Thứ Năm sau Chúa Nhật 13 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Am 7, 10-17
"Ngươi hãy đi nói
tiên tri cho dân Ta".
Trích sách Tiên tri Amos.
Trong những ngày ấy, một vị
tư tế ở Bêthel, là Amasia, sai người đến với Giêrôbôam, vua Israel, mà thưa
rằng: "Amos đã nổi loạn chống đức vua, ngay trong nhà Israel, xứ sở không
chịu nghe các lời của y". Vì đây, Amos nói rằng: "Giêrôbôam sẽ chết
vì gươm, và dân Israel
sẽ bị đày xa xứ sở".
Và Amasia đã nói với Amos:
"Hỡi nhà tiên tri, hãy trốn sang đất Giuđa mà kiếm ăn và nói tiên tri.
Ðừng ở Bêthel mà tiếp tục nói tiên tri nữa. Vì đây là nơi thánh của vua, là đền
thờ của vương quốc". Nhưng Amos trả lời Amasia rằng: "Tôi không phải
là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri: nhưng tôi là một mục tử, chuyên
trồng cây sung. Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo đoàn vật, và Chúa bảo tôi:
"Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta". Và này, hãy
nghe lời Chúa phán: "Người bảo: Chớ nói tiên tri chống lại Israel , chớ chỉ
trích dòng họ kẻ theo dị thần". Chính vì thế mà Chúa phán như sau:
"Vợ ngươi sẽ gian dâm trong thành phố. Con trai con gái ngươi sẽ gục ngã
dưới lưỡi gươm. Ruộng vườn ngươi sẽ bị phân tán. Chính ngươi, ngươi sẽ chết
trên đất nhơ nhớp, và dân Israel
sẽ bị đày ải xa quê hương mình".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy (c. 10b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn
thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực,
làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần
khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. -
Ðáp.
4) Những điều đó đáng chuộng
hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự
sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 1-8
"Họ tôn vinh Thiên
Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống
thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một
kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất
toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ
mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu
biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu
trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi
dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng
trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất
toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy
và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài
người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Qua câu chuyện chữa người bất
toại, Ðức Giêsu chứng tỏ Ngài chính là vị Thẩm Phán Tối Cao sẽ nắm quyền xét xử
nhân loại. Ngài dùng quyền đó để tha tội cho người ta. Bất cứ những ai tin vào
Ngài đều được hưởng nhờ lòng nhân hậu và tình yêu của Ngài. Như anh bất toại
hôm nay đã tin vào Ðức Giêsu, không những được Ngài chữa lành bệnh phần xác mà
cả tâm hồn anh cũng được trong sạch. Ðiều đó cho chúng ta thấy: Tin vào Ðức
Giêsu làm cho con người được lành mạnh và biến đổi.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nơi Chúa đầy
quyền năng, đầy lòng nhân ái và là nguồn sống dồi dào. Xin Chúa ban cho những
ai đang gặp đau khổ về thể xác và tâm hồn, luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô
biên của Chúa. Xin Chúa cũng ban cho những ai chưa biết Chúa được nhận ra Chúa
là sự sống và nguồn hạnh phúc đích thực, để họ cũng tin và được đón nhận ơn cứu
độ. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Suy Niệm:
Sống Niềm Tin
Con người là con vật xã hội.
Xã hội không dành riêng phần đất cho những người tự đóng kín vào mình. Vừa mở
mắt chào đời, con người đã phải đón nhận sự nâng đỡ của người khác, rồi trong
suốt cuộc đời, không ai có thể tự hào mình không cần nhờ vả đến ai. Sống là một
luân lưu của những trao đổi và cảm thông. Tôi phải nhờ đến người khác và cũng
có bổn phận để người khác nhờ đến tôi.
Ðời sống đức tin cũng không
ra ngoài định luật ấy. Ơn cứu độ được gửi đến cho tất cả, chứ không cho riêng
một ai, mỗi cá nhân đón nhận nhưng rồi phải san sẻ cho người khác. Sự thánh
thiện hoặc tội lỗi của một người cũng có ảnh hưởng đến người khác. Chúa Giêsu
đã lên án mạnh mẽ những ai làm cớ vấp phạm cho người khác xa lìa Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại
một phép lạ xẩy ra nhờ ảnh hưởng của tập thể. Một người tê liệt được khiêng đến
cho Chúa Giêsu. Phúc Âm Marcô và Luca cho thấy rõ hơn quang cảnh của phép lạ
này: vì không có chỗ để chen vào, người ta leo lên gỡ mái nhà và thòng người tê
liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Tất cả sự việc diễn ra không kèm theo một câu
nói hay một lời van xin nào, thế nhưng, hành vi của họ đã đủ diễn đạt tấm lòng
của họ. Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ, tức lòng tin của những người khiêng
người tê liệt, Ngài đã chữa lành bệnh nhân.
Dấu lạ đòi hỏi lòng tin. Một
khi lòng tin đã đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa, thì con người sẽ dễ dàng
gặp được dấu lạ và lòng tin có thể chuyển dấu lạ hay ơn lành sang cho người
khác. Với đám đông đang vây quanh Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, thì việc đưa
bệnh nhân đến gần Ngài quả là một cố gắng vượt mức. Nhìn vào cố gắng này, chắc
chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Ngài là ai mà con người phải cố
gắng tìm gặp đến thế? Ðặt câu hỏi tức là đã bắt đầu tiến đến gần Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết
sống niềm tin, dù cho có gặp nhiều cản trở, nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn
lành của Chúa, và củng cố niềm tin nơi nhiều người xung quanh.
(Veritas Asia)
LỜI CHÚA MỖI
NGÀY
THỨ NĂM TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN năm
II
Bài đọc: Amo 7:10-17; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
“Phải cẩn thận suy xét lời Chúa”.
Lời của Thiên Chúa phán ra sẽ không trở lại với Ngài mà không có
hiệu lực (Isa ). Khi con người có cơ hội nghe Lời Chúa, hoặc chính Thiên Chúa
phán ra hoặc qua miệng các ngôn sứ, con người cần có thái độ tôn kính học hỏi
và khiêm nhường lắng nghe. Sau đó, con người cần suy xét và thi hành những gì
Ngài nói thì mới có thể sinh ích cho mình và tránh được những thiệt hại xảy đến
trong tương lai.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng hai ví dụ xảy ra cho những người
không cẩn thận lắng nghe và khinh thường Lời Chúa. Trong bài đọc I, tư tế Amaziah
khinh thường ơn gọi ngôn sứ của Amos, qua việc sai sứ giả tâu lên vua và đuổi
Amos về quê quán của mình. Hậu quả là tư tế đã phải lãnh nhận những lời tuyên
sấm thiệt hại liên quan đến bản thân, gia đình và đất nước. Trong Phúc Âm, một
số các kinh sư kết tội Chúa Giêsu phạm thượng vì dám tha tội, quyền chỉ dành
cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội để cắt nghĩa cho họ, nếu Ngài có thể
chữa lành bệnh, Ngài cũng có thể lấy đi tội là nguyên nhân của bệnh. Nói tóm,
họ phải chấp nhận Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài làm được những việc chỉ Thiên
Chúa mới làm được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Hãy đi tuyên
sấm cho Israel
dân Ta."
1.1/ "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."
Trình thuật kể thái độ của Amaziah đối với ngôn sứ Amos như sau:
“Bấy giờ ông Amaziah, tư tế đền thờ Bethel, sai người đến gặp Jeroboam, vua
Israel, và thưa: "Amos âm mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Israel, và
đất nước này không còn chịu nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. Vì Amos nói như
thế này: "Jeroboam sẽ chết vì gươm, và Israel sẽ bị đày biệt xứ."
Khi nghe những lời tuyên sấm của ngôn sứ, con người có hai thái
độ, hoặc đón nhận và khiêm nhường xét mình để sửa đổi, hoặc tức giận chửi rủa
và tìm cách triệt hạ vị ngôn sứ. Tư tế Amaziah chọn thái độ thứ hai.
Amos sinh tại Tekoa, một thành của Judah ;
nhưng Đức Chúa lại truyền cho ông đi nói tiên tri tại vương quốc Israel . Đó là
lý do Amaziah nói với ông Amos: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Judah , về đó mà
kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel
này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là
đền thờ của vương triều."
Ông Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ,
cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật
và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn
vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân
Ta." Amos muốn nói cho Amziah biết: Ơn gọi làm ngôn sứ đến từ Thiên Chúa;
nếu Ngài không gọi ông, ông đã không qua Judah để tuyên sấm cho Đức Chúa.
1.2/ Truy tố ngôn sứ không làm vô hiệu hóa sấm ngôn của Đức Chúa.
Người nghe sứ điệp của ngôn sứ phải hiểu ông chỉ là người mang
sứ điệp hay chỉ là cái loa của Thiên Chúa, Đấng ban hành sứ điệp. Nếu họ không
muốn hậu quả xảy ra, họ có thể chọn một trong hai giải pháp: hoặc họ phải tiêu
diệt Người ban hành sứ điệp, điều mà không ai có thể làm nổi, hoặc họ lắng nghe
sứ điệp và kiểm điểm con người để sửa đổi. Nóng giận và tiêu diệt ngôn sứ chỉ
tăng thêm tội cho họ và làm cho cơn giận của Thiên Chúa càng mau tới.
Amos tuyên sấm cho tư tế Amaziah, không phải nhân danh sự hận
thù cá nhân, nhưng là nhân danh Thiên Chúa: “Vì vậy, Đức Chúa phán thế này:
"Vợ ngươi sẽ đi làm điếm trong thành phố, con trai con gái ngươi sẽ ngã
gục dưới lưỡi gươm, lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia từng mảnh, còn ngươi, ngươi
sẽ chết trên một miền đất ô uế.” Và ông lặp lại lời tuyên sấm trước: “Israel sẽ bị
đày xa quê cha đất tổ."
2/ Phúc Âm: "Này con, cứ
yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng
đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như
vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha
tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói
phạm thượng!" vì truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có
quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền
nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là
bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà
đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội
rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho
bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người
truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai
quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về
nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Truyền thống Do-thái tin bệnh tật là hậu
quả của tội. Chúa Giêsu muốn chứng minh cho họ biết: Nếu Ngài chữa lành bệnh
tật, Ngài cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu muốn dùng việc
chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ
Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài
phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông
này nói phạm thượng!" là sai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính và khiêm nhường mỗi khi đọc hay
lắng nghe Lời Chúa, vì những lời này sẽ trở thành những bằng chứng để kết tội
chúng ta.
- Chúng ta đừng bao giờ có thái độ khinh thường, phê bình, và
gây thiệt hại cho các ngôn sứ vì những lời họ rao giảng. Nếu chúng ta làm như
thế, chúng ta sẽ gây htêm tội cho mình mà vẫn không thoát khỏi án phạt của
Thiên Chúa. Điều tốt hơn là hãy cẩn thận suy xét coi những lời đó ảnh hưởng tới
chúng ta làm sao và mau mắn thi hành.
Lm.An-tôn
Đinh Minh Tiên,OP.
Thứ Năm tuần 13 thường niên
Sứ điệp: Chữa lành thân xác con
người là việc rất cần thiết. Nhưng chữa lành linh hồn còn quan trọng hơn bội
phần. Chúa muốn chúng ta hãy trân trọng tâm hồn mình và mọi tâm hồn khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi
người bất toại đến với Chúa, chắc chắn anh chỉ muốn Chúa chữa lành thân xác, và
chỉ một mục đích duy nhất ấy mà thôi. Nhưng đối với Chúa thì khác. Chúa nhìn
thấy tâm hồn anh đáng quý hơn thân xác bội phần. Vì thế, trước hết Chúa đã nói
với anh lời tha thứ. Chúa đã cứu chữa tâm hồn anh trước. Chúa ban lại cho anh
sự sống cả trong tâm hồn lẫn nơi thân xác.
Vâng, Chúa ơi, con cũng cần Chúa ban ơn tha thứ,
vì con đã coi rẻ tâm hồn mình. Con dùng thật nhiều thời giờ cho công việc làm
ăn, nhưng lại tiếc với Chúa ít phút cầu nguyện. Con tiêu nhiều tiền bạc trong
cuộc vui giải trí, mà không biết sử dụng tiền bạc để làm phúc hoặc giúp việc
công ích. Con miệt mài học hành trau dồi kiến thức, nhưng lại so đo tính toán
hơn thiệt khi cần bồi dưỡng đời sống tâm linh. Xin Chúa tha thứ và cho con biết
quý trọng linh hồn mà Chúa đã cứu chuộc bằng giá máu của Chúa.
Lạy Chúa, người bất toại đã nhiều năm tháng yên
ổn trên giường. Nhưng khi được Chúa chữa lành, chính chiếc giường ấy lại đè
nặng vai anh trên đường về nhà. Mặc dù thế, anh vẫn hân hoan vì đã được tha thứ
và được chữa lành. Lạy Chúa, khi chữa lành linh hồn con, Chúa cũng muốn con
chấp nhận những hy sinh nào đó để con được lớn lên, được Chúa giải thoát. Xin Chúa
thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ : "Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người
quyền năng như thế".
05/07/12
THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. Antôn Maria Dacaria, linh mục
Mt 9,1-8
Th. Antôn Maria Dacaria, linh mục
Mt 9,1-8
“KHÔNG
AI LÀ MỘT HÒN ĐẢO”
Người ta liền khiêng đến cho người một kẻ bại liệt nằm trên giường. (Mt 9,2)
Suy niệm: Chứng bệnh bại liệt tuy không ghê sợ như bệnh phong hủi, nhưng nó cũng là đáng sợ, khi làm cho người bệnh tê liệt, không còn khả năng tự mình hoạt động như mình muốn. Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta một bài học thật cảm kích: tấm lòng nhân ái của những người khiêng bệnh nhân đến với Chúa Giê-su, tình thương của họ đã bù đắp những khiếm khuyết nơi người bại liệt và nhờ đó anh ta đã đến được với Chúa Giê-su và được chữa lành.
Mời Bạn: Ngày nay, bại liệt hầu như không còn là một chứng bệnh hiểm nghèo: người ta được tiêm chủng phòng ngừa ngay khi còn là trẻ sơ sinh. Thế nhưng, chứng bại liệt tinh thần vẫn còn là một căn bệnh đáng sợ, khi mà con người ngày nay dễ dàng mất đi khả năng phân định tốt xấu, không đủ sức mạnh để chọn lựa, bênh vực cho chân lý và sự thật, kéo theo biết bao vấn đề xã hội: bất công, tham nhũng, hối lộ, nạo phá thai, ăn chơi truỵ lạc… Bao kế hoạch hành động chỉ là “phong trào” nếu không trị tận căn chứng bại liệt tinh thần này.
Sống Lời Chúa: Tại môi trường bạn đang sinh sống và làm việc có những ai đang mắc những chứng bệnh bại liệt nào đối với những giá trị Tin Mừng? Bạn hãy cùng với vài người thiện chí “khiêng” họ đến với Chúa Giê-su bằng những lời nói chân thành, nụ cười cảm thông và hành động giúp đỡ thiết thực của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Vua Tình Yêu! Thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con thật quá nhỏ, xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy và đôi tay rộng mở để chúng con luôn sẵn sàng đến với những anh chị em đang cần tình thương và sự nâng đỡ. Amen.
Thấy họ có lòng tin
Suy niệm:
Khiêng một người bất toại trên một cái giường
là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao
xa?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là
bạn bè, họ hàng không?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình
đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe
lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối
với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên
đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở
Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh
được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là
một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải
đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không
có đường nào khác! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ
(c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra
ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có
chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng
được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn: khi trở về không
phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của
chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong
tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép
lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua
lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng
đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh
được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn
mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh
hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật
là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài
nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể
chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm
thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên
Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền
tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại: “Đứng dậy, vác chõng mà
đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó
kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với
các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn
an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật
và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được
với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho
“loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành
và tha tội cho đến tận thế.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên
đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ trỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của
mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha
thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm
hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được
với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn
chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa
tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một
món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô
cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen
tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động
của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp
Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng
như thế".
Phép lạ và Lời Chúa
Khi
Đức Giêsu xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Và kìa, người ta
khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như
vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội
rồi!” Và kìa mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.” (Mt. 9,
1-3)
Đức Giêsu, người hay làm phép lạ
Nếu
đọc một mạch hết các Phúc âm, người ta có cảm tưởng là Chúa Giêsu đã làm vô số
các phép lạ. Phải nói là rất nhiều, nên các thánh ký đã cẩn thận lưu ý ta rằng
còn nhiều phép lạ khác không được kể lại trong các sách Phúc âm.
Điều
này khiến ta có thể đặt ra ít nhiều câu hỏi: Tại sao Chúa Giêsu đã thực hiện
nhiều việc lạ lùng như vậy? Tại sao thời Chúa Giêsu các phép lạ thường hay xảy
ra, còn thời chúng ta thì hiếm có thế? Tại sao có phép lạ?
Ý nghĩa các phép lạ
Không
bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để có ý phô trương hay làm lóa mắt người ta,
càng không phải để mời mọc những kẻ tin vào Người hy vọng mình có được một cuộc
sống chan hòa những cảnh tuyệt vời, lạ lùng, và phi thường.
Sinh
thời, các phép lạ Chúa làm đều đáp ứng những mục tiêu rõ rệt. Các phép lạ ấy có
mục đích chỉ cho ta thấy Đức Giêsu đúng là Con Thiên Chúa. Các phép lạ ấy cũng
tỏ cho thấy Chúa Cha đã ban cho Người cũng như cho những kẻ kế vị Người những
quyền năng thiêng liêng. Nhất là các phép lạ được thực hiện cốt để người ta tin
vào lời của Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Trích
đoạn Phúc âm ta đọc lại hôm nay nói lên ý nghĩa này rõ rệt. Dân chúng ngạc
nhiên trước tiên không phải vì người bại liệt được chữa khỏi, nhưng vì phép lạ
ấy chứng tỏ việc “Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền tha tội”. Phép lạ
như con dấu chứng thực cho sự việc này.
Thiên
Chúa còn làm phép lạ nữa không? Chắc chắn, còn. Nhiều không? Ai dám nói được
điều này. Có một điều chắc chắn. Ay là ta không được nuôi dưỡng lòng tin của
mình bằng các phép lạ, nhưng phải bằng Lời Chúa.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 7
5 THÁNG BẢY
Tính Tự Trị Của Các Vật
Thụ Tạo
Mặc dù cách diễn tả của
Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn
có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên Chúa – Đấng Tạo
Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa nguyên nhân đệ nhất
và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt ra bởi con người
thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức nào? Đâu là
vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế giới?
Theo đức tin Công Giáo,
sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của Ngài có thể hiện diện
trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một sự tự trị nào đó
theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu nhiệm này. Một
đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là chính chúng: “Chính
vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực, tốt lành cùng những
định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế mà Thiên Chúa cai
quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được sự tự trị nào
đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự quan phòng của Thiên
Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của các loài thụ tạo”,
trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được thể hiện. Chúng ta
nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ vẫn luôn
luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi sự (“từ chân trời
này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi sự với đầy sức
sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa lại nguyên
đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới. Đó chính
là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05-7
Thánh Antôn Maria Zaccaria, linh mục;
Am 7, 10-17; Mt 9, 1-8
LỜI SUY NIỆM:
“Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có
lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt” ‘ Này con, cứ yên tâm, con đã
được tha tội rồi!” (Mt 9, 2).
Trên trần gian này không ai có thể gánh vác tội của một người khác được, chứ
đừng nói đến chuyện tha tội. Người Do-thái thời bấy giờ khi nghe Chúa Giêsu
nói: “tội anh đã được tha” họ lấy làm khó chịu, vì họ tin chỉ một mình Thiên
Chúa mới có quyền tha tội. Họ quan niệm bệnh tật là hậu quả của tội, nếu bệnh
tật mà biến mất, là chứng thực tội đã được tha. Chúa Giêsu đã tỏ quyền năng đó.
Chính hôm nay, nếu mỗi một người chúng ta tin và đến với Ngài; chúng ta cũng
được Chúa Giêsu nói cùng câu ấy “tội của con đã được tha rồi”. Tội được tha để
chúng ta được bình an và đổi mới tốt đẹp hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh mục (1502 - 1539)
Thánh Antôn Maria
Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ
trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm
hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết
kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái
đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi Antôn
sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp, dân
thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày kia
trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo
mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được
ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn
cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15,
Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua . Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống
nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất
nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ
nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu
tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng
cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào chúng mình đến nghe thiên thần của
Chúa.
Năm 1528, lúc được 36
tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan , thăm viếng các người đau khổ trong các
nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho
Ngài danh hiệu "người cha dân tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục
sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn
tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và
Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ
dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh
Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria
Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những tâm hồn đại
lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy
tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa
Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho
người khác".
Ngài dạy họ phải quen
với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn
ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các
linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú
tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao
giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một
số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người
thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh
Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong
năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín
dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ
được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian
này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ
công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn
y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn
Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài
rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không
thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc
tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại
Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu.
Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng
bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ
con đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5
tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng
trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
++++++++++++++++++
05 Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại thi hào Rabindranath
Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi còn trẻ, tôi cảm
thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn:
"Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên đường và
trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn
tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi:
"Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền
hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ
bỏ đi...
Tôi tiếp tục ra đi và hô
lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều hôm đó, có một cụ
già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang lên
như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục ra
đi.
Tôi tiếp tục ra đi và
tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị
với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của
tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp
nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi tôi rời bỏ căn nhà
xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp. Sáng
ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi lần
ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu lên,
mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi:
"Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả". Tôi
đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên
bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ
ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không gì quý bằng độc
lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác
thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là
Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho
chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không
phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi
danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 05
Thánh Antôn-Maria Zaccaria, linh mục
Thứ năm đầu tháng
Chúc Anh Chị Em ra đi trong bình an của Đức Kitô
Thánh Antôn-Maria Zaccaria, linh mục
Thứ năm đầu tháng
Chúc Anh Chị Em ra đi trong bình an của Đức Kitô
Lời linh mục đọc cuối lễ, nhân danh Giáo
Hội, trả ta về với công việc thường ngày: "Chúc Anh Chị Em ra đi bình
an." Điều này cũng có nghĩa là: "Anh Chị Em hãy lên đường thi hành sứ
mạng bởi vì trong bàn tiệc mà Chúa Cha dọn sẵn cho con cái Ngài, còn quá nhiều
chỗ trống. Thần Khí là Đấng bảo tổn niềm hy vọng, chứ không phải là ngưòi cung
cấp sự lười nhác mộng mơ. Ngài cho ta biết hoàn cảnh loài người chúng ta phong
phú thế nào và thật sự ra sao. Ngài xây dựng Thân Thể đích thực của Đức Kitô từ
"tấm bánh được bẻ ra vì một thế giới mới".
Trong hình ảnh
một tấm bánh duy nhất được bẻ ra nhiều mảnh để ai ai cũng được dự phần, có một
giáo huấn thật phong phú.Thần Khí dẫn đưa ta, vì lòng mến phát xuất
từ Chúa Cha, ra đi xây dựng lại sự hiệp nhất hài hòa của tấm bánh đã được ta
chia sẻ cho nhau. Thánh Tôma Aquinô dạy rằng sự hiệp nhất của Giáo Hội Thân Thể
Đức Kitô chính là hoa trái đầu tiên của Bí Tích Thánh Thể. Như thế chính nhờ Bí
Tích Thánh Thể mà Giáo Hội, Thân Thể Đức Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần, được
xây dựng.
Philippe
Ferlay
(DDB)
Thứ Năm 5-7
Thánh Antôn Zaccaria
(1502-1539)
hi
Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào
canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có
Thánh Antôn Zaccaria.
Thuộc
dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai tuổi, và mẹ
ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho con
ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và làm việc ở
Ðược sai
đến
Vì rất
cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là Bácnabê --
tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao giảng ở trong nhà
thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và không xấu hổ
khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình thức sinh hoạt
mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng năng rước lễ,
chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
Sự thánh
thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và như tất cả
các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai lần, tu hội của
ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và cả hai lần
đều được miễn trừ.
Ðang khi
trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ.
Ngài từ trần ở
Lời
Bàn
Sự hăng
say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày nay
"thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn
giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn
không khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích thực là linh
đạo của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể
"cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường
dẫn đến vinh quang.
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét