Trang

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

22-06-2012 : THỨ SÁU TUẦN XI MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ SÁU TUẦN XI THƯỜNG NIÊN năm II

BÀI ĐỌC I: 2 V 11, 1-4. 9-18. 20

"Người ta xức dầu cho Gioas và reo lên: Vạn tuế đức vua".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, khi bà Athalia, mẹ vua Ocôsia, thấy con mình chết, nên đứng lên giết tất cả dòng dõi nhà vua. Nhưng Giô-saba, con gái của vua Giôram và là chị của Ocôsia, cứu được Gioas, con của Ocôsia khỏi số các con của vua bị sát hại, và giấu nó trong phòng ngủ làm một với bà vú, để bà Athalia không thấy nó và nó khỏi bị giết. Nó ở trong đền thờ Chúa với bà Giôsaba cách bí mật được sáu năm, thời gian bà Athalia cai trị đất nước.
Năm thứ bảy, ông Gioiađa sai người đi tìm các sĩ quan và quân lính, ông đưa họ đi với ông vào đền thờ Chúa. Người ký giao ước với họ, bảo họ thề trong đền thờ Chúa và cho họ thấy con của nhà vua.
Các sĩ quan làm tất cả những điều tư tế Gioiađa truyền dạy: Mỗi người đem các thuộc hạ theo mình, những người lính vào canh ngày Sabbat cũng như kẻ ra canh, đều đến cùng tư tế Gioiađa. Ông trao cho họ giáo mác và khí giới của Ðavít để trong đền thờ Chúa. Mỗi người cầm khí giới đứng từ bên tả đến bên hữu đền thờ và bàn thờ, hộ vệ chung quanh đức vua. Tư tế Gioiađa dẫn hoàng tử ra, đặt triều thiên lên đầu người và trao cho người quyển giao ước. Người ta phong người làm vua và xức dầu cho người. Họ vỗ tay reo lên: "Vạn tuế đức vua!"
Athalia nghe tiếng dân chúng chạy đến, thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy vua đứng trên toà như thói thường, có ca sĩ và đội kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn hát, bà liền xé áo mình, kêu lên rằng: "Mưu phản! Mưu phản!" Nhưng Gioiađa truyền cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: "Các ngươi hãy đuổi bà ấy ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn". Vị tư tế nói: "Ðừng giết bà trong đền thờ Chúa". Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào đến gần cung điện và giết bà tại đó.
Gioiađa ký kết giao ước giữa Thiên Chúa với vua và dân, để họ trở nên dân Chúa; và ký giao ước giữa vua và dân. Toàn dân trong xứ đều ùa vào chùa Baal, phá huỷ các đền thờ, đập tan các bức tượng, và giết luôn thầy cả Mathan trước bàn thờ. Tư tế Gioiađa đặt các toán canh giữ đền thờ Chúa. Toàn dân trong xứ hân hoan, và thành đô được bằng yên: vì bà Athalia bị giết trong đền vua.
Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 131, 11, 12.13-14. 17-18

Ðáp: Chúa đã kén chọn Sion làm nơi cư ngụ cho mình (c. 13).
Xướng: 1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.
2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta, và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi. - Ðáp.
3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.
4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ trên mình người. - Ðáp.

ALLELUIA: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 6, 19-23


"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
 Ðó là lời Chúa.

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ SÁU TUẦN XI THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: 2 Kgs 11:1-4, 9, 18-20; Mt 6:19-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Kinh Thánh giúp con người đạt được ơn cứu độ. Nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ sáng.
Khi Thiên Chúa hỏi vua Solomon ông muốn xin bất cứ điều gì trên đời, Ngài sẽ ban cho ông! Ông không xin sang giàu, uy quyền, danh vọng, sức khỏe... Ông chỉ xin cho được khôn ngoan để hiểu biết điều đúng từ những điều sai lầm. Thiên Chúa rất hài lòng và ban cho ông được trở thành người khôn ngoan nhất trên đời đến nỗi trước ông và sau ông, không ai được như thế. Vì có khôn ngoan, nên ông có tất cả các thứ khác.
Các bài đọc hôm nay nhằm sáng tỏ một lần nữa tầm quan trọng của khôn ngoan trong cuộc sống con người. Trong bài đọc I, vì thiếu khôn ngoan nên khi chồng chết, bà hoàng hậu Dân Ngoại Athaliah ra lệnh giết tất cả các cháu của bà để cai trị xứ Judah. Toan tính của bà không qua được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vẫn còn một đứa cháu còn sót lại để làm vua nối dòng vương triều của David. Bà đã bị dân chúng giết và vứt xác bên ngoài Đền Thờ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết dùng khôn ngoan để phân biệt: của hư nát với của vững bền, kho tàng hư nát với kho tàng vững bền, mắt sáng và mắt tối.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Vì thiếu khôn ngoan, hoàng hậu Athaliah bị chết như kẻ vô danh.
Athaliah xé áo mình trước mặt cháu nội, vua Joash(phải)và đang bị hành quyết (trái)

1.1/ Hận thù chồng chất thêm hận thù: Bà Athaliah là con vua Ahab và hoàng hậu Jezebel, bà và kết hôn với Jehoram, con của bà Jehosaphat (2 Kgs 8:18). Mẹ nào con đó, Bà là người gian ác và thờ thần Baal. Khi Ahaziah là con của bà và Jehoram bị ám sát chết bởi Jehu một năm sau khi Jehoham qua đời, Bà Athaliah đứng lên ra lệnh tiêu diệt tất cả hoàng tộc để cai trị dân chúng.
Nhưng bà Jehosheba, ái nữ vua Joram và là chị của vua Ahaziah, đã ẵm Joash, con vua Ahaziah, lén đưa cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú nuôi. Như thế, cậu bé đã được giấu khuất mắt bà Athaliah, và cậu không bị giết. Cậu Joash ở lại với bà Jehosheba trong Nhà Đức Chúa, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà Athaliah cai trị xứ sở. Joash là cháu ruột của bà Athaliah và cháu họ của bà Jehosheba.
Lịch sử Do-thái không cho bà Athaliah không phải là người cai trị hợp pháp. Nếu bà Athaliah thành công trong kế hoạch cai trị, nhà David sẽ tuyệt tự; nhưng Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự và bà Athaliah phải trả nợ máu, họ đã lấy gươm giết chết Bà trong đền vua sau 6 năm cai trị.

1.2/ Toàn dân trong xứ kéo tới đền Baal mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần: Jehoiada là thượng tế trong thời bà Athaliah cai trị. Năm thứ bảy, ông Jehoiada sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đạo binh Carites và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà Đức Chúa với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà Đức Chúa, và cho họ được thấy hoàng tử. Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Jehoiada đã truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày Sabbath, cùng với những người hết phiên trực ngày Sabbath. Họ đến với tư tế Jehoiada. Mục đích của thượng tế Jehoiada là muốn cho dân chúng tin tưởng vào hoàng tử Joash có đủ hậu thuẫn để lên ngôi làm vua.
Toàn dân trong xứ kéo tới đền Baal mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. Còn Mattan, tư tế của thần Baal, thì họ giết ngay trước các bàn thờ. Rồi thượng tế Jehoiada đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Carites, các thị vệ và toàn dân trong xứ. Họ rước vua từ Nhà Đức Chúa xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền vua. Vua Joash ngự lên ngai vua. Toàn dân trong xứ thì vui mừng, mà thành vẫn không động tĩnh.

2/ Phúc Âm: Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

2.1/ Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời: Con người có thói quen tích trữ; nhưng phải biết khôn ngoan để tích trữ những gì không hư hoại và vào nơi tích trữ an toàn không ai có thể động tới được. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh về kho tàng dưới đất với kho tàng trên trời.
(1) Kho tàng dưới đất: Nhiều người nghĩ tiền là tiện nhất và nhẹ nhàng, nên họ đã cẩn thận bao bọc tiền có được đem chôn dưới đất. Ít lâu sau cần tiền họ đào đất mang lên, tiền đã mục nát và trở thành vô giá trị. Người khác cho chẳng gì bằng của ăn như gạo, bột mì, khoai sắn; nên họ cho xây những vựa to để chưa thực phẩm. Vài năm sau ra thăm, họ thấy vựa đã bị chuột cắn phá, gạo và lúa mì bị tràn đầy mối mọt. Người khác rút kinh nghiệm và kết luận chẳng gì bằng vàng bạc, vừa không mất giá, vừa không bị mối mọt, và họ yên trí cất giấu. Nhưng cất đâu cũng chẳng khỏi “tai vách, mặt rừng.” Họ bị kẻ trộm đến khoét vách lấy đi vàng bạc, và những đồ quí giá.
(2) Kho tàng trên trời: Những gì con người có thể làm và tích trữ trong kho tàng trên trời. Trước tiên là những việc lành phúc đức được thu tóm trong 7 mối thương phần xác và 7 mối thương phần linh hồn. Bảy mối thương xác là: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ bệnh cùng kẻ ở tù, cho khách độ nhà, chuộc kẻ làm tôi mọi, và chôn xác kẻ chết. Bảy mối thương linh hồn: lấy lời lành khuyên người, mở lòng kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ khinh dể ta, nhịn kẻ làm mất lòng ta, cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. Thứ đến, là những hiểu biết về Thiên Chúa và tình yêu dành cho Ngài. Hai điều này không thể tách rời vì chúng ta không thể yêu người ta không biết. Kiến thức về Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta yêu Ngài mỗi ngày một hơn. Sau cùng, Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài, và Ngài mời gọi chúng ta trở nên hoàn thiện giống như Ngài. Tiến trình nên hoàn thiện không phải chỉ dứt bỏ tội lỗi; nhưng còn phải tập luyện các nhân đức nữa.

2.2/ Nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng: Chúa Giêsu dạy: "Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào!” Mắt sáng mới thấy đường. Mắt mù, loạn thị và loạn sắc sẽ ảnh hưởng trên tầm nhìn của con người. Người mù lòa sẽ khổ vô cùng vì cả vũ trụ đối với anh là một màu đen. Đi đâu anh cũng phải có người hướng dẫn, nếu không sẽ bị té ngã vì những đồ vật trước mặt.
Như mắt sáng cần cho thân thể thế nào, sự khôn ngoan cũng cần cho đời sống tinh thần như vậy. Ít người chịu để ý đến sự mù lòa của trí khôn và tâm hồn; nhưng ảnh hưởng của nó trên con người còn lớn hơn là sự mù lòa trên cơ thể. Những người mù vẫn có thể được cứu độ nếu họ có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, như anh mù Bartimê thành Jericho hay người mù từ lúc mới sinh trong chương 9 của Tin Mừng Gioan.
Để hiểu điều này, chúng ta hãy suy niệm về câu truyện Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh trong Gioan. Những người biệt phái và Do-thái nghĩ họ sáng mắt và hiểu biết mọi sự; nhưng họ đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của họ, lại còn lên mặt kiêu căng, phách lối nên họ đã không nhận được ơn cứu độ như người mù. Nếu chúng ta có mắt sáng nhưng không nhận ra sự thật và sự khôn ngoan, để rồi lầm đường lạc lối trong những cám dỗ và tội lỗi của thế gian, người khác bảo sao chúng ta làm vậy, thì mắt sáng có làm lợi gì cho chúng ta đâu!

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta phải học hỏi để có khôn ngoan nhận ra những sai lạc của thế gian và những tăm tối của cuộc đời. Kho tàng ở đâu, lòng chúng ta ở đó. Hãy lo tích trữ cho mình những của cải vững bền trong kho tàng trên trời.
LM.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Sáu tuần 11 thường niên
Sứ điệp: Mục đích đời người là trở về với Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên con người. Ai không ái mộ những sự trên trời, người đó sống dang dở đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong Giáo Hội đã có bao kinh nghiệm của các thánh nhân dạy con rằng: chỉ có Chúa mới là cùng đích đời con. Thánh Âu-tinh sau 33 năm lặn lội với đời đã đạt được nhiều thành công ở đời, cuối cùng ngài đã nói: “Lòng tôi còn khắc khoải mãi cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Chính bản thân con cũng đã hơn một lần cảm nghiệm rằng: dù có thành đạt trong công việc làm ăn mà không giữ trọn vẹn luật công bằng thì lòng con vẫn bất an; dù bề ngoài có hả hê khi thắng thế đối phương, thì lương tâm con vẫn bị cắn rứt nếu con không sống trọn đạo bác ái với nhau…
Lạy Chúa, Chúa dạy con tìm kiếm kho tàng trên trời. Chính Chúa đã in trong lòng con khát vọng về Chúa. Lòng con chỉ được bình an khi sống trên đời mà tâm trí biết ái mộ những sự trên trời. Đời này chỉ là phương tiện, đời sau mới là cứu cánh. Trần gian là đường đi, và quê trời mới là đích đến, nơi đó có Chúa là Cha đang đón đợi con. Xin Chúa thêm ơn để con đừng mải mê đi tìm kho tàng dưới đất mà quên hướng về Chúa.
Xin dạy con chăm chỉ làm việc và đừng để công việc cản lối con về với Chúa. Xin cho con khi vui hưởng những thiện hảo trên đời, con đừng quên Chúa. Và khi con vui, con cũng vui sao để Chúa cùng vui được với con, để niềm vui được nối dài tới vĩnh cửu. Amen.
Ghi nhớ : "Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".

22/06/12 THỨ SÁU TUẦN 11 TN
T. Gioan Phisơ, giám mục và Tôma Mo, tử đạo
Mt 6,19-23

ĐÔI MẮT TÂM HỒN

“Đèn của thân thể là con mắt.” (Mt 6,22)

Suy niệm: Ai cũng biết cặp mắt vô cùng quan trọng, nó giúp ta mở ra với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, có cặp mắt khác, cặp mắt nội tâm, mở vào thế giới bên trong, cho thấy lòng dạ thật của con người. Thật diệu kỳ, vì con mắt là “cửa sổ của tâm hồn”, nó phản ánh nội tâm của một người. Người hiền lành đạo đức, hay hung dữ độc ác, thường hiển hiện qua ánh mắt họ.

Mời Bạn: Con người thường để ý tô điểm cặp mắt trần mà ít chú trọng đến cặp mắt thiêng, cũng giống như thích quan tâm đến thân xác bên ngoài mà coi nhẹ tâm hồn bên trong của mình. Lời Chúa mời gọi bạn để ý đến cặp mắt tâm hồn bên trong hơn là cặp mắt thể lý bên ngoài. Đôi mắt của một tâm hồn đẹp hệ tại ánh nhìn yêu thương, nhân hậu, cảm thông, tha thứ, trong sáng, không gian ác, tà ý, dâm bôn, thù hận, đố kỵ... Chính những điều tự nội tâm thâm sâu, không ai thấy, sẽ ảnh hưởng và thể hiện ra bên ngoài, trong cách ăn nói, cách xử thế của một người.

Sống Lời Chúa: Kitô hữu sống lời Chúa dạy bằng cách lo điểm trang nội tâm mình, giữ gìn tâm hồn mình luôn trong sạch, thánh thiện, không vương tì ố, xứng đáng là đền thờ thiêng liêng của Chúa Ba Ngôi. “Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn cho rõ” (Kh 3,18).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con đôi mắt của Chúa, để con không nhìn anh em con bằng vẻ hời hợt bên ngoài, mà nhìn vào sâu thẳm tâm hồn họ, như Chúa đã nhìn Phêrô và Phaolô để hoán cải hai ông, nhìn Giakêu để làm cho ông nên công chính, nhìn Lêvi để ông từ bỏ bạc tiền mà đi theo Chúa. Ước gì ánh mắt của Chúa nên ánh mắt của con, mọi nơi, mọi lúc và đến mọi người.



Kho tàng ở đâu, tim ở đó
Suy nim:
Cuộc sống con người ở đời thật mong manh và bấp bênh.
Vì thế con người muốn tìm cho mình một cái gì chắc chắn.
Của cải vật chất hứa hẹn cho con người một chỗ dựa an toàn.
Càng có nhiều của cải thì càng vững:
nhiều người đã thành thật tin như vậy
nên đã suốt đời lo tích trữ một kho tàng trên trần gian.
Thầy Giêsu không tin như thế.
Đối với Thầy, kho tàng dưới đất cũng mong manh và bấp bênh.
Thời xưa mối mọt là kẻ thù đáng sợ của nhiều thứ tài sản (G 4, 19).
Nhà cửa, đồ đạc đều có thể làm mồi cho chúng.
Thật ra vật chất tự nó đã mang mầm mống hư hoại rồi.
Hơn nữa, sự đe dọa không chỉ đến từ bên trong.
Kẻ trộm là nguy hiểm có thực đối với những căn nhà thời ấy.
Hắn có thể đào ngạch, khoét vách làm bằng bùn,
để lấy đi những của cải thường được chôn dấu dưới đất (c. 19).
Kho tàng dưới đất quả là không bền.
Thầy Giêsu đề nghị chúng ta tích trữ một cách khôn ngoan hơn,
tích trữ một kho tàng gì đó mà mối mọt không đục khoét được
và kẻ trộm không sao ăn cắp được.
Đó là thứ kho tàng trên trời được tích trữ qua bao việc lành,
những việc ta làm theo ý Thiên Chúa.
Có một sự khác biệt lớn giữa kho tàng trên trời và kho tàng dưới đất.
Tích trữ kho tàng dưới đất khiến ta cậy dựa vào của cải đời này.
Tích trữ kho tàng trên trời đòi ta hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa.
Kho tàng ở đâu thì tim anh ở đó (c. 21).
Kho tàng trên trời sẽ nâng tim anh lên trời cao.
Kho tàng dưới đất sẽ kéo tim anh xuống đất thấp.
Trái tim là nơi sâu thẳm của tâm linh con người.
Chính vì thế thi thoảng cần kiểm tra xem tim mình đang ở đâu,
kho tàng nào đang khiến mình gắn bó.
Chúng ta phải ngừng theo đuổi những kho tàng mau qua
để gắn bó với những giá trị thực sự bền vững.
Con người thời nay cũng phải sống trong sự bấp bênh triền miên.
Càng tiến bộ kỹ thuật lại càng có nhiều bất ổn, bất trắc,
nên đời sống vẫn không vì thế mà được thư thái bình an.
Nhiều người đã cảm được sự phù du của vật chất và tiếng tăm.
Tiền bạc và quyền lực như nước trôi qua kẽ tay, chẳng ai nắm được.
Thầy Giêsu mời chúng ta đổi mới cái nhìn.
Đừng nhìn bằng mắt xấu, nghĩa là bằng cặp mắt thèm muốn, tham lam.
Hãy nhìn bằng mắt tốt, nghĩa là bằng cặp mắt siêu thoát, quảng đại.
Cái nhìn bằng mắt tốt sẽ đem lại ánh sáng cho toàn thân (c. 22).
Cái nhìn bằng mắt xấu sẽ gây ra bóng tối kinh khủng (c. 23).
Con mắt là ngọn đèn cho thân thể.
Ước gì con mắt tôi biết thấy Chúa là kho tàng đích thực của mình.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
Hai tư tế
Trong điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo mang tên là “trường phái Athène”, mô tả dung mạo và sứ điệp của hai triết gia Hy Lạp là Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững trên mặt đất, một tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn Platon thì được vẽ hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ về trời cao. Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía cạnh nổi bật của thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi làm người, đó là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm mức những gì thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về trời cao và những giá trị đời đời.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của cải đích thực. Tin Mừng nhắc đến hai tư tưởng: một mời gọi con người hướng về trời, một mời nói lên vai trò của mắt, không phải mắt thân xác, nhưng là mắt tinh thần, mắt đức tin hướng dẫn cuộc sống con người. Suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể nhận ra được liên hệ giữa hai tư tưởng này. Sự tăm tối tinh thần là điều đáng sợ hơn cả, vì không nhận thấy đâu là điều phúc thật của con người. Do mù quáng tinh thần và chỉ nhận của cải, danh vọng, quyền bính là phúc thật, con người sẽ tìm cách có được những thứ ấy càng nhiều càng tốt. “Kho tàmg của con ở đâu, thì lòng con ở đó”. Ðó là định luật tâm lý tự nhiên của con người. Nếu tôi chỉ nhìn thấy lý tưởng của mình trong việc thu tích của cải, danh vọng, quyền thế, thì làm sao tôi có thể hướng nhìn trời cao và số phận đời đời của con người.
Xin Chúa thanh tẩy và soi sáng con mắt tinh thần chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra đâu là điều thiện hảo và qui hướng về đó mà tiến tới.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 6
22 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh
Mỗi Người Chúng Ta
Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình, là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của truyền thống.
Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 22-6
Thánh Paulinô, Giám mục Nôla, Thánh Gioan Fisher,
Giám mục tử đạo, và Thánh Tôma More Tử đạo;
2V 11,1-4.9-18.20; Mt 6, 19-23.
LỜI SUY NIỆM: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6,19-20).
        Mỗi người đều có một kho tàng riêng của mình, kho tàng càng quý và càng cần thiết cho bản thân và cuộc sống, thì cần phải cất giấu ở những nới an toàn nhất, những nơi có sự bảo đảm cao.
        Chúa Giêsu đang mách bảo cho chúng ta ở một nơi an toàn nhất để tích trữ của cải và báu vật của chúng ta. Nếu chúng ta tin vào sự chỉ bảo của Ngài thì hãy thực hiện liền, đừng tính toán nữa, kẻo mất cơ dịp tốt có khi không còn có cơ hội lần hai nữa; sẽ ân hận vì đã quá muộn.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 22-06:
Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 - 1535)
Thánh Thomas More và thánh Gioan Fisher.

Thánh Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
*****
Ngày 22-06:
Thánh TOMA MORE
(1478 - 1535)
Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận. "Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói : - Vương quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi hài nói : - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo : - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói : - Nó không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
*****
Ngày 22-06:
Thánh PAULINÔ NÔLANÔ

(355 - 431)
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: - "Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói : - Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: - Hãy đến Campania xem con người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô viết:
- "Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : - "Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : - Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : - Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: - Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: - Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++

22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet

Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 22
Thánh Paulinô, giám mục Nôla
Thánh Gioan Fisher, giám mục tử đạo
Thánh Tôma More, tử đạo


Bi tích Thánh Thể thực sự là một Bánh cho cuộc lữ hành, Bánh đi đường. Cüng như Manna nâng đỡ từng ngày cho dân Israel trong bước đường ngang qua sa mac, cũng thế, thiên thần đã đặt tấm bánh bên cạnh ngôn sứ Êlia để ông đứng dậy và tiếp tục đi, cũng thế Chúa nuôi sống Giáo hội của Người; Người canh tân mỗi ngày sức mạnh của Người, để giáo hội tiếp tục con đường lữ hành trên thế giới cho đến khi gặp được Vương quốc đang đến.
Người ta thường đặt đối kháng giữa chiêm niệm và hoạt động, ưu tư của cầu nguyện với ưu tư cho việc dấn thân, giáo hội được qui tụ và giáo hội tản mát. Làm thế nào loan báo mà không có chiêm niệm, làm thế nào nuôi sống mà không được nuôi? Làm thế nào đi trong bình an của Đức Kitô mà trước đó không hội nhập vào?
Viêc rao giảng Tin Mừng phải cắm sâu vào bí tích Thánh Thể, vì đến từ Thánh Tâm Đức Giêsu Kitô: đó là cuộc sống được ban phát, tấm bánh được nhân lên, ngon lửa bùng cháy. Về mục đích,Bí tích Thánh Thể muốn dẫn chúng ta đến với trái tim của Đức Giêsu: gợi dậy và luôn gợi dậy cơn khát, cơn đói trong tâm hồn con người, một sự khao khát Thiên Chúa mà câu trả lời chỉ nằm trong bí tích Thánh Thể, bánh sự sống và chén cứu độ.

Linh mục Alain Bandelier
Thứ Sáu 22-6

Thánh Paulinus ở Nola


(354?-431)
Q
ua thư từ của các thánh khác mà chúng ta biết được cuộc đời và đặc điểm của Thánh Paulinus mà ngài là bạn của các thánh Augútinô, Giêrôme, Martin, Grêgôriô và Ambrôsiô.
Sinh ở Bordeaux, nước Pháp, Paulinus thuộc dòng dõi quý tộc Rôma mà cha ngài là một pháp quan ở Gaul (Pháp). Gia đình ngài làm chủ không biết bao nhiêu ruộng đất ở Ý và Aquitaine. Paulinus được theo học ở trường Bordeaux về luật Rôma, thi văn, hùng biện, khoa học và triết. Sau đó ngài trở thành một luật sư có tiếng.
Sau khi cha mất sớm, Paulinus được Hoàng Ðế Gratian bổ nhiệm làm nghị sĩ Rôma khi mới 25 tuổi và một năm sau, ngài làm thống đốc Campania, cư ngụ ở vùng đồi núi Nola, ở phía đông Naples. Dường như Paulinus không thích sự phù hoa và danh vọng của chức quyền.
Sau khi được chứng kiến cảnh dân chúng được chữa lành ở mộ Thánh Felix, là quan thầy của Campania, Paulinus đã có ý định trở lại Kitô Giáo. Ngài hy sinh bộ râu cho Thánh Felix, từ chức thống đốc và trở về sống với người mẹ đang mong đợi ngài.
Sau khi du lịch đến Tây Ban Nha, Paulinus kết hôn với bà Therasia. Vào năm 36 tuổi, trước sự chứng kiến của người vợ, Paulinus (cùng với người em trai) được rửa tội bởi vị giám mục thánh thiện của Bordeaux là Thánh Delphinus.
Vào thời bấy giờ, Paulinus được gặp gỡ, chuyện trò với những người thánh thiện đương thời, tỉ như Thánh Martin ở Tours đã chữa lành con mắt thương tích của Paulinus một cách lạ lùng, và có lẽ sự hoán cải của người bạn tâm giao, Thánh Augustine, là động lực sau cùng thúc đẩy Paulinus theo Kitô Giáo.
Theo Ðức Kitô có nghĩa sống khó nghèo, do đó Paulinus đã bán tất cả tài sản ở Gaul và phân phát tiền bạc cho các người nghèo và những người làm công cho gia đình. Khi hai ông bà sang Tây Ban Nha, bà Therasia cũng bán tất cả đất đai của mình và dùng tiền của để chuộc các người nô lệ và các con nợ.
Hai ông bà có được một con trai, nhưng chỉ sau một tuần lễ, đứa bé đã từ trần cách đột ngột. Cho rằng cơ thể của bà Therasia không thích hợp để sinh con, Paulinus coi việc từ bỏ quyền làm chồng như một hành động bác ái, do đó hai người thề sống khiết tịnh và sống với nhau như anh em trong suốt cuộc đời.
Vì đời sống thánh thiện của hai ông bà, dân chúng ở Barcelona đã kiệu Paulinus đến trước mặt vị giám mục và yêu cầu tấn phong Paulinus làm linh mục, và ngài đã đồng ý với điều kiện của Paulinus là không bị ràng buộc vào một giáo xứ hay giáo phận. Sau đó Thánh Ambrôsiô là người đã chỉ dẫn cho Paulinus về nhiệm vụ linh mục.
Ðể sống lý tưởng của một chủ chăn, hai ông bà Paulinus và Therasia đã biến căn nhà của họ thành nơi tiếp đón người nghèo và người vô gia cư. Bà Therasia sống ở tầng trệt như một người quản lý, còn tầng trên là một đan viện mà Paulinus và các ẩn tu khác biến thành một trung tâm đan sĩ đầu tiên ở Tây Phương với lối sống cực kỳ kham khổ.
Vào năm 410, trước khi bà Therasia từ trần không lâu, dân chúng ở Nola đã chọn Paulinus làm giám mục. Quả thật ngài là vị giám mục tài giỏi vào thời ấy. Ðức Paulinus tiếp tục sống ở đan viện, ngài xây hệ thống thoát nước cho Nola cũng như các nhà thờ ở đây và ở Fondi.
Ðức Paulinus là một người hài hòa giữa con tim và trí óc. Các thư từ của ngài cho thấy sự khiêm tốn, tính tình dễ mến, thích khôi hài, trọng kỷ luật, và đời sống chiêm niệm của ngài. Những bút tích của ngài để lại chứng tỏ ngài là một thi sĩ Kitô Giáo và cũng là một tay viết văn xuôi có hạng.

Lời Trích

Thánh Paulinus thường đau yếu vì thể xác không được khỏe mạnh, nhưng ngài thản nhiên tuyên bố "sự yếu đuối của thân xác là một ích lợi cho tinh thần, khi xác thịt thiệt thòi thì tinh thần hoan hỉ."

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét