Trang

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

06-06-2012 : THỨ TƯ TUẦN IX MÙA THƯỜNG NIÊN



Thứ Tư Tuần 9 Thường Niên Năm II



BÀI ĐỌC I:2 Tm 1, 1-3. 6-12

"Con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa trong con qua việc đặt tay của cha".
Khởi đầu thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthêu.
Phaolô, tông đồ của Đức Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, thể theo lời hứa ban sự sống trong Đức Giêsu Kitô, gởi lời hỏi thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Chúng chúng ta, ở cùng con. Cha cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng cha phụng thờ như tổ tiên cha đã làm, với một lương tâm trong sạch, ngày đêm cha luôn luôn nhớ đến con, khi cha cầu nguyện. Vì thế, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con, con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát và kêu mời chúng ta bằng ơn thiên triệu thánh của Người, không phải do công việc chúng ta làm, mà là do sự dự định và ân sủng đã ban cho chúng ta từ trước muôn đời trong Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng. Cha đã được đặt làm kẻ rao giảng, làm tông đồ và làm thầy dạy các dân ngoại. Cũng do đó, cha phải chịu những thử thách này, nhưng cha không hổ thẹn, vì cha biết cha tin vào Đấng nào, và cha chắc chắn rằng Người có quyền phép gìn giữ kho tàng của cha cho đến ngày đó. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 122, 1-2a. 2bcd

Đáp: Lạy Chúa, con ngước mắt nhìn lên Chúa (c. 1a).
Xướng: 1) Con ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ nhìn vào tay các vị chủ ông. - Đáp.
2) Như mắt của những người tỳ nữ nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Ngài thương xót chúng tôi. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 12, 18-27

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'. Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông thật lầm lạc". Đó là lời Chúa.


(www.dongcong.net)



Thứ 4 sau CN IX TN:


Bài đọc: 2 Tim 1:1-3, 6-12; Mk 12:18-27.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ

Tin Mừng cắt nghĩa rõ ràng phúc trường sinh bất tử.


Sự sống đời đời hay phúc trường sinh bất tử là yếu tố quyết định làm con người sống thế nào trong cuộc sống đời này. Nếu một người không tin có sự sống đời đời, người đó sẽ làm mọi cách để hưởng thụ cuộc sống ngắn ngủi đời này, vì đó là quãng thời gian duy nhất họ có để hưởng thụ. Họ sợ đau khổ, sợ mất những gì họ có, và nhất là sợ chết vì chết là mất tất cả. Ngược lại, nếu một người tin có cuộc sống trường sinh bất tử, người đó sẽ làm mọi cách cho được hưởng cuộc sống hạnh phúc đời sau cho dẫu phải hy sinh chịu đau khổ ở đời này. Họ sẽ không quan tâm lắm đến việc hưởng thụ cuộc sống đời này vì họ biết còn cả một cuộc sống đời đời để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật câu hỏi có cuộc sống trường sinh bất tử không và làm thế nào để đạt được cuộc sống ấy. Trong bài đọc I, thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy, người môn đệ yêu quí của mình hãy nhớ lại Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người và sự cần thiết của việc rao giảng Tin Mừng để mọi người biết Thiên Chúa muốn họ được hưởng sự sống đời đời qua việc sai Người Con xuống trần để chuộc tội cho họ. Trong Phúc Âm, một số người Sadducees, những người không tin có sự sống lại, dựa vào Luật Moses bày ra một câu hỏi để chứng minh với Chúa Giêsu không có sự sống lại. Chúa Giêsu mắng họ đã sai lầm vì không hiểu Kinh Thánh: Thiên Chúa không phải là của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.

1.1/ Sự hiểu biết về cuộc sống đời đời qua các thời đại: Sự hiểu biết về sự sống lại và cuộc sống đời sau tuy đã được nói tới trong Cựu Ước; nhưng chưa rõ nét lắm. Đa số dân chúng vẫn tin cuộc sống hạnh phúc chỉ ở đời này, ai làm lành sẽ được Thiên Chúa cho sống lâu, cho nhiều con cháu, và cho của cải vật chất.

Đến thế kỷ thứ 2 BC, tiên tri Daniel là một trong số người đầu tiên nói về sự sống lại, sự phán xét và sự sống đời sau: "Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dan 12:2-3). Bà mẹ và bảy anh em nhà Maccabees sẵn sàng chết để tuân giữ luật của cha ông, vì họ tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác và linh hồn cho họ. Bà mẹ khuyên người con út bằng những lời tin tưởng sau đây: "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình" (2 Mac 7:22-23).

Đến thời Chúa Giêsu, Ngài mặc khải cho con người rõ ràng sự sống đời đời nằm trong Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và Ngài chính là Đấng mang phúc trường sinh bất tử cho con người qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Phaolô rao giảng và Ngài nhắc nhở cho môn đệ yêu quí là Timothy hôm nay: Phải đem Tin Mừng này cho mọi người để họ cũng nhận được phúc trường sinh bất tử đó.

1.2/ Làm sao con người đạt được phúc trường sinh bất tử: Đại đa số những người Do-thái thời Chúa Giêsu tin, họ có thể đạt được cuộc sống đời sau bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Moses. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho họ biết Lề Luật không có sức làm cho họ được cuộc sống trường sinh bất tử; nhưng họ phải tin và làm những gì Ngài truyền dạy. Thánh Phaolô là một ví dụ cho sự thay đổi này vì Ngài tin vào sức mạnh của Lề Luật cho tới khi bị ngã ngựa trên đường đi Damascus. Ngài dạy rõ ràng trong Thư Roma và Thư Galat: con người được công chính hóa (điều kiện để có ơn cứu độ) là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ Luật vì không ai có thể giữ trọn vẹn Luật. Ngài lặp lại điều đó với Timothy hôm nay: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.”

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu mặc khải về sự sống đời đời

2.1/ Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng: Trình thuật hôm nay nói về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người thuộc phái Sadducees. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ là những người thuộc phái lãnh đạo và là thành phần giàu có, nhiều người trong số họ là tư tế hay thượng tế. Khi họ đã có quyền hành, danh vọng, giầu có ở đời này, họ không cần đến sự sống đời sau nữa!

Họ dựa vào Luật (Deut 25:5) để chứng minh với Chúa Giêsu là “không có sự sống lại;” vì người vợ đó không thể thuộc về cả bảy người nếu có sự sống lại. Chúa Giêsu trả lời họ thẳng thắn: "Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (cf. Lk 20:35-36).

2.2/ Thiên Chúa không phải của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống: Chúa Giêsu nói họ không hiểu Kinh Thánh đúng đắn, vì Kinh Thánh đã nói về sự sống lại rồi. Khi Thiên Chúa hứa với Abraham sẽ ban cho ông một dòng dõi và đất làm gia sản. Ngài hứa cho Abraham, chứ không phải chỉ cho dòng dõi của ông. Abraham phải sống để nhìn thấy dòng dõi và hưởng đất làm gia sản; nếu không, ông làm sao biết lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Lý luận tương tự như thế cho những lời Thiên Chúa hứa với Isaac, Jacob, và vua David.

Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu dẫn chứng lời Thiên Chúa nói với Moses trong đoạn nói về bụi gai: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.” Động từ “là” được dùng ở thời hiện tại để chỉ Người luôn luôn là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Jacob. Điều này có nghĩa các tổ phụ đó phải đang sống. Chúa Giêsu kết luận: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!"

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Hiểu biết mặc khải của Thiên Chúa về phúc trường sinh bất tử là kiến thức không thể thiếu cho chúng ta và cho tất cả mọi người, vì biết làm sao sẽ sống như vậy.

- Phúc trường sinh bất tử là do bởi tình thương Thiên Chúa. Chúng ta không thể dựa vào bất cứ lý do gì ngoài việc tin tưởng Đức Kitô và giữ những gì Ngài truyền dạy.

- Chúng ta đừng mô tả Thiên Đàng theo trí tưởng tượng và sở thích con người, nhưng phải học hỏi Kinh Thánh để biết cách đúng đắn về cuộc sống đời sau.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

06/06/12 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 9 TN
Th. Nobetô, giám mục
Mc 12,18-27

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Đức Giêsu nói: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn chuyện lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời... Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” (Mc 12,25.27)

Suy niệm: Báo Newsweek năm 96 có kể trường hợp các thiếu niên cảm tử thuộc một tổ chức khủng bố Hồi giáo ở Trung Đông được hứa hẹn : nếu ôm bom xông vào đám đông thì sẽ được lên thẳng thiên đàng, nơi chảy sữa và mật, có 70 cô trinh nữ xinh đẹp hầu hạ và có 72 vé vào cửa thiên đàng để phân phối cho thân nhân. Rõ ràng một thiên đàng như vậy xa lạ với Kitô giáo chúng ta. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói cho ta biết thế giới mai sau khác hẳn thế giới hiện tại; thật sai lầm khi dùng những hình ảnh của thế giới này để áp dụng cho thế giới mai sau. Đức Giêsu chỉ nói rằng: “Khi ấy người ta sẽ giống các thiên thần trên trời.”

Mời Bạn: Ghi nhớ đích điểm của đời bạn là hạnh phúc vĩnh cửu, là sự sống đời đời cùng với Thiên Chúa. Để đạt được đích điểm cuộc đời ấy, bạn phải theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, Ngài vừa chỉ lối, vừa cầm tay dắt bạn đi đến đích.

Chia sẻ: Tôi đã sống theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu như thế nào để có thể đạt được hạnh phúc Nước Trời?

Sống Lời Chúa: Để sống theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu, mỗi ngày tôi cố gắng làm một cử chỉ yêu thương phục vụ người lân cận.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con có đời sống mai sau, và đời sống ấy khác hẳn với đời sống hiện tại. Xin giúp chúng con nhớ đến đích điểm cuộc đời chúng con, để chúng con luôn hăng hái và quyết tâm bước theo Chúa trên hành trình trần gian. Amen.




 

 

"Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".

Có sự sống lại

Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quý tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.

Thật thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.

Họ đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà thôi.

Chúa Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.

Từ khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.

Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời đời với Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Góa phụ của những người thuộc nhóm Xa- đốc

Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (Mc. 12, 25-27)

Lòng tin vào sự sống lại đến muộn màng trong Do thái giáo, nhưng vào thời Chúa Giêsu nói chung người ta đã chấp nhận và nhóm những người thuộc phe Xađốc không tin có sự sống lại chỉ là thiểu số. Theo họ thì linh hồn hư nát cùng với thân xác. Phần đông các thành viên nhóm này thuộc giới tư tế và được người ta coi như có tài trong những cuộc tranh cãi lắt léo, nếu không nói là rối rắm như mớ bòng bong, như trường hợp Phúc âm hôm nay, họ đặt ra một vấn đề có một không hai. Vấn đề có vẻ nực cười, nhưng không có ý giễu cợt đức tin. Vấn đề muốn cho thấy sự sống lại là điều khó và phi lý, vì tạo nên những hoàn cảnh phức tạp và khó gỡ ở bên kia thế giới, chẳng hạn như trường hợp người góa phụ của bảy đời chồng này sẽ không biết cuối cùng mình sẽ là vợ của ai trong số họ. Chắc chắn bà ta sẽ không có thể được hưởng niềm vui trọn vẹn, bởi vì trong dân Do thái, người ta coi niềm an vui phu thê là phần thưởng lớn lao. Câu trả lời của Chúa Giêsu phải được đặt trong bối cảnh này: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Nói cách lhác, sự sống của những người đã sống lại không cùng bình diện và tầm vóc với sự sống ở đời này.

Người được phục sinh không phải là một xác chết được sống lại

Nỗi bận tâm của những người thuộc phe Xađốc ở thời nào cũng có, dẫu rằng ngày nay người ta diễn tả không y như trước. “Chúng ta sẽ sống với những người thân của chúng ta sao? Tuổi đời đời là bao nhiêu? Có sẽ thoát khỏi những dị hình dị tật, những khuyết điểm của ta không?” Bảng liệt kê sẽ có thể dài dài đến vô tận. Đã thấy có những người lên mặt mô phạm dám đưa ra những câu trả lời cho tất cả những âu lo này, đang khi tự khởi đầu người ta đã đặt vấn đề không đúng; chúng ta sẽ không phải là những xác chết được sống lại để sẽ tiếp tục sống trên trái đất được sửa sang lại, nhưng là những con người mới trong một thế giới mới.

Phải nhận rằng chính Chúa Giêsu không cho ta biết mấy về tình trạng những người đã được phục sinh. Kiểu nói “giống như các thiên thần trên trời” chỉ có ý nói đến một cách thức hiện hữu khác biệt mà thôi. Nếu Thiên Chúa đã cho là tốt việc giữ yên lặng gần như hoàn toàn về tình trạng của đời sống hưởng phúc mai sau, thì thiết tưởng con người vì không đủ tư cách nên cũng đừng nói gì về đời sống xã hội ở đời sau. Những người đã được tuyển chọn hưởng phúc kia có thăm viếng ta hay không, điều đó chẳng ai biết được hay sẽ biết.

(www.gplongxuyen.net)

 

Ðón nhận Lời Mạc Khải

Trong bộ phim Con Tim và Một Thợ Săn Cô Ðơn có một đoạn thật ý nghĩa và cảm động, đó là khi một người điếc tên là ông Sinjung hỏi một bé gái về âm thanh của một dòng nhạc là thế nào. Cô bé tươi cười đứng trước mặt ông để cho ông được nhìn thấy những cử chỉ và những cái nhấp môi của cô diễn tả thế nào là âm thanh của một dòng nhạc. Nhưng cô không thể nào thành công cho ông điếc này hiểu thế nào là âm nhạc được cả. Cuối cùng cả hai cùng chịu thua và trút bỏ sự bực bội qua tiếng cười bù lại.

Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng gặp phải trường hợp tương tự như em bé trong chuyện phim nói trên. Chúa cố gắng giảng dạy cho con người phàm trần biết những sự thật cứu rỗi của thế giới Thiên Chúa khác với thế giới con người, và con người không thể hiểu được. Dù với lòng thành, con người cũng đã khó hiểu những sự thật của Thiên Chúa rồi, huống hồ với tâm địa hẹp hòi, ganh tị, thù ghét như những người Sađucêo trong đoạn Phúc Âm hôm nay. Họ bắt bẻ Chúa Giêsu, họ muốn hiểu về những sự thật trên trời theo tiêu chuẩn trần tục. Họ muốn hiểu thực tại thần thiêng dựa trên thực tại con người. Họ đã thắc mắc về sự sống lại và lý luận chống lại sự sống lại này bởi vì nếu có sự sống lại, thì theo họ, một người đàn bà đã từng làm vợ cho bảy anh em sẽ là vợ của ai khi sống lại.

Không ai biết được Thiên Chúa và sự thật của Ngài ngoại trừ Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô; và những ai mà Con Một Ngài muốn mạc khải cho biết: "Không ai thấy được Thiên Chúa bao giờ, ngoài trừ Con Một Ngài từ Thiên Chúa mà đến và mạc khải cho chúng ta biết". Nếu không phải từ Thiên Chúa mà đến thì chắc chắn Chúa Giêsu Kitô sẽ không thể nào mạc khải cho con người biết về Nước Trời. Thiên Chúa không ngừng ban ơn soi sáng con người, nhưng con người đáp lại ơn soi sáng của Ngài như thế nào? Chúng ta có đóng kín mãi tâm hồn và tiếp tục giải thích nếu muốn sự thật của Chúa, dựa theo những căn bản của lý luận trần tục, thiển cận của mình hay không?

Xin Chúa thanh luyện lòng trí chúng con cho chúng con được khiêm tốn tuân theo lời dạy của Chúa. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến và đổi mới tâm hồn chúng con cho chúng con được sẵn sàng hơn, xứng đáng hơn, đón nhận lời mạc khải của Chúa và thực hành trong cuộc sống hàng ngày.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

 

Ngày 09
Hãy là hy vọng cho mọi người
Khi thấy các môn đệ rút lui ra khỏi thế giới, Chúa sai họ đi vào thế giới khi nói với họ: "Hãy đi vào thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15)... có nghĩa là: hãy trở thành hy vọng cho mọi người, chính anh em cũng đã thất vọng và nhận ra sự bất tín của mình, khi anh em thấy cả thế giới tin vào lời của anh em, khi chính anh em chỉ tin vào những điều mình thấy; hãy hiểu sự cứng lòng chai đá của tâm hồn anh em, khi làm cho cả thế giới tuyên xưng Danh Thầy mà không cần nhìn thấy Thầy, trong khi anh em lại chối khi Thây đứng trước mặt anh em.

Anh em sẽ thấy những cư dân trên mặt đất rút lui, cố thủ trong các thành phố, sống trên sườn đá, cô độc trong sa mạc, các đạo sĩ của khoa học nghi ngờ, những tiểu thuyết văn minh đi tìm niềm tin. Vì niềm tin, trong khi anh em lại tìm cách sờ mó các vết thương trên tay của Thầy. Nhưng bởi vì Thầy sai anh em như những chứng nhân cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Thầy, Thầy chấp nhận anh em sẽ tìm hiểu sâu xa hơn, để sự lưỡng lự sẽ làm kiên vững trong niềm tin đối với những kẻ tin.
Thánh Pierre Chrysologue
 
(www.tinmung.net)


Thứ Tư 6-6

Thánh Norbert

(1080-1134)
T
hánh Norbert sinh ở Xanten, Rhineland khoảng năm 1080. Khi là thanh niên, Norbert rất yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó. Ðó là thói quen từ một gia đình quyền quý và được nối tiếp trong sinh hoạt của triều đình nước Ðức. Không một cuộc vui nào mà anh không có mặt. Ðể đảm bảo cho việc thăng quan tiến chức trong triều đình, anh không do dự chấp nhận chức kinh sĩ, là một chức thánh, và các lợi lộc tài chánh của chức vụ đó. Tuy nhiên, anh đã do dự khi trở thành một linh mục với tất cả các trách nhiệm của ơn gọi ấy.
Các biến cố xảy ra trong đời là để Thiên Chúa thức tỉnh con người. Một ngày kia, trong cơn bão Norbert đã ngã ngựa và bất tỉnh gần một giờ đồng hồ dưới cơn mưa tầm tã. Khi tỉnh dậy, câu đầu tiên anh tự hỏi là, "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Và tận đáy tâm hồn, anh nghe như có câu trả lời, "Hãy tránh xa sự dữ và làm việc lành. Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi sự bình an ấy."
Anh bắt đầu một cuộc đời cầu nguyện và sám hối. Sau khi chịu chức linh mục năm 1115, Cha Norbert thay đổi hoàn toàn đến độ các bạn bè cũ trong triều đình đều cho là ngài giả hình. Ngài phản ứng bằng cách phân phát hết của cải cho người nghèo và đến xin đức giáo hoàng cho phép ngài đi rao giảng.
Với hai linh mục bạn, Cha Norbert đi khắp Âu Châu để truyền giáo. Và để ăn năn đền tội, ngài đi chân đất giữa mùa đông buốt giá. Không may, hai linh mục bạn đã lâm bệnh và từ trần. Tuy nhiên, ngài bắt đầu được cảm tình của các giáo sĩ trước đây từng khinh miệt ngài. Ðức giám mục của Laon muốn ngài canh tân các kinh sĩ trong giáo phận, nhưng các kinh sĩ lại không muốn thay đổi theo kiểu của Cha Norbert, họ cho là quá khắt khe. Vị giám mục không muốn mất con người thánh thiện này, nên đã tặng cho Cha Norbert một phần đất đai để ngài có thể khởi sự một cộng đoàn. Trong thung lũng cô tịch ở Premontre, ngài đã khởi sự một tu hội với mười ba kinh sĩ. Dù với quy luật khắt khe, càng ngày tu hội càng thu hút được nhiều người, kể cả các kinh sĩ trước đây từng chống đối ngài.
Dù được sự giúp đỡ của các nhân vật thế lực trong triều, Cha Norbert biết không sức mạnh nào có thế lực cho bằng uy quyền của Thiên Chúa, do đó, tu hội Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể, và các tu sĩ đã thành công trong việc hoán cải các người lạc giáo, hoà giải các kẻ chống đối Giáo Hội và kiên cường đức tin cho các tín hữu.
Trong tu hội, còn có các giáo dân thuộc hàng vương tước của triều đình, và khi tham dự lễ cưới của một bá tước, Cha Norbert được Hoàng Ðế Lothair để ý và chọn ngài làm giám mục của Magdebourg. Với nhiệt huyết canh tân giáo hội, ngài đã cải tổ giáo phận và gặp nhiều sự chống đối cũng như có lần bị ám sát hụt. Chán nản vì giáo dân không muốn cải tổ, ngài bỏ đi nhưng được hoàng đế và đức giáo hoàng gọi lại.
Khi hai vị giáo hoàng kình địch nhau sau cái chết của Ðức Honorius II, Ðức Norbert đã giúp hàn gắn Giáo Hội bằng cách thúc giục hoàng đế hậu thuẫn cho vị giáo hoàng được chọn đầu tiên, là Ðức Innôxentê II. Vào cuối đời, Ðức Norbert được chọn làm tổng giám mục, nhưng ngài đã từ trần sau đó không lâu, khi 53 tuổi.
Tượng thánh Norbert trên cầu Charles, Prague, Tiệp. Bên trái là  thánh Wenceslas, bên phải là thánh Sigismund.

Lời Bàn

Một thế giới khác biệt không thể hoàn thành bởi những người thờ ơ, lãnh đạm. Ðiều đó cũng đúng với Giáo Hội. Giáo Hội không thể nào thay đổi phù hợp với tinh thần của Công Ðồng Vatican II nếu hàng giáo sĩ và giáo dân không tha thiết với việc xây dựng đức tin. Noi gương Thánh Norbert, chúng ta phải trung thành với Giáo Hội, nhiệt tâm sùng kính Thánh Thể để có sức mạnh giúp chúng ta sống theo đường lối của Ðức Kitô.

Lời Trích

Trong dịp tấn phong linh mục của tu hội, Thánh Norbert giảng, "Ôi linh mục! Bạn không còn cho chính bạn vì bạn là tôi tớ và thừa tác viên của Ðức Kitô. Bạn không còn thuộc chính mình vì bạn là hôn phu của Giáo Hội. Bạn không còn là chính bạn vì bạn là người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Bạn không có gì là của mình vì bạn là hư không. Vậy linh mục là gì? Là người không có gì cả và cũng là người có tất cả. Ôi linh mục! Hãy cẩn thận, đừng để những gì người ta nói về Ðức Kitô trên thập giá lại là điều nói với bạn: 'Hắn cứu được người khác, nhưng không cứu được chính mình!'"

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét