Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 18, 1-8
"Ngài cư trú và làm
việc tại nhà họ, và giảng trong hội đường".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô rời
Athêna đi Côrintô; ngài gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa từ
đất Ý-đại-lợi đến làm một với vợ là Priscilla (bởi vì vua Clauđiô đã ra lệnh trục
xuất mọi người Do-thái khỏi Roma); Phaolô đến gặp họ. Và vì chung một nghề, nên
ngài cư trú và làm việc tại nhà họ: họ làm nghề dệt bố để làm nhà lều. Mỗi ngày
Sabbat, ngài đến tranh luận tại hội đường, nêu danh Chúa Giêsu, thuyết phục người
Do-thái và Hy-lạp.
Khi Sila và Timôthêu từ
Macêđônia đến, Phaolô chỉ chuyên lo việc giảng dạy, minh chứng cho người
Do-thái biết Chúa Giêsu là Ðức Kitô. Nhưng họ công kích và lăng mạ Ngài, nên
ngài dũ áo nói với họ: "Máu các ngươi đổ trên đầu các ngươi. Phần tôi, tôi
vô can, từ đây, tôi sẽ đến với dân ngoại".
Ngài ra khỏi chỗ đó, vào nhà
một người kia tên là Titô Giustô có lòng kính sợ Chúa, nhà ông ở bên cạnh hội
đường. Bấy giờ Crispô trưởng hội đường, và cả nhà ông tin theo Chúa; nhiều người
Corintô nghe giảng, cũng tin theo và chịu phép rửa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab.
3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c.
2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một
bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay
hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của
Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ
của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel . - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã
nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi
Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng
Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16, 16-20
"Các con sẽ buồn sầu,
nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa
các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy
người hỏi nhau: "Ðiều Người nói với chúng ta: "Một ít nữa các con sẽ
không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy", và "Vì Thầy
về cùng Cha", như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một
ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn
hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa
các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy
bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng.
Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu nói: "Anh em sẽ
khóc lóc than van, còn thế gian sẽ vui mừng". Ðức Giêsu báo trước viễn cảnh
cuộc khổ nạn của Ngài. Trước bản án thập giá của Ðức Giêsu, thủ lãnh thế gian
tưởng rằng mình đã chiến thắng, còn các môn đệ thì buồn sầu vì sự thất bại của
Thầy mình. Nhưng chiến thắng của thế gian không phải là chiến thắng cuối cùng,
và thất bại của Ðức Giêsu cũng không phải là thất bại sau hết. Nơi tận cùng của
cái chết là bắt đầu đi vào cuộc sống và chiến thắng vĩnh cửu: Ngài toàn thắng tội
lỗi, sự chết và phục sinh vinh quang.
Niềm vui của các môn đệ cũng
như mỗi người chúng ta đó là nhờ đức tin, chúng ta sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện
diện của Ðức Giêsu Phục Sinh và được hưởng sự sống đời đời do Ngài mang lại.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa Giêsu đã
đạt tới toàn thắng vinh quang nhờ trải qua một cái chết khủng khiếp, mà nhân loại
tưởng là sự thất bại nhục nhã.
Trong những lúc gặp thử
thách, xin cho chúng con biết kiên tâm tin tưởng nơi Chúa với tất cả niềm hy vọng.
Chúa sẽ ra tay giúp chúng con trong giờ phút cuối cùng mà chúng con không ngờ
trước được. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Thầy Trò Ly Biệt
Kinh điển Phật Giáo có ghi lại
câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột
cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: "Xin vui lòng chỉ cho tôi bất
cứ thuốc nào để làm cho nó sống lại". Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà
thôi. Cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một người lương y có thể
cải tử hoàn sinh đứa bé đó chính là Ðức Phật Thích Ca (Sakya: Thuỷ tổ Phật
Giáo, ông sinh ở miền Bắc Ấn Ðộ, đã có vợ con, sau đi tu hành tại Tuyết Sơn).
Người đàn bà mang đứa bé đến
cầu khẩn với ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Ðức Phật Thích Ca liền
nói: Ta cần một ít hạt cải. Người đàn bà liền tìm ít hạt cải mang lại cho Ðức
Phật. Nhưng vừa thấy, Ðức Phật nói với người đàn bà: "Hãy đi mời nhà nào
không có tang chế và hãy mời họ uống lấy những hạt cải này".
Tin lời Ðức Phật, người đàn
bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối
vì thật ra không có nhà nào lại không có một người đã ra đi. Khi người đàn bà
trở về nhà trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường
đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy,
người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà
đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.
Như vậy, con người sinh ra rồi
đến chịu đau khổ và tận cùng là cái chết. Ðó là phận số của kiếp người mà khi
Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức
loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài
không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như
thế lại có thể xảy ra cho Thầy mình, một người có quyền phép trên tất cả sự chết
và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối
cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này
Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa
Giêsu đã nói: "Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội
khi Ngài sống lại" (Ga 16,20).
Cái chết và sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết
và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người.
Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục
Sinh của Ðức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và khổ đau như một ngõ cụt
của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con
người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải
trải qua "một ít nữa các con sẽ không xem thấy Thầy, rồi một ít nữa các
con sẽ xem thấy Thầy" (Ga 16,16).
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ
tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất
của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu
khổ đau như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho
cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh
em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau
khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục
Sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.
(Veritas Asia)
Nỗi buồn trở thành niềm vui
Suy Niệm:
Trong bầu khí của bữa Tiệc Ly,
Thầy Giêsu nói với các môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu:
“Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy,
rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (c. 16).
Câu này có thể dễ hiểu với chúng ta
vì chúng ta biết rõ cái chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu.
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi,
cái chết này sẽ khiến các môn đệ không còn được thấy Thầy nữa.
Chúng ta cũng biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau,
Thầy Giêsu lại được phục sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy.
Thầy Giêsu nói với các môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu:
“Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy,
rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (c. 16).
Câu này có thể dễ hiểu với chúng ta
vì chúng ta biết rõ cái chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu.
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi,
cái chết này sẽ khiến các môn đệ không còn được thấy Thầy nữa.
Chúng ta cũng biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau,
Thầy Giêsu lại được phục sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy.
Mất Thầy là một thử thách lớn trong đời người môn đệ.
Thầy là chỗ dựa, là lý do khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này.
Chính Thầy đã gọi, đã kéo họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định
để lang thang đó đây, sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng.
Gần ba năm sống bên Thầy, chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại,
tình Thầy trò gần gũi như tình bạn hữu.
Bây giờ mất Thầy, họ sẽ đi đâu và đi với ai?
Cái chết trên thập giá của Thầy là đại tang của một người thân.
Nỗi đau này được nhân lên nhiều lần
vì họ đã không dám có mặt để lo liệu việc mai táng.
“Anh em sẽ khóc lóc và than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20).
Khi tảng đá đã khép kín ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa,
khi thế gian và thủ lãnh của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng,
liệu các môn đệ có vượt qua được nước mắt đau đớn này không ?
Thầy là chỗ dựa, là lý do khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này.
Chính Thầy đã gọi, đã kéo họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định
để lang thang đó đây, sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng.
Gần ba năm sống bên Thầy, chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại,
tình Thầy trò gần gũi như tình bạn hữu.
Bây giờ mất Thầy, họ sẽ đi đâu và đi với ai?
Cái chết trên thập giá của Thầy là đại tang của một người thân.
Nỗi đau này được nhân lên nhiều lần
vì họ đã không dám có mặt để lo liệu việc mai táng.
“Anh em sẽ khóc lóc và than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20).
Khi tảng đá đã khép kín ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa,
khi thế gian và thủ lãnh của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng,
liệu các môn đệ có vượt qua được nước mắt đau đớn này không ?
“Ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… (c. 16)
và nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (c. 20).
Anh em sẽ lại thấy Thầy lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh,
lúc Thầy sai Thánh Thần đến ở với và nâng đỡ anh em,
và nhất là lúc Thầy đồng bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc.
Khi gặp lại Thầy và nhận ra Thầy đang sống,
thế nào anh em cũng hết phiền muộn đắng cay.
Nỗi buồn của anh em tan biến khi anh em biết rằng
Thầy mới là người chiến thắng.
và nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (c. 20).
Anh em sẽ lại thấy Thầy lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh,
lúc Thầy sai Thánh Thần đến ở với và nâng đỡ anh em,
và nhất là lúc Thầy đồng bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc.
Khi gặp lại Thầy và nhận ra Thầy đang sống,
thế nào anh em cũng hết phiền muộn đắng cay.
Nỗi buồn của anh em tan biến khi anh em biết rằng
Thầy mới là người chiến thắng.
Đời sống người Kitô hữu đan xen giữa vui với buồn.
Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán.
Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày.
Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Niềm vui trong ta như sống lại với bao hy vọng dâng trào.
Chỉ xin đừng bỏ đi khi thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta.
Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán.
Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày.
Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Niềm vui trong ta như sống lại với bao hy vọng dâng trào.
Chỉ xin đừng bỏ đi khi thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy ;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy ;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J
17/05/12 THỨ NĂM TUẦN 6 PS
Ga 16,16-20
Ga 16,16-20
Suy niệm: Niềm vui của
những người theo Đức Giê-su không phải là một niềm vui tinh quái: vui trên những
đau khổ của người khác; càng không phải là thứ niềm vui bệnh hoạn: tự hành khổ
của mình. Như người mẹ phải ưu phiền đau đớn để sinh con, và niềm vui vì đã
sinh cho đời một con người vượt quá cơn đau đớn. Cơn đau của các thánh tử đạo
trở thành niềm vui vì hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên quốc mà các ngài được hưởng.
Các ki-tô hữu tìm thấy niềm vui ngay giữa những đau khổ lớn lao, vì những đau
khổ ấy dẫn tới niềm vui đích thực không thể mất đi và cũng không bao giờ tàn lụi:
đó chính là niềm vui vì được sống, được sống đời đời.
Mời Bạn: Cái nhìn ki-tô
giáo về thế giới bể khổ này vừa thực tế –đó là chấp nhận sự thật khổ não của
nó– lại vừa lạc quan –vì có thể trở thành phương thế đem lại điều tốt đẹp cho
người khác. Bạn có dám chấp nhận một cái nhìn lạc quan như thế không? Điều gì
đang làm bạn đau khổ? Mời bạn thử nhìn lại nó với cái nhìn lạc quan của Tin Mừng.
Chia sẻ: Tôi và bạn làm gì để cùng với Chúa Giê-su biến
thập giá, điều khổ nhục nhất, trở thành niềm vui lớn lao nhất là sự sống lại và
sự sống đời đời?
Sống Lời Chúa: Làm một
việc hy sinh tự nguyện với ý hướng đem niềm vui cho những người lân cận mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa,
khi cầu nguyện con thấy Chúa là niềm vui; trong đời thường, Chúa dạy con phải
phục vụ. Xin cho con biết bắt chước Chúa biết tìm thấy niềm vui và hạnh phúc
khi dấn thân phục vụ anh em.
(5 phút Lời Chúa)
Cuộc sống thay đổi
Bài đọc: Acts 18:1-8: Jn 16:16-20.
Heraclitus, một triết gia Hy-lạp đã nói: "Không ai bước xuống
hai lần trong cùng một giòng sông;" vì nước sông một người bước xuống lần
trước khác với nước sông bước xuống lần thứ hai. Cuộc đời mỗi người cũng thế,
những gì xảy ra ngày hôm nay khác với những gì đã xảy ra ngày hôm qua, và cũng
khác với những gì sẽ xảy ra ngày mai. Ngày nào đều có sự vui tươi cũng như sự
khốn khó của ngày ấy. Cuộc đời của mỗi người được dệt bằng một chuỗi những mắt
xích nhỏ, là những biến cố xảy ra mỗi ngày. Điều cần thiết là con người phải biết
học hỏi từ những biến cố đã và đang xảy ra, để biết cách đối phó với những gì sẽ
xảy đến.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra cách cư xử của Phaolô
và sự dạy dỗ của Đức Kitô trước những thay đổi của cuộc sống. Trong Bài Đọc I,
Phaolô từ Athens, trung tâm văn hóa của Hy-Lạp, đến Corintô sinh sống bằng nghề
chế lều; mỗi ngày Sabbath, ông đều vào hội đường để rao giảng. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu báo trước những gì sẽ xảy ra cho Ngài và cho các môn đệ. Mục đích là
để giúp các ông biết cách chuẩn bị và đối phó với những gì sắp xảy ra.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô rời Athens và rao giảng Tin Mừng
tại Corintô.
1.1/ Phaolô vừa làm việc để sinh sống vừa rao giảng Tin Mừng mỗi
ngày Sabbath: Hành trình thứ hai là hành trình dài và lâu nhất trong 3 cuộc
hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô. Ông gặp nhiều thành công cũng như thất
bại, được chấp nhận cũng như bị từ chối, có lúc an bình và có lúc sóng gió.
Trình thuật hôm nay tường thuật những gì xảy ra khi ông bỏ Athens đến Corintô:
"Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontus, vừa mới từ
Italy đến, cùng với vợ là Priscilla, vì hoàng đế Claudio đã ra lệnh cho mọi người
Do-thái phải rời Rôma. Ông Phaolô đến thăm hai ông bà, và vì cùng nghề, nên ông
ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề chế lều. Mỗi ngày Sabbath, ông thảo
luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp." Nghề
chế lều là nghề cũ của Phaolô trước khi trở lại, chúng ta ngạc nhiên khi Phaolô
trở về nghề cũ để sinh sống thay vì dùng toàn thời gian để rao giảng Tin Mừng;
nhưng điều này có thể hiểu được, vì Giáo Hội sơ khai chưa có những trợ giúp cụ
thể cho những nhà truyền giáo. Phaolô phải tự kiếm kế sinh nhai, nhất là khi mới
chân ướt chân ráo đến những thành phố mới.
1.2/ Phản ứng của dân thành Corintô: Khi ông Silas và ông
Timothy từ Macedonia
xuống, thì ông Phaolô chỉ lo giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết
rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô.
(1) Những người từ chối không tin: Đa số là những người Do-thái.
Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: "Máu các người
cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến
với người ngoại." Mặc dù Phaolô được trao sứ vụ đặc biệt là rao giảng Tin
Mừng cho Dân Ngoại, ông vẫn tìm dịp rao giảng Tin Mừng cho những người Do-thái,
vì ông quan tâm đến phần rỗi linh hồn của họ; nhưng không có nhiều kết quả.
(2) Phaolô quay sang giảng cho Dân Ngoại và thu lượm nhiều kết
quả: Thất vọng về sự cứng lòng và chống đối từ người đồng hương, "Ông rời
bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là Titius Justus, ở
sát bên hội đường. Ông Crispus, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà.
Nhiều người Corintô đã nghe ông Phaolô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa."
2/ Phúc Âm: Anh em sẽ lo buồn,
nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.
2.1/ Các môn đệ không thể hiểu Chúa Giêsu biết trước mọi sự sẽ xảy
ra: Khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không
còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy;" vài người
trong nhóm môn đệ của Đức Giêsu hỏi nhau: "Người muốn nói gì khi bảo chúng
ta: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ
lại thấy Thầy" và "Thầy đến cùng Chúa Cha?" Vậy các ông nói:
""Ít lâu nữa" nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói
gì!"
Đối với chúng ta, những người đã đọc Cuộc Thương Khó, cái chết
và sự sống lại của Chúa Giêsu, đoạn văn trên không có gì khó hiểu; nhưng đối với
các môn đệ trước Cuộc Thương Khó, có ít nhất ba điều các môn đệ không thể hiểu:
(1) Các ông không thể hiểu một người biết rõ ngày chết và cách
chết của mình, ngoại người tự kết liễu đời mình, như người Do-thái nghĩ về Chúa
Giêsu (Jn 8:21-22).
(2) Các ông càng không hiểu một người biết trước mình sẽ sống lại.
Truyền thống Do-thái không tin có sự sống lại như Nhóm Sadducees, hay quan niệm
sống lại chỉ có trong Ngày Phán Xét (Jn 11:24). Các ông không ngờ Chúa sống lại
chỉ ít ngày sau khi chết.
(3) Các ông cũng không hiểu lời Chúa nói "Thầy đến cùng
Chúa Cha" có nghĩa gì; vì các ông chưa hoàn toàn tin tưởng mối liên hệ giữa
Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
2.2/ Phản ứng của con người trước Cuộc Thương Khó của Đức Kitô:
Đức Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: "Anh em bàn luận
với nhau về lời Thầy nói: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi
ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy." Rồi Chúa Giêsu cắt nghĩa thêm cho
các ông hiểu: "Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van,
còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở
thành niềm vui."
(1) Các môn đệ sẽ buồn sầu và than khóc về sự đau khổ, cái chết,
và sự vắng mặt của Chúa Giêsu trong cuộc đời các ông; nhưng khi thấy Ngài sống
lại và hiện đến, những nỗi lo lắng và buồn sầu sẽ biến thành hy vọng và niềm
vui. Trong cuộc sống của người Kitô hữu cũng thế: Có những lúc họ sẽ cảm thấy
việc theo Chúa đòi hỏi quá nhiều cố gắng và hy sinh, khi bị cám dỗ về những thú
vui thế trần; nhưng sẽ tới ngày những cố gắng và hy sinh của họ sẽ đơm bông kết
trái, và họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
(2) Thế gian sẽ vui mừng: Thế gian được hiểu ở đây là những người
chống lại Thiên Chúa, kết án, và giết Người Con Một của Ngài; một cách cụ thể
là những người trong Thượng Hội Đồng. Họ tưởng là đã tiêu diệt được người quyến
dũ dân chúng và làm cho họ mất quyền lợi và thế lực trên dân. Nhưng vui mừng của
thế gian cũng chỉ tạm thời, vì sau đó sẽ là thời kỳ than khóc. Ai chạy theo những
lạc thú của thế gian cũng thế, họ chỉ có thể vui vẻ trong một thời gian ngắn;
nhưng sau đó sẽ là những mệt mỏi, chán chường. Nỗi than khóc bất hạnh nhất của
thế gian là không biết, không có, hay đánh mất Chúa.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc sống, chúng ta phải đương đầu với nhiều thay đổi;
nhưng may mắn cho những người tín hữu chúng ta, những gì chính yếu đã được Chúa
Giêsu mặc khải qua Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần học hỏi lịch sử và Kinh Thánh để biết những điều
chính yếu trong cuộc đời, và biết cách chuẩn bị để đối phó với những thay đổi của
cuộc đời.
- Mẹ Maria là mẫu gương lý tưởng cho chúng ta nhận ra thánh ý
Thiên Chúa trong những thay đổi của cuộc sống: Mẹ luôn thinh lặng, ghi nhận mọi
biến cố xảy ra, và suy niệm trong lòng.
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17-5
Cv 18, 1-8; Ga: 16, 16-20.
LỜI SUY NIỆM:
“Thật, Thầy bảo thật
anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo
buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.” (Ga 16,20).
Chúa Giêsu
cho các môn đệ của Ngài biết trước những gì, người môn đệ phải gánh chịu trong
cuộc sống của mình như là: Phải thiệt thòi nhiều mặt khi phải sống công bình và
bác ái, phải yêu thương và phục vụ tha nhân vì Chúa, phải biết cảm thông và
chia sẻ với người anh em trong thân phận mỏng dòn của con người cho đến ngày
Ngài tái lâm, và Ngài hứa sau những khóc than, lo buồn đó là cả một niềm vui
vĩnh cửu.
Niềm vui lớn
nhất với người môn đệ là: nhận được ân sủng, nhận được yêu thương và luôn được
tha thứ của Thiên Chúa. Niềm vui này là vĩnh cửu, niềm vui này độc lập với thời
gian và không gian, độc lập với những may rủi và sự thay đổi của thế gian. Chẳng
bao giờ bị lấy mất. Niềm vui sẽ trọn vẹn là được Chúa Giêsu Ki-tô hiện diện và
được sống với Ngài. Không có sự pha trộn sự bất toàn.
Mạnh Phương
*****************************************
17 Tháng Năm
Ði Một Ðoạn Ðường Với
Chúa
Người Ấn Ðộ có kể một câu chuyện ngụ ngôn như
sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Ðêm ngày, anh cầu
nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình thành sự thật. Quả thực,
không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng của một con người đẹp đẽ,
uy quyền, trầm tĩnh.
Chúa đề nghị với anh: "Con có thể đi với
Ta một quãng đường không?". Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ
hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như một đôi bạn tri âm. Ði một lúc, Chúa dừng
lại nói với anh: "Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta một ít nước
không?".
Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh
tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để mang về cho Chúa...
Nhưng, anh đi tìm mãi mà không thấy nơi nào có nước... Anh đi mãi để rồi cuối
cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa, thì
tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp đến độ người thanh
niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn nghĩ đến việc mang
nước về cho Chúa.
Anh nấn ná đến làm quen với cô gái. Họ thương
nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh phúc cho bằng.
Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến một nơi khác.
Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng
lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn. Anh
khóc thương cho thân phận bọt bèo của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc
loài của anh.
Giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện trước mặt
anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: "Này con, con có mang nước về cho Ta không?
Con làm gì để Ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ".
Một người cha nhân từ mòn mỏi trông đứa con
hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc
khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng". Từng
ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đằng xa, ông đã chạy
đến để giang rộng đôi cánh tay để ôm trọn đứa con vào lòng, không một lời quở
trách, không một cử chỉ bất bình... Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng Ngài ẩn mặt với chúng ta. Nhưng
kỳ thực, chính Ngài mới là Ðấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ đợi
chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính Ngài
đang ở với chúng ta.
(Lẽ Sống)
*****************************************
"Các
con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Không thấy rồi lại
thấy
Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đoạn
Tin mừng này. Đức Giêsu nói: “Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa anh em sẽ lại thấy Thầy. Thầy về cùng Chúa Cha”. Phải nghĩ gì về ẩn ngữ
này? Đức Giêsu đi du lịch một thời gian ngắn ư? Sự vắng mặt của Người giống như
một cuộc hành trình đến miền nhiệt đới ư? Hay lời Người như trò chơi hú tim của
trẻ em, lúc ẩn, lúc hiện bất ngờ ư? Những lời này tàng chứa một mặc khải phong
phú. Hôm nay, chúng ta nghe biết sự mặc khải trọn vẹn về sinh lực của Đức Kitô:
Thầy về cùng Cha. Đức Kitô đang chuẩn bị sẵn sàng khởi hành về Đấng là nguồn sự
sống, nguồn sinh lực.
Cuộc sống của Đức Kitô không ngừng
ra đi và trở về. Không đi bằng con đường đất đá, nhưng bằng con đường huyền diệu
sâu thẳm và gắn bó mộ mến. Đức Giêsu càng ngày càng hiệp thông sâu xa vào kế hoạch
của Cha Người. Đó là con đường hiệp thông thực hiện cứu độ để lật ngược lại sức
nặng bất phục tùng của con người.
Tuy nhiên, trở về cùng Cha, Đức
Giêsu vẫn không xa lìa chúng ta. Càng hiệp thông với Chúa Cha sâu thẳm bao
nhiêu, Đức Giêsu càng ban tặng sự sống dồi dào. Vì Chúa Cha là nguồn sự sống,
đã ban sự sống lại và sự sống vinh quang cho Chúa Con để Chúa Con làm cho mọi
người được sống và sống lại với Người.
Chúng ta cũng được mời trở về cùng
Chúa Cha để tham dự vào chính nguồn sống đó. Nhờ đó, chúng ta càng ngày càng thực
hiện được sứ vụ từ Chúa Cha trao cho để trở nên người thông truyền sự sống của
Chúa Cha và ra đi hiệp thông với người khác trong Chúa Con.
Thánh lễ lôi cuốn chúng ta vào dòng
sống trở về này. Trong dòng sống này chúng ta được liên kết với Đức Kitô, để thấy
được nguồn vui về cùng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta ở tột đỉnh con đường trở
về của Chúa Con.
C.G
Ngày 17
Cùng với Đức Giêsu ẩn kín trong Thiên
Chúa
"Lạy Cha, những người Cha đã ban cho Con, Con muốn họ nên một với Con, nơi nào Con hiện diện, Con muốn họ thấy vinh quang của Con'' (Ga 17,24). Phúc cho những ai ngay bây giờ đã có trạng sư cho mình trước mặt Thiên Chúa Đấng xét xử; phúc cho những ai có Đấng cầu bầu là Đấng phải được tôn thờ ngang hàng với Chúa Cha, Đấng mà con người phải dâng lên lời cẩu nguyện. Cha sẽ không từ chối thỏa mãn khao khát được diễn tả qua làn môi (Tv 20,3) chỉ vì Đấng cùng với Cha chỉ có một ý muốn, một sức mạnh và cùng là Chúa... "Con muốn rằng nơi Con hiện diện, họ sẽ ở với Con". Đó là điều bảo đảm cho kẻ tin, tin tưởng cho kẻ phó thác...
Trong ngày này, Đức Kitô "được nâng lên trước mắt các môn đệ của Người và biến dạng trong đám mây" (Cv 1,10). Người cố gắng lôi kéo tâm hồn họ bước theo Người và Người đã hứa với họ theo gương thân xác Người, thân xác họ cũng sẽ được đưa lên như vậy... Nhiều người muôn bay lên cùng với Đức Kitô trong lúc chiêm ngắm; đối với con, ít nhất là qua tình yêu.
Thưa anh em, vì Đức Kitô, kho tàng của chúng ta, đã về trời, tâm hồn của anh em cũng hướng về đó. Từ trên cao, chúng ta nhận được nguồn gốc của chúng ta và nơi đó, chúng ta sẽ chia sẻ gia sản của chúng ta.
Chân phước Guerric dTgny
Thứ Năm 17-5
Thánh Paschal Baylon
(1540 - 1592)
rong cuộc
đời Thánh Paschal, đế quốc Tây Ban Nha cực kỳ có thế lực ở Tân Thế Giới, mặc
dù sau đó không lâu, Pháp và Anh đã làm suy giảm thế lực này. Thế kỷ 16 thường
được gọi là Thời Ðại Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha, vì đã phát sinh các vị
thánh như Y-Nhã ở Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa ở Avila, Gioan Thánh Giá,
Phêrô ở Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator ở Horta.
Thánh
Paschal sinh ở
Năm
1564, Paschal gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn và tận tụy hiến thân cho cuộc đời
ăn năn đền tội. Mặc dù ngài được khuyến khích học làm linh mục, nhưng ngài chọn
làm thầy trợ sĩ. Trong những quãng thời gian khác nhau, thầy đảm trách các
công việc giữ cửa, nấu ăn, làm vườn và chính yếu là đi khất thực.
Thầy
Paschal rất thận trọng tuân giữ lời khấn khó nghèo. Thầy không bao giờ phí phạm
thức ăn hay bất cứ gì được sử dụng trong nhà dòng. Khi là người giữ cửa và tiếp
đón các người nghèo đến xin giúp đỡ, thầy nổi tiếng là độ lượng. Ðôi khi, các
tu sĩ trong dòng phải ngăn cản sự phóng khoáng của thầy!
Một đặc
tính của Thầy Paschal là sùng kính Thánh Thể. Ngoài những thời giờ bận rộn vì
nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước
Thánh Thể. Cuộc đời thầy đầy dẫy những phép lạ chữa lành mà dân chúng được
lãnh nhận qua sự cầu nguyện của thầy. Tuy là thầy trợ sĩ nhưng lúc bấy giờ rất
nhiều người tìm đến thầy để xin cố vấn.
Ngay cả
cái chết của thầy cũng được ghi dấu bằng một biến cố bất thường. Người ta kể
rằng thầy trút hơi thở cuối cùng khi linh mục nâng Mình Thánh lên cao trong Lễ
Hiện Xuống.
Thầy
Paschal được phong thánh năm 1690, và năm 1897, ngài được đặt làm quan thầy của
các tổ chức cũng như nghị hội về Thánh Thể.
Lời
Bàn
Việc cầu
nguyện trước Thánh Thể chiếm nhiều thời giờ và năng lực của Thánh Phanxicô. Hầu
hết các lá thư của thánh nhân đều thúc giục sự sùng kính Thánh Thể. Thánh
Paschal cũng noi gương đó. Một giờ cầu nguyện trước Thánh Thể có thể dạy bảo
chúng ta rất nhiều điều. Một số người Công Giáo đạo đức ngày nay thấy rằng
công việc của họ được phong phú hóa là nhờ những giây phút dành để cầu nguyện
và chiêm niệm trước Thánh Thể.
Lời
Trích
"Hãy
suy nghĩ kỹ về điều này: Hãy tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thật đúng
khi bạn tìm kiếm Thiên Chúa trước hết và trên hết mọi sự, bởi vì Thiên Chúa
cao cả sẽ ban cho bạn những gì bạn cầu xin. Ðiều này cũng giúp bạn sẵn sàng
phục vụ Thiên Chúa và kính mến Người cách tuyệt hảo hơn" (Thánh
Paschal).
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét