sẽ gắn
kết với lời tuyên xưng về Đấng chịu đóng đinh – Đấng chiến thắng đưa chúng ta
vào niềm hy vọng Ki-tô. Chúng ta có muốn có niềm hy vọng, niềm hy vọng duy nhất
ấy không? Chúng ta có đủ sức cầu nguyện cùng Giáo Hội trong tuần thánh “Ave
crux, spes unica – Kính chào thánh giá, nguồn hy vọng duy nhất của chúng con”
không?
Mến
Cuối cùng chúng ta ngước
nhìn lên tình yêu mà Đấng chịu đóng đinh dành cho ta. Tình yêu song phương giữa
Đức Giê-su và người tín hữu trong bối cảnh thập giá là đề tài thứ ba của chúng
ta. Đây là một đề tài không cần giả định nền tảng, bởi vì tình yêu mà ta bàn đến
ở đây chỉ có những người đang thực sự yêu nhau mới có thể hiểu mà thôi. Tất cả
mọi thứ tư biện về tình yêu đều sai lệch hết, huống chi ở đây là tình yêu của Đấng
Con Thiên Chúa chịu đóng đinh và tình yêu mà ơn cứu độ nó mang đến có ý nghĩa
cho toàn bộ cuộc sống chúng ta. Vì đặc tính phi nền tảng của tình yêu nên chúng
ta chỉ có thể khiêm tốn đặt ra hai câu hỏi: Đấng chịu đóng đinh trên thập giá
có yêu chúng ta, trong đó có tôi không? Tôi có khả năng yêu Ngài thực sự không?
Đức Giê-su trên thập
giá có yêu tôi không? Ngài có thể biết gì về cuộc đời chỉ sống một lần và cụ thể
của tôi không? Trong tình trạng u tối, bị Thiên Chúa bỏ rơi và bất lực hoàn
toàn ở cõi chết, Đức Giê-su có biết đến tôi không? Trong khi đang chết mòn trên
thập giá, tôi có chỗ trong lòng Ngài không? Và tình yêu ấy làm sao có thể xuyên
không gian và thời gian để đến nơi và lúc tôi đang sống và sẽ chết đây? Đối với
câu hỏi này chúng ta phải dùng đức tin mà trả lời „Có!” cho dù câu trả lời ấy vẫn
còn tăm tối đối với chúng ta, vì làm thế nào có được một tình yêu như thế trong
trái tim một con người giới hạn và đang đi vào cõi chết. Kinh nghiệm sống động
của Tin Mừng về Thần Khí của Đức Giê-su đã làm chứng về tình yêu ấy: Người đã
yêu tôi và muốn hiến mình vì tôi. Nền thần học uyên bác tìm cách lý giải tình
yêu được nói đến trong Kinh Thánh này trong mức có thể, như sau: tình yêu ấy chỉ
ra sự thống nhất căn để giữa Ngôi Lời Thiên Chúa với thực tế đời nhân loại của
Đức Giê-su, chỉ ra sự gắn kết giữa ý thức của bản tính thần linh với bản tính
nhân loại. Sự thống nhất vừa nói nơi Đức Giê-su làm cho Ngài biết được từng cá
thể con người, ngay cả trong ý thức nhân loại của Người.
Chúng ta có thể bàn
thêm một chút về khả thể của một tình yêu như thế dưới một góc độ khác. Các
phương diện và mức độ mà theo đó con người bước vào một tương quan và biến nó
thành tình yêu thì rất đa dạng và vì thế cũng có nhiều kiểu tình yêu: tình yêu
nông cạn, tình yêu „thường thường bậc trung”, hay tình yêu tận căn nằm trong
cõi sâu nhất của hiện hữu. Vì thế, sự gần gũi về thể lý với nhau hay tạo cho
nhau cảm giác hạnh phúc lúc này lúc kia suy cho cùng không là tình yêu tuyệt đối;
tình yêu tuyệt đối là một tình yêu, trong khi thực sự đi vào cõi sâu nhất thì
trở nên một và tồn tại mãi. Tuy nhiên dù trong ánh sáng chan hòa ân phúc hay
trong tình trạng đêm tối chết người mà ai đó thực sự dám phó thác mình vào mầu
nhiệm vô đáy một cách vô điều kiện, một mầu nhiệm giải thoát người ấy khỏi đêm
tối của chính mình, và nhờ thế nảy sinh một tình yêu tối hậu, cũng là một tình
yêu hy tế, và đồng thời mầu nhiệm ấy là nguyên lý và mục đích của mọi thực tại
và mọi con người, thì lúc đó từ trong bóng tối tử thần, kẻ yêu mến đến liều
mình ấy đã đạt đến cảnh vực sâu nhất của mọi thực tại và cận kề tất cả sinh
linh. Đức Giê-su yêu tất cả, yêu tôi, vì Ngài hoàn toàn quên chính mình và vì
thế từ phương thế bất khả thấu của mọi thực tại, mà chúng ta gọi là Thiên Chúa,
từ tất cả những điều ấy và thậm chí trong cả cái chết của tôi nữa, Ngài hoàn
toàn cận kề.
Tôi có thể yêu mến
Chúa Giê-su không? Hay đó chỉ là một tình yêu lập dị, một ý thức hệ thiếu thực
tế, một thứ nội quan thuần túy mang lòng đạo bình dân, hay là một thứ tình yêu
bù trừ; thái độ ấy hình thành trong ta vì ta thấy mình có lỗi, nặng nợ với một
con người cụ thể rõ ràng nào đó, những người mà ta phải gặp gỡ bằng xương bằng
thịt mỗi ngày? Ta có thể tìm thấy câu trả lời này trong chương 25 Tin mừng
Mat-thêu và thư thứ nhất của thánh Gioan: Theo các sách ấy, người ta chỉ có thể
yêu mến Chúa Giê-su và Thiên Chúa thật, khi người ta thực sự yêu mến anh chị em
mình. Khi ta yêu người thân cận mà không tính toán thiệt hơn và chấp nhận mọi
nguy cơ, thì một tình yêu như thế, dù trong lòng hay diễn tả ra ngoài, đã là một
đột phá đi vào thực tại bên kia, nơi Thiên Chúa và con người kết hợp mật thiết,
nơi mà Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho khả năng yêu, khả năng chịu đựng và là bảo đảm
đầy ân phúc cho mọi nỗi nhọc nhằn, nguy nan của tình yêu con người. Thiên Chúa
sẽ không để xảy ra cái nguy cơ thất bại cuối cùng nào trong tình yêu của con
người, và con người, trong sự thống nhất ấy, sẽ có khả năng yêu mến Thiên Chúa
nơi một anh em đồng loại. Sự thống nhất giữa hai mặt của tình yêu ấy có tên là
vị Chúa-Người Giê-su Ki-tô. Một tình yêu tha nhân mà không hề để ý đến khả năng
tự vệ trước nguy cơ vô lý của người khác dành cho mình thì hệ tại ở chỗ: nó sẽ
đi vào cái nguy cơ tận căn nhất ấy của nó, giống như bước đột phá đi vào tình
yêu của vị Chúa-Người, cho dù người đó đó có thật sự ý thức nó hay không. Tuy
nhiên, ai là Ki-tô hữu thì đã biết điều đó. Khi anh ta ra sức yêu mến anh chị
em mình thực sự thì anh ta có quyền hy vọng, rằng Giê-su sẽ yêu anh ta và tình
yêu này, trong khi mang dáng dấp của cầu nguyện và hy vọng, và bằng những
phương tiện rất cụ thể, sẽ tự trình bày chính mình.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu
đóng đinh bằng thái độ yêu thương, người tín hữu sẽ biết rằng: ở giữa sự vô
nghĩa của những thất vọng, những điều khốn khổ, cảm giác tội lỗi và ám ảnh bởi
cái chết của tôi, thì tôi được bao bọc bởi một tình yêu từ thuở đời đời. Nhờ
tình yêu bao bọc tôi ấy, tôi được giải thoát trở nên tự do, để biết yêu mến
Thiên Chúa và con người.
Chuyển dịch: Giuse Bùi Quang Minh, S.J
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét