Sự thất bại của chủ nghĩa cấp tiến Công
Giáo
Vũ Văn An8/21/2012
Chưa ai tìm cách tổng hợp các ý niệm “cấp tiến” và “bảo
thủ”. Nhưng người Công Giáo bảo thủ thường tự coi mình vâng phục thẩm quyền của
Giáo Hội, chấp nhận các giáo huấn chính thức, và có một nền luân lý bản thân
nghiêm nhặt, nhất là trong các vấn đề tính dục. Còn người Công Giáo cấp tiến
thường chủ trương một quan niệm rộng mở hơn về Giáo Hội, một cái hiểu họ cho là
có tính giải phóng hơn về bản chất của việc làm người Công Giáo.
Tự hào cho mình tốt hơn
Trên thực tế, chủ trương của người bảo thủ có tính khiêm
nhượng hơn chủ trương tự do, vì người bảo thủ ít khi tự cho mình đóng vai những
ngọn đuốc tâm linh. Người Công Giáo bảo thủ sẵn sàng nhìn nhận mình là người
xấu, cần được cứu rỗi. Trái lại, người Công Giáo cấp tiến thường tự hào rằng
mình đã tìm được con đường tốt hơn để làm người Kitô hữu.
Một cưụ chủ bút của tờ National
Catholic Reporter (NCR) thực tế đã định nghĩa người Công Giáo cấp tiến như
những người “ôm lấy hết dân Chúa… yêu thương… chào đón… cởi mở… khoan dung…
Thành tựu vĩ đại nhất của ta trong tư cách Công Giáo là cảm thức cộng đồng và
thuộc về, bất kể ta mang theo hành lý và các dị biệt nào… Vấn đề ở đây là dành
chỗ cho mọi người trong căn lều vĩ đại…”.
Nhưng dường như Nữ Tu Rita Larivee thực ra không đọc tờ báo
mà có thời chính bà đã trông coi, bởi nó chứng tỏ rằng người Công Giáo cấp tiến
thật xa vời cái lý tưởng chào đón, cởi mở và khoan dung.
Thực vậy, một bài xã luận của tờ NCR từng nhắc tới “những
người cánh hữu” chuyên viết “những lá thư ngoắt ngoéo, hậm hực và phần đông
không được đăng tải gửi chủ bút”. Thực ra, các điều ấy, ngoại trừ việc “không
được đăng tải” chính là các đặc điểm trong mục thư bạn đọc của tờ báo, trong đó
hàng tuần đều có những kết án nặng nề nhất đối với điều họ coi là phản bội mới
nhất chống lại Tin Mừng, với cùng những cái tên kết án được lặp đi lặp lại. Đại
loại, các kết án đó như sau:
“… nhiều thế kỷ qua, Thánh Thể đã bị đánh cắp khỏi tay ta và
nay đã đến lúc ta dành nó lại. Làm gì có những chuyện như phong chức”.
“… các chủ chăn vốn từng bỏ rơi con chiên và đã trở thành
một phần của bày chó sói…”.
“… Giáo Hội mưu toan khoác lên vai người giáo dân một cái
nhìn hết sức đen tối về hôn nhân bằng cách trích dẫn những điều điên khùng vô
nghĩa về Adong và Evà…”.
“… xáo trộn tâm thần nặng nề… Dối trá, bác khước, ngạo mạn,
vị kỷ, và nhát đảm, tất cả đều là những đặc điểm của nền văn hóa trong đó các
linh mục Công Giáo đang sống…”.
“[Giáo Hội là] một nền văn hóa giả hình và bất trung thực đã
từng hiện diện với chúng ta từ Thời Trung Cổ… nấp mình hàng bao thế kỷ qua dưới
mặt nạ linh đạo và tôn giáo…”.
“… một thứ khí nóng phát sinh từ một phẩm trật nam giới bất
lực… toàn chuyện nhảm nhí”.
“thủ đoạn bất lương [của vị giám mục] đã vượt quá ngạo mạn
và cần bị bác bỏ”.
“Tầm nã tôn giáo và săn lùng phù thủy hiện đang hoạt động
mạnh… Tôi rất mừng được làm một người Công Giáo già giặn không thèm đếm xỉa tới
những tuyên bố vô nghĩa ấy”.
“Dưới nước sơn công lý là cả một hầm cầu đầy lừa đảo và bắt
nạt”.
“Các vị giáo hoàng từ Gioan XXIII đến nay đơn thuần chỉ là
những người không thỏa đáng. Phần lớn các giám mục nặng về trình diễn. Họ.. ăn
vận như để diễn hành và cười hô hố trên đường tới Ngân Hàng Vatican ”.
“Điều gì không ổn với vị [giám mục] này? … các hành động của
ngài rõ ràng phớt lờ các lời dạy của Tin Mừng. Hình như [ngài] cổ vũ thứ não
trạng vốn có từ thời Tầm Nã tôn giáo tại Tây Ban Nha và thời săn lùng phù thủy
của Thượng Nghị Sĩ McCarthy… Tôi thực sự không tin tưởng ngài chút nào cả và
tin rằng ngài chỉ có khả năng phá hoại Giáo Hội một cách lớn lao”.
Một người cộng tác với NCR, là Jamie Manson, gọi việc bác bỏ
phong chức cho phụ nữ là một “bạo hành tâm linh sâu xa” và tố cáo Giáo Hội luôn
dạy người ta rằng “thân thể phụ nữ làm nhơ Thánh Thể”. Còn Rick Heffern, một
chủ bút khác của NCR, thì cho rằng “Chính sách của Vatican
quả là bệnh hoạn khi cứ nằng nặc cho rằng cần phải duy trì chức linh mục cho
nam giới mà thôi”.
Một người tham gia blog
có khuynh hướng cấp tiến về phụng vụ là Pray
Tell gọi Phong Trào Phụng Vụ Mới, vốn bảo thủ hơn, là phong trào sổ ruột
(ỉa chẩy, bowel movement). Một người khác cũng tham gia Pray Tell, khi so sánh các vị giám mục với những tên tuyên truyền
Cộng Sản, đã viết rằng “những ông này không ngần ngại nói láo thẳng thừng” còn
người phối hợp Pray Tell là Anthony
Ruff, thuộc Dòng Bênêđíctô, thì cho rằng việc canh tân phụng vụ hiện nay mang
nhiều dấu ấn “lừa đảo và láu cá”.
Sau khi Đức Gioan Phaolô II bị bắn tại quảng trường Nhà Thờ
Thánh Phêrô, người ta nghe Cyrill Barrett, một linh mục Dòng Tên người Ái Nhĩ
Lan, “gào” lên như sau tại một quán ăn ở Luân Đôn: “Cái anh chàng Thổ Nhĩ Kỳ
chết tiệt này có điều quá bậy là đã không chịu bắn thẳng”. Câu nói này, sau khi
ông chết, đã được nhiều bằng hữu trưng dẫn để chứng tỏ ông thù ghét “sự hẹp hòi
về trí thức”.
Trong một môi trường như thế, mà tờ NCR vẫn cho rằng một vị
giám mục theo khuynh hướng cấp tiến “bị tấn công vào chính bản thân và bị người
ta giận giữ tố cáo” trong khi một vị khác phải chịu đựng “chiến dịch bôi lọ của
kẻ thù ở bên trong cũng như ở bên ngoài Giáo Hội”.
Biệt phái hay không biệt phái
Các người Công Giáo bảo thủ thường bị tố cáo là biệt phái.
Nhưng trên thực tế, chủ nghĩa biệt phái là chủ nghĩa được phản ảnh rõ nhất qua
các thái độ của những kẻ chuyên tố cáo người khác là biệt phái. Thậm chí tổ
chức có tên là Voice of the Faithful
(Tiếng Nói Giáo Dân) có lúc đã đứng ra cổ vũ “Đài Quan Sát Biệt Phái” (Pharisee
Watch), mời gọi người ta nêu đích danh các người Công Giáo “biệt phái tân
thời”.
Một thầy giáo hưu trí lên tiếng cảnh cáo kiểu nói “và ở cùng
tinh thần cha” (and with your spirit) vì kiểu nói này “khuyến khích các người
Công Giáo tầm thường nghĩ rằng tôn giáo của họ, trong căn bản, chỉ là để cứu
các linh hồn” và “một lần nữa sẽ dẫn người Công Giáo tầm thường ra sai lạc”.
Người viết này không coi mình là “người Công Giáo tầm thường” và ngây thơ.
Trong sự giác ngộ của mình, ông hiểu biết sâu rộng hơn những “người Công Giáo
tầm thường” như Inhaxiô thành Loyola và Têrêxa thành Avila, những người ngây
thơ cho rằng tôn giáo của họ chỉ là để cứu các linh hồn.
Một độc giả khác của NCR kể lại rằng “Gần đây tôi hỏi một
người bạn tại sao cô ấy là Kitô hữu. Không suy nghĩ, cô ấy trả lời ngay: ‘Để
tôi được lên thiên đàng’”. Người này, do đó, đã nhìn sâu vào cõi lòng bạn mình
và nhận ra rằng cô ta “không hề có suy nghĩ và làm nô lệ cho sợ hãi” rồi tự hào
tuyên bố rằng, trái lại, “tôi là hội viên của Pax Christi”.
Nữ Tu Celine Goessl lên án hàng giáo phẩm như những thây ma
sơn phết, trái ngược với “Dân Chúa là những người nhìn rõ sự thật thực sự, như
chúng tôi (các nữ tu) chẳng hạn đang sống cuộc sống của mình một cách trung
trinh theo Chúa Giêsu của Tin Mừng”.
Shawn Copeland |
Lên tiếng với Hội Đồng Lãnh Đạo Các Nữ Tu (Leadership
Conference of Women Religious [LCWR], đang bị Tòa Thánh điều tra) gồm các vị
đứng đầu hầu hết các dòng nữ ‘chính dòng”, Nữ Tu Shawn Copeland đã tương phản
cử tọa của bà với những người “giữ luật nhưng hâm hấp; không suy nghĩ, nhưng
lại ta đây; hống hách nhưng lại sợ sệt”; bà hào hiệp mời gọi những người này bước
chân theo “lời mời gọi nên thánh của chúng ta”.
Nghị trình chia rẽ
Các nhà cấp tiến than phiền về “những tên cực đoan” và việc
thiếu lịch sự cả trong sinh hoạt chính trị lẫn tôn giáo và những người bảo thủ
là những người duy nhất bị gán cho các tội lỗi ấy. Linh mục thần học gia
Richard McBrien nhất định cho rằng ông không hề thấy một người cấp tiến nào có
nghị trình chia rẽ cả.
Ít có người Công Giáo bảo thủ nào bênh vực phong cách hàng
giáo phẩm dùng để gỉai quyết cuộc khủng hoảng tình dục của giáo sĩ. Thực vậy,
do tầm quan trọng họ vốn đặt lên nền luân lý tính dục, người bảo thủ thực sự là
người ngỡ ngàng hơn cả người cấp tiến. Ấy thế mà vụ gương mù này mau chóng biến
thành một vấn đề phe phái. Tiếng Nói Giáo Dân, được lập ra với mục đích đòi có
hành động chính thức, đã mau chóng biến thành một nhóm vận động hành lang theo
khuynh hướng cấp tiến.
Độc giả của NCR liên tiếp tỏ bày sự giận dữ của họ khi cho
rằng Đức HY Bernard Law, nguyên TGM Boston, đã không bị trừng phạt đủ vì đã làm
ngơ việc lạm dụng tình dục. Nhưng những người tự do lên tiếng rất ít về Đức HY
Roger Mahony của Los Angeles, người từng công khai che đậy nhiều vụ tai tiếng,
và khi các vị giám mục được phe cấp tiến coi như những anh hùng như TGM Rembert
Weakland của Milwaukee, HY Godfrey Daneels của Bỉ bị phát hiện cũng đồng lõa
không kém, thì các người cấp tiến lại không hề lên tiếng chỉ trích.
Margaret O’Brien Steinfels, nguyên chủ bút của tập san Công
Giáo Commonweal nhìn nhận rằng dù TGM
Weakland không hành động chi chống lại các linh mục phạm tội và sử dụng ngân
quĩ của giáo phận để bịt miệng người yêu đồng tính tống tiền, ngài vẫn là vị
giám mục gần như lý tưởng của bà. McBrien và nữ tu duy nữ Joan Chittister đều
lên tiếng ca ngợi sự khôn ngoan của việc ấn hành cuốn hồi ký của TGM Weakland,
và một độc giả của NCR đã coi ngài như là một trong các “giám mục đầy đức tin”.
NCR chớ hề nhắc để các độc giả mình nhớ rằng một trong các giáo sĩ vi phạm tình
dục tồi tệ hơn cả là Paul Shanley đã được ca tụng trên các trang báo của họ ít
nhất ba lần ngay cả sau khi đã bị tố giác.
Trong cố gắng không ngừng muốn làm trầy da tróc vẩy các vị
giám mục, các người cấp tiến quên khuấy một nhóm cá nhân khác cũng có trách
nhiệm không kém, đó là bề trên các dòng tu. Không ai chịu điều tra xem tác
phong xấu của giáo sĩ đã được các vị cấp tiến như Timothy Radcliffe, cựu bề
trên cả Dòng Đaminh hay các vị bề trên theo cấp tiến của Dòng Tên xử lý ra sao,
mặc dù phong cách giải quyết của các dòng tu này không hề khác với phong cách
của các giám mục.
“Tín điều” của phe cấp tiến vốn cho rằng một hàng giáo phẩm
nữ sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng tình dục của giáo sĩ hay hơn nhiều, nhưng
thực tế không hẳn như thế. LCWR từng cộc lốc từ chối gặp những người cho rằng
mình bị các nữ tu lạm dụng, thậm chí không chịu ghi vấn đề vào nghị trình của
mình nữa.
Tự hào là người Công Giáo có suy nghĩ
Người cấp tiến thường tự nhận mình là “người Công Giáo có
suy nghĩ”, một phạm trù xem ra muốn loại bỏ những người như các cố thần học gia
Hans Urs von Balthasar, Jean Danielou, Henri DeLubac, và Avery Dulles, cũng như
hai vị giáo hoàng gần đây nhất. Theo NCR, các thần học gia chính thống chỉ là
những người “nhai lại đường ranh phe phái” chứ không hề là các tư tưởng gia.
Ngược lại các nhà thần học vĩ đại của tờ báo bao gồm cả người huênh hoang “hậu
Kitô Giáo” như Mary Daly.
Elizabeth Anscombe. |
Có những giáo sư Công Giáo chính thống tại các đại học danh
tiếng, nhưng sự hiện diện của họ thẩy đều bị làm ngơ, vì theo định nghĩa, “suy
nghĩ” phải có nghĩa là bất đồng. Elizabeth Anscombe có lẽ là nữ triết gia quan
trọng nhất của thế kỷ 20, nhưng người cấp tiến không thể thừa nhận bà, vì bà
hoàn toàn bênh vực giáo huấn Công Giáo về ngừa thai và nhiều vấn đề khác.
Một phần trong sự phỉnh lừa của người cấp tiến là chiêu bài
cho rằng những người bất đồng chỉ bất đồng sau khi đã nghiên cứu lâu dài và cẩn
thận. Nhưng như các trang của NCR đã chứng tỏ, bất đồng đôi khi chỉ là những
khẩu hiệu châm chọc. Rất ít người cấp tiến chịu khó đọc hết thông điệp Humanae Vitae, huống hồ là có thể đưa ra
một phê phán thận trọng.
Trên thực tế, đối với “những người Công Giáo có suy nghĩ”
của phe cấp tiến, cảm xúc thường là qui luật và họ quen dùng một thứ tống tiền
bằng cảm xúc để bênh vực quan điểm của mình, để biện minh các đòi hỏi của mình
dựa trên cơ sở họ chịu nhiều đau khổ.
Ruff từng nói rằng “Nghĩ đến giáo huấn của Chúa khi nào… tôi
cũng khóc”. Các lá thư gửi về NCR thường bắt đầu với câu “trái tim tôi tan
nát…”, “tôi khóc một cách sầu thảm…” McBrien cho biết các nhân viên giáo xứ “bị
thương tổn một cách khủng khiếp” còn người đàn bà kia thì “chạy bổ ra khỏi nhà
thờ khi đang có bài giảng lễ, đầm đìa nước mắt”, lỗi của linh mục giảng lễ là
đã phục hồi các lối sùng kính truyền thống, thúc giục giáo dân đi xưng tội, và
phủ các tượng ảnh bằng vải tím dịp Chúa chịu nạn…
Tự nhận đọc được các dấu chỉ thời đại
Công đồng khuyên ta “đọc các dấu chỉ của thời đại”, một
nhiệm vụ chắc chắn thuộc loại khó khăn nhất, nhưng những người cấp tiến luôn
cho là mình có khả năng làm được điều đó. NCR nói về một nhóm tự nhận là Giáo
Hội Tương Lai như sau: “Họ nhìn rất xa con đường trước mặt” và “có đủ kiên nhẫn
và thiện chí kéo chúng ta đi chung với họ”.
NCR tóm tắt lịch sử Giáo Hội gần đây như sau: “một bí mật
công khai là các lực lượng mạnh mẽ trong hàng ngũ lãnh đạo Giáo Hội vốn cực lực
chống lại các cải cách do Công Đồng Vatican II khởi xướng và vốn âm thầm nhưng
cương quyết mưu toan, trong 40 năm qua, nhằm đi ngược lại những gì đã đạt được.
Sự đi giật lùi này đã được che đậy bằng một ngôn từ theo kiểu Orwell, nghĩa là
hết lời ca tụng Công Đồng dù ý định là đi ngược lại nó”.
Điều ngụy biện trong lối tường trình trên nằm ở các chữ
“khởi xướng” cũng như “ý định” của Công Đồng. Không người nào dám chứng minh
rằng sự suy sụp của đời sống tu dòng, cuộc cách mạng tình dục, và việc “phong
chức” cho nữ giới là các ý định của Công Đồng. Công Đồng minh nhiên kết án ngừa
thai, phá thai, và ly dị, và ngăn cấm bất cứ ai đưa ra các cải cách bất hợp
pháp về phụng vụ. Ấy thế nhưng các người cấp tiến vẫn liên tiếp cho rằng “Đức
Gioan XXIII đang trở mình trong mồ” như thể mục đích triệu tập Công Đồng của
ngài là để thừa nhận việc ngừa thai, phá thai, ly dị, đồng tính luyến ái, và nữ
linh mục.
Nữ tu duy nữ Theresa Kane thẳng thừng tuyên bố rằng việc
phong chức cho nữ giới là “viễn kiến của Công Đồng”, và nữ tu kiêm thần học gia
Sandra Schneiders cho rằng Vatican II kêu gọi các nữ tu bước theo con đường dẫn
họ tới “thời hậu hiện đại hoàn cầu hóa”, một hạn từ chưa nghe thấy bao giờ
trong thời Công Đồng và xem ra có khả năng muốn được hiểu ra sao tùy thích.
Phong trào cấp tiến gồm quá nhiều những người lớn tuổi vốn
có cái nhìn tiếc nuối đối với thập niên 1960, đến độ khi một độc giả của NCR
nói tới “giáo hội xưa”, bà có ý nói tới thời kỳ từ khoảng năm 1960 tới lúc Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lên ngôi vào năm 1978, và một người khác từng hỏi
một cách hoài nghi rằng “Từ lúc nào có người đã công bố rằng các giáo huấn của
Giáo Hội là vô ngộ?”
Một độc giả khác còn đi xa hơn nữa bằng cách cho rằng Đức
Bênêđíctô XVI là giáo hoàng “bất hợp pháp” vì ngài và Đức Gioan Phaolô II có
một “thiên kiến say mê” đi ngược lại Công Đồng bất khả ngộ. Một độc giả khác
dõng dạc tuyên bố rằng hai vị giáo hoàng gần đây nhất phạm tội lạc giáo và phải
bị tuyệt thông vì mưu toan “tháo gỡ Công Đồng”
Nhưng thực ra, chính người cấp tiến mới sử dụng “ngôn từ
theo kiểu Orwell”. Khoa “giải thích gián đoạn” của họ (thuật ngữ của Đức
Bênêđíctô XVI) tùy thuộc việc khám phá ra các ý nghĩa dấu ẩn của các hạn từ và
kiểu nói đặc thù trong các văn kiện của Công Đồng và coi các Nghị Phụ của Công
Đồng một là như những “máng chuyển” các sứ điệp mà các ngài không hiểu hai là
cố tình che dấu ý định của mình bằng một mật mã nào đó.
Thomas Roberts, một chủ bút của NCR, cho rằng “coi thường
tác động của Công Đồng, chia người Công Giáo thành các nhóm ‘chú giải’ đã trở
thành một chiến thuật ưa dùng”; đây là một lối nói để cho rằng Đức Bênêđíctô
XVI và Đức Gioan Phaolô II một là không hiểu Công Đồng (còn Roberts thì hiểu
rõ) hai là cố tình mưu toan làm sai lạc ý nghĩa của Công Đồng. Những ai không
chấp nhận lối chú giải cấp tiến đều một là bất lương hai là bị hàng giáo phẩm
bất lương lừa dối.
Vào thời Công Đồng, người cấp tiến giải thích các dấu chỉ
như buộc người Công Giáo phải trở thành một lực lượng của “công bằng xã hội”,
một tham vọng, dù chưa nói hết được quan tâm nền tảng của Công Đồng đối với
việc canh tân thiêng liêng, ít ra cũng không đi ngược với mục tiêu của Công
Đồng.
Nhưng dự án ấy phần lớn đã không thành công, vì “công bằng
xã hội” dễ rơi vào chính trị tả khuynh và vì chính người cấp tiến muốn phá hoại
thẩm quyền của Giáo Hội một cách có hệ thống. Nếu phần đông người Công Giáo
ngày nay không nghe các giám mục nói tới ngừa thai, thì họ cũng thấy không có
lý do gì để nghe các ngài nói tới án tử hình hay vấn đề di trú. Những người cấp
tiến hoan nghênh các người Công Giáo nào biết thừa nhận phá thai như dấu chỉ
một “đức tin trưởng thành, có suy nghĩ” nhưng lại coi cũng những người Công
Giáo này là ích kỷ và thiên lệch về luân lý trong các vấn đề khác.
Lồng cách mạng tình dục vào công bằng xã hội
Sai lầm chết người của phe cấp tiến là lồng cuộc cách mạng
tình dục vào vấn đề “công bằng xã hội”, và đo lường “tiến bộ” của Giáo Hội chủ
yếu căn cứ vào mức độ chấp nhận cuộc cách mạng ấy. Trên trang báo NCR, một mệnh
phụ 71 tuổi than phiền rằng “những người đồng tính, lưỡng tính và đổi tính”
đang bị Giáo Hội kỳ thị, một than phiền nghe đến nhàm tai.
Việc Giáo Hội từ khước không thừa nhận cuộc cách mạng tình
dục đã bị coi là bằng chứng để tố cáo hàng giáo phẩm là “bị ám ảnh bởi giới
tính”, nhưng thực ra chính người cấp tiến cho thấy họ bị chứng ám ảnh này.
Không một linh mục cấp tiến nào không nói quá 5 phút mà lại không kêu gọi chấm
dứt việc linh mục độc thân, còn các giáo dân cấp tiến thì vừa chỉ trích việc
ngăn cấm ngừa thai vừa thực hành việc ngừa thai ấy.
Một hội nghị quốc tế các nhà thần học luân lý khuyến cáo
rằng các ý tưởng không phải của Tây Phương nên được trọn vẹn đưa vào chính dòng
thần học. Nhưng khi các người Anh Giáo Phi Châu đe dọa rời khỏi Hiệp Thông Anh
Giáo hoàn cầu vì hiệp thông này thừa nhận đồng tính luyến ái, thì hành động này
hoặc bị làm ngơ hoặc bị coi là hẹp hòi. Cuộc cách mạng tình dục phải được bảo
vệ bằng mọi giá. Đối với những người cấp tiến vốn nằng nặc cho rằng hầu như mọi
học thuyết Kitô Giáo đều bị nền văn hóa điều kiện hóa, thì cuộc cách mạng tình
dục này tuyệt đối không thể bị đặt thành nghi vấn.
Chống lại cuộc lạm dụng tình dục của giáo sĩ, phe cấp tiến
đòi phải có việc “tính sổ”, nhưng chỉ áp dụng việc này vào các trường hợp lạm
dụng đã vấp phải mà thôi. Họ ít nói đến việc ngăn ngừa, vì việc ngăn ngừa buộc
phải đương đầu với sự kiện này: các linh mục đồng tính là những người chịu
trách nhiệm đối với đa số các vụ lạm dụng, dù người cấp tiến vẫn cứ vô lý cho
rằng các người lạm dụng phần lớn là dị tính đi thích mấy chàng đực rựa. Khi một
giới chức Vatican cho hay chỉ có khoảng 10%
các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục thực sự liên hệ tới ấu dâm, thì một linh mục
và một nữ tu viết trên tờ NCR tố cáo rằng câu tuyên bố dựa vào sự kiện ấy hoàn
toàn là một tránh né có tính bệnh lý.
Linh mục kiêm thần học gia cấp tiến Charles Curran cho rằng
vụ tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục “khiến nhiều người nhìn nhận nhu cầu
phải thay đổi trong Giáo Hội”. Nhưng lạm dụng tình dục vốn là một vi phạm thô
bạo tới giáo huấn luân lý của Giáo Hội, nên thật khó thấy làm thế nào việc cả
đời cổ vũ một nền luân lý tính dục dễ dãi hơn của Curran có thể khiến cho những
vi phạm kia bớt xẩy ra được.
Cuộc cách mạng tình dục vốn được các người Công Giáo cấp
tiến ủng hộ, chủ yếu vì họ coi tôn giáo đương nhiên là trở ngại cho việc khai
sáng, thành ra họ cần được sự dạy bảo của thế tục. Đức tin không ngừng chịu lệ
thuộc các phê phán từ bên ngoài và chỉ được coi là chính đáng khi được các phán
đoán đó thông qua.
Ken Briggs, một cựu chủ bút về tôn giáo của tờ New York Times, cho độc giả NCR hay: về
vấn đề đồng tính luyến ái, “Những người Anh Giáo Mỹ, được coi như các nhà quí
tộc của sinh hoạt tôn giáo Mỹ,… đặt tiêu chuẩn cho mọi giáo hội khác, kể cả
Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội, về mặt chính thức, thật xa vời đối với cuộc
canh tân về phương diện này”. Nên nhớ, ở đây cũng như ở chỗ khác, “canh tân” có
nghĩa hoàn toàn trái ngược với truyền thống Giáo Hội.
Tờ NCR than phiền rằng không một sáng lập viên nào của phong
trào môi sinh là người Công Giáo. Nhưng điều này hầu như đúng từ trong định
nghĩa, vì chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo chỉ đơn thuần bước theo bất cứ những gì
chủ nghĩa duy tục làm cho nổi tiếng. Điều đáng lưu ý là tờ NCR lại cho việc nói
rằng không có người cấp tiến thế tục nào trong phong trào phò sự sống là điều
vừa không ăn nhập gì vừa có tính thiển cận.
Liên quan tới chủ nghĩa duy môi sinh, tờ NCR đi xa đến chỗ
buộc tội chính chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo bằng cách chấp nhận lời chỉ trích
của phe duy môi sinh cho rằng việc nhấn mạnh tới “công bằng xã hội” đã khiến
người Công Giáo quá tập chú vào con người hơn là vào thiên nhiên. Tờ báo còn
cho rằng hiện tượng cho là mặt trời quay tại Fatima là điều các nữ tu hiện đại
không thể chấp nhận được vì đó là việc “sử dụng sai lầm quá nhiều năng lượng
mặt trời chỉ để phục vụ việc phúc âm hóa”, hạn từ “chỉ để” đã vô tình bôi xấu
nhiệm vụ căn bản của người Kitô hữu đối với việc phúc âm hóa.
Bài Công Giáo hay không bài Công Giáo
Xét đến cùng, chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo thực sự trở thành
chủ nghĩa bài Công Giáo, đến độ Ed Doerr, người đứng đầu tổ chức bài Công Giáo Americans United, thỉnh thoảng vẫn viết
ca tụng tờ NCR đã vạch trần những cái xấu xa của Công Giáo.
Hans Kung |
Linh mục kiêm thần học gia cấp tiến được nhiều người biết
đến là Hans Küng xem ra không tỉnh táo bao nhiêu khi cảnh cáo những người Anh
Giáo muốn gia nhập Đạo Công Giáo phải coi chừng “chính sách ngoại giao quỉ
quyệt của Vatican”, “đừng vướng vào chiếc lưới giăng của Vatican”, coi chừng
“cơn khát quyền lực của Rôma” và cả “các ngục tối của Rôma” nữa.
Tập san Công Giáo cấp tiến ở Anh, The Tablet, từng cho đăng tải một thư ngỏ của một nhà thần học
Công Giáo Hung Gia Lợi khẩn khoản yêu cầu người Anh Giáo đừng gia nhập “Giáo
Hội đang khủng hoảng của chúng tôi” và chỉ trích Đức Bênêđíctô XVI không chịu
chấp nhận nữ linh mục và đồng tính luyến ái mà theo ông nhiệm vụ lịch sử của
Hiệp Thông Anh Giáo cần phải phát huy.
Những người Công Giáo cấp tiến đã nội bộ hóa chủ nghĩa kỳ
thị Công Giáo của những người họ đang đi tìm sự ủng hộ, như tiểu thuyết gia
Mary Gordon chẳng hạn, người từng nói với NCR “Nói rằng tôi là một nhà văn Công
Giáo quả đã tự động giảm IQ của tôi xuống 90 điểm. Nhưng tôi hiểu tại sao có
người lại nghĩ như thế”. Bà “tự giữ một khoảng cách thật xa với hàng giáo phẩm”
và cho mọi người biết rõ mình ủng hộ Planned
Parenthood (phá thai).
Tờ NCR có bài ở trang nhất nói về một giáo xứ ở Oregon không muốn làm
chứng đầy đủ cho niềm tin Công Giáo của mình trong một môi trường nặng mùi duy
tục. Thay vào đó, các giáo dân chỉ muốn cho mọi người thấy họ cũng “xanh” như
bất cứ ai khác, và người lôi cuốn chính trong buổi liên hoan của giáo xứ chính
là chính khách chuyên tranh đấu cho phá thai, Robert Kennedy Con.
Cái hiểu lệch lạc về lịch sử Giáo Hội
Vì cái hiểu lệch lạc của họ về Giáo Hội, nên lịch sử Giáo Hội
đối với hầu hết những người cấp tiến đã trở thành cuốn sách đóng và điều tốt
nhất họ có thể làm là lục lọi các giai đoạn có thể tương hợp với ý thức hệ hiện
đại. Chittiser từng bác bỏ trọn thời kỳ từ Công Đồng Trent tới Vatican II, coi nó như một thời kỳ
trong đó “Giáo Hội miệt mài trong việc ngưng đọng thời gian và hãm đà canh tân
trong suốt 400 năm”.
John Henry Newman |
John Henry Newman được ca ngợi là người nâng cao thẩm quyền
lương tâm, trong khi lời ông cảnh cáo đối với chủ nghĩa cấp tiến, coi nó như đe
dọa trầm trọng nhất đối với Kitô Giáo, thì bị làm ngơ. Một độc giả của NCR phản
đối vụ phong chân phước cho ông chỉ vì nhiều người Anh Giáo “hiện vẫn còn ghét
việc ông trở lại Công Giáo”. Lời phản đối này hình như muốn ngụ ý rằng Newman
đã không hành động theo tiếng lương tâm của mình.
Chính Chúa Giêsu cuối cùng cũng trở thành xa lạ với người
cấp tiến, ngoại trừ mức độ Người được coi như một người duy nữ nhút nhát, hay
như một nhà trị liệu tự thành tựu hoặc một nhà cách mạng chính trị. Kitô học cổ
điển là một hàng rào cản sự hiểu biết của họ.
Gần 50 năm sau Công Đồng, những người cấp tiến cay đắng vẫn
còn than phiền rằng Giáo Hội không chịu theo con đường mà họ tin chắc Công Đồng
đã đưa ra. McBrien than thở rằng các linh mục tốt lành đang “bị đối xử như
những kẻ phản bội” còn Giáo Hội thì đang “hủ bại” vì “khi một giám mục lành
mạnh về phương diện mục vụ qua đời… người thừa kế của ngài thường là một tiểu
quản trị viên cứng ngắc, ưa kiểm duyệt”. Theo McBrien, các linh mục mới chịu
chức chỉ cử hành thánh lễ bằng tiếng La Tinh, “mắng nhiếc” tội lỗi giáo dân, sa
thải nhân viên, và trên tòa giảng chỉ nói tới phá thai.
Những than phiền như thế phần đông chỉ cho thấy cái mặc cảm
tự tôn của các linh mục giống như McBrien, một mặc cảm mà cái Giáo Hội vô ơn
kia không chịu thừa nhận. Một linh mục Úc là Eric Hodgens còn vênh vang tự hào
rằng “chúng tôi hết sức thành công trong việc huấn luyện một hàng ngũ giáo dân
sinh động một cách mới mẻ”. Ông coi hai vị giáo hoàng mới đây là kém cỏi về trí
thức không giống thế hệ ông, “lúc hàng linh mục duy trì được một tỉ lệ cao nhất
gồm nhiều nhà lãnh đạo thông minh, có giáo dục và có khả năng”.
Nguyên bỉnh bút của tờ NCR là Tim Unsworth có lần mô tả một
cách kính phục một nhóm cựu linh mục ở Chicago
từng gặp nhau thường xuyên để ăn trưa và thường lắc đầu khi nghe một số linh
mục được thăng chức mà theo họ ai cũng thấp kém hơn họ cả.
Cựu linh mục Eugene Kennedy, trong nhiều thập niên qua,
chuyên cười nhạo Giáo Hội, coi Giáo Hội như “một máy đánh đu trục trặc”, “đường
đi chính giữa của đoàn xiệc văn hóa giáo sĩ”. Các bản dịch mới của Thánh Lễ là
một gian dối, giống “thuốc men có trình tòa đánh cướp từ phía sau các toa tầu
thế kỷ 19”. Có lần Kennedy phân tích tâm lý các giám mục từ xa, coi họ bất ổn
đối với nam tính của mình và do đó thích ra tay trừng trị các linh mục cấp tiến
vì chỉ có họ mới có nam tính thực sự. Có điều ông nói thế trước khi các vị giám
mục bị tố cáo là lơ là không chịu trừng phạt các linh mục lạm dụng tình dục!
James Gilgannon, một linh mục cao niên ở Kansas City, khi
trở lại giáo phận gốc sau nhiều thập niên sống tại Bolivia, đã cho công bố “một
thư ngỏ” gửi vị giám mục ít tuổi hơn của mình để chỉ trích đường lối hành động
“đầy ý thức hệ hẹp hòi” của ngài khiến giấc mộng của thế hệ ông tan vỡ, nhất là
vì đã thẳng thừng bác bỏ phá thai.
Denise Simeone, một người tự nhận “có năng khiếu điều hợp
nhóm, đặt kế hoạch lâu dài, và lo phát triển truyền giáo”, đã viết một thư ngỏ
gửi các linh mục thuộc lớp tuổi nọ mà bà vẫn thương hại vì họ chịu nhiều ức
hiếp và bị thương tổn nhiều về tinh thần do liên hệ với hàng giáo phẩm. Còn Pat
Marren, một cựu linh mục và nay là một nhân viên của NCR, thì phê phán rằng
“Các linh mục của Vatican II” chịu “nhiều đau khổ và thất vọng vì một Giáo Hội
định chế mà họ vốn phục vụ hết sức trung thành”.
Nhưng người Công Giáo bảo thủ biết rõ: bạo chúa đáng sợ nhất
thường là những người gần mình hơn cả. Trong nhiều năm qua, các linh mục, tu sĩ
và giáo dân bảo thủ đã phải chịu nhiều đắng cay dưới thẩm quyền độc đoán của
các giám mục và bề trên tự coi mình không cần phải vâng phục thẩm quyền cao
hơn. “Các linh mục của Vatican II” đã tự tung tự tác trong nhiều thập niên qua,
chỉ đến nay họ mới bị yêu cầu phải tính sổ, điều mà họ thường từ chối.
Cho người tốt ra rìa
Trong nhiều thập niên qua, người Công Giáo bảo thủ từng bị
cho ra rìa bởi các nhóm như Hội Thần Học Công Giáo Mỹ (CTSA), là những nhóm bất
cần phải giả bộ hiếu khách đối với “mọi quan điểm”. Nhiều người bị mất danh
hiệu, mất cả việc làm, thậm chí còn không được tuyển dụng, còn nếu được tuyển
dụng thì bị trừng phạt vì đã dám bênh vực giáo huấn của Giáo Hội, không phải
chỉ trong lãnh vực học thuật mà cả trong bất cứ cơ sở chính thức nào của Giáo
Hội nữa.
Michael Rose đã thu lượm nhiều tài liệu trong cuốn Goodbye Good Men (Giã Biệt Những Người
Tốt), cho thấy: trong nhiều năm qua, các người trẻ chính thống đã không được
nhận vào chủng viện, mặc dù các giáo phận đang thiếu linh mục một cách trầm
trọng. Mưu mẹo loại họ ra thường là hỏi họ cho biết quan điểm về việc phong
chức cho phụ nữ, và nếu trả lời theo giáo huấn chính thức, họ sẽ bị loại ngay
lập tức vì đã “không nhậy cảm với phụ nữ”. Gần năm thập niên qua, các thành
viên bảo thủ của các dòng tu liên tiếp bị gạt qua bên lề một cách tàn bạo.
Các nhân viên văn phòng làm việc trong Giáo Hội được đặt nửa
chừng giữa hàng giáo phẩm và hàng giáo dân, và sau Công Đồng, họ bắt đầu đòi
thẩm quyền đối với cả hai hàng ngũ ấy. Mặc dù liên tục khuyên các giám mục phải
khiêm nhường học hỏi giáo dân, nhưng các nhân viên văn phòng này thường bác bỏ
hay làm ngơ lời phê phán đối với công việc họ làm, vì họ vốn là những nhà
chuyên nghiệp mà! Người giáo dân bảo thủ hiểu rất nhanh rằng tra vấn về việc
giáo dục con cái họ hay các thực hành phụng vụ đáng hoài nghi chẳng có ích lợi
gì vì ngay các vị giám mục bảo thủ cũng tự động ủng hộ “các nhà chuyên môn”.
Chống lại thẩm quyền giám mục
Sau nhiều thập niên, cuối cùng, người Công Giáo bảo thủ cũng
được một số giám mục lắng nghe một cách thiện cảm, nhưng người Công Giáo cấp
tiến thì hầu như tự động phản ứng chống lại thẩm quyền của hàng giáo phẩm: vấn
đề nào do hàng giáo phẩm nêu ra đều ngay lập tức bị coi là “can thiệp” vào sinh
hoạt của Giáo Hội.
Dolores Leckey, trong nhiều năm qua, đã sử dụng chức vụ của
mình trong tư cách giám đốc điều hành Văn Phòng Gia Đình, Giáo Dân, Phụ Nữ, và
Giới Trẻ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ để cổ vũ chủ nghĩa duy nữ, nay công khai
bác bỏ rằng ngay cái gọi là thẩm quyền giám mục hợp pháp cũng chưa bao giờ có,
các giám mục hành động chẳng qua vì “sợ sệt” và “bất an”, chứ không phải vì xác
tín tôn giáo của họ.
Những biểu hiện của Đạo Công Giáo truyền thống bị người cấp
tiến phản ứng một cách kịch liệt. Linh mục thần học gia Richard McBrien kết án
việc phục hồi lòng tôn sùng Thánh Thể là “bước thụt lùi”, còn đối với Rick
Marren, một bỉnh bút của tờ NCR, lòng tôn sùng Thánh Thể và Đức Mẹ là một “phản
bội” đối với Vatican II. Nhà phụng vụ học Dòng Bênêđíctô là Anscar Chupungco
cho rằng “Giáo Hội đang trải nghiệm cái lạnh giá buốt của mùa đông…”.
Nhưng nào có ai bị buộc phải tham dự việc tôn sùng Thánh
Thể? McBrien cảm thấy tức giận chỉ vì một số người đã quyết định làm điều đó.
Một người đàn bà nói với NCR rằng theo bà, nhận tín hữu của Anh Giáo gia nhập Công
Giáo là điều “đáng lo ngại” vì họ “quì khi chịu lễ, linh mục của họ hướng lên
bàn thờ… ta đang đi thụt lùi đối với mô hình của Vatican II, là mô hình trọng
tinh thần luật, để chạy theo nghĩa đen của luật”.
Một cựu bỉnh bút của NCR tỏ ý sợ rằng các tân tòng từ Anh
Giáo qua đều là những “kẻ cuồng tín bài đồng tính”. Còn linh mục Dòng Tên
Thomas Reese, người từng trở thành nhà bình luận có thiện cảm đối với giới
truyền thông duy tục về các vấn đề Công Giáo, thì sợ rằng các tân tòng này sẽ
“làm hỏng hơn nữa chiều hướng canh tân”.
Những cuộc tấn công gay gắt chống lại bản dịch mới của Thánh
Lễ ít chú ý tới phẩm chất của ngôn ngữ cho bằng uy quyền của giới chuyên viên
phụng vụ, là giới gần như lần đầu tiên trong suốt 45 năm qua đã bị đức giáo
hoàng và các giám mục tra vấn. Các chuyên viên phụng vụ tức giận vì họ không
được ủy thác việc thực hiện các bản dịch mới này.
Tu sĩ Dòng Bênêđíctô Anthony Ruff than phiền trước “mẫu mực
áp đặt từ trên xuống dưới của giáo quyền trung ương, một thẩm quyền tự cho mình
không cần tính sổ với giáo hội phổ quát”. Nhưng thực ra chính giới chuyên viên
phụng vụ mới hành xử kiểu đó gần 50 năm nay. Chupungco cũng từng cho rằng “ta
không được tự do trình bày bất cứ quan điểm” nào đi ra ngoài những điều các
chuyên viên phụng vụ “phán” cả 4 thập niên trước đây.
Tại phiên họp năm 2010 của Hội Thần Học Hoa Kỳ, 2 thần học
gia giáo dân là Catherine Clifford và Richard Gaillardetz cho rằng trong quá
khứ, truyền thống “vốn giam mình vào việc chuyển giao các giá trị đầy chất ý
thức hệ và tính tư lợi nặng nề”. Nhưng hiện nay, chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo
đã trở thành một ý thức hệ, và không nơi nào việc hợp lý hóa tư lợi rõ ràng hơn
là trong giới chuyên nghiệp có tổ chức.
Clifford và Gaillardetz khiếu nại rằng các thần học gia hiện
phải lao đao dưới con mắt ngờ vực của các giám mục, và quả quyết rằng các thần
học gia chỉ “tỏ bày lòng trung thành với huấn quyền bao lâu huấn quyền tỏ ra
phục vụ lời Chúa cách thích đáng”. Nhưng điều gì tạo nên lời Chúa thì phải để
cho các thần học gia có tiếng nói sau cùng.
Kết án Vatican ngu dốt
Sự tự cao tự đại của người cấp tiến là họ cho rằng các viên
chức của Vatican thẩy đều ngu dốt và không
hiểu tí gì về các nền thần học bị họ phê phán. Lời kết án này còn ngụ ý cả
chính Đức Bênêđíctô XVI lúc ngài còn đứng đầu Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, dù ngài
được coi là một trong các thần học gia lớn của thời đại.
Một số thần học gia còn tự nhận là “huấn quyền thứ hai” có
thế giá giảng dạy ngang hàng, thậm chí còn hơn cả thế giá của huấn quyền nữa.
Điều tự nhận này quên khuấy sự kiện này: trong suốt lịch sử Giáo Hội, huấn
quyền, thường hội họp thành công đồng, luôn là định chế có tiếng nói sau cùng
về học thuyết.
Clifford và Gaillardetz định nghĩa vai trò thần học gia là:
duy trì “tính ưu tiên của đức tin sống trong Giáo Hội trước các công thức tín
lý”. Họ muốn ngụ ý rằng hai thứ ấy không tương hợp với nhau. Nhưng khi loại bỏ
cả thẩm quyền của phẩm trật lẫn “ý kiến của bình dân”, hai thần học gia này tự
động coi các nhà chuyên nghiệp như những người duy nhất có đủ tư cách xác định
điều gì là “đức tin sống” điều gì không. McBrien từng chối bỏ đức tin sống nơi
lòng sùng kính Thánh Thể.
Nhưng cũng như bất cứ lúc nào, cách mạng luôn nuốt trửng các
đứa con của nó. Nữ Tu Margaret Brennan, một lãnh tụ của phong trào cải cách
cuộc sống tu trì sau Công Đồng, đang tự hỏi liệu ta có cần tới các nhà tự xưng
là chuyên viên hay không. Vì “tất cả chúng ta há không phải là thần học gia
cách nào đó hay sao?”
Một số nữ tu coi cuộc điều tra của Vatican đối với cuộc sống
tu trì là một hành động “bạo lực” và cuộc phản kháng của họ có mục đích “phá đổ
cái chu trình bạo lực ấy”. Nữ tu Theresa Kane, người từng công khai nhục mạ Đức
Gioan Phaolô II trong cuộc tông du Hoa Kỳ lần thứ nhất của ngài, vừa tuyên bố
rằng “hàng giáo phẩm nam giới đang bất lực, không có khả năng bình đẳng, chịu
trách nhiệm chung trong tư cách người trưởng thành”.
Những người chống đối cuộc điều tra các cộng đồng tu trì đưa
ra một chủ trương độc nhất vô nhị trong lịch sử Giáo Hội cho rằng các nữ tu
không có nhiệm vụ phải trả lời ai ngoài chính họ. Gaillardetz là người cung cấp
cho Hội Đồng Lãnh Đạo Các Nữ Tu (LCWR) các hướng dẫn về thần học.
Nữ tu chủ trương duy nữ Joan Chittister tương phản các nữ tu
“những người nhất quán tiếp tục phục vụ người nghèo, hành động cho công lý, và
cố gắng tạo hòa bình giữa các dân tộc thuộc mọi đức tin và văn hóa” với “giáo
hội hoàn vũ đang loay hoay đương đầu với các hậu quả của gương mù tình dục ở
khắp nơi, với nạn biển thủ ở khắp nơi…” Nhưng không ai có thể xác định được
phạm vi rộng lớn của bê bối tình dục và biển thủ nơi các nữ tu, bởi họ tuyên bố
rằng họ không phải tính sổ với ai cả.
Thiếu hẳn tinh thần tự phê
Sean O'Malley |
Đức HY Sean O’Malley của Boston , một tu sĩ Capuchin, cho hay: mặc dù
hay nói tới “cởi mở”, nhiều cộng đoàn tu sĩ thiếu hẳn tinh thần tự phê, khi cứ
nằng nặc tuân giữ các kinh nghiệm thất bại của họ. Thoạt đầu, các nhà lãnh đạo
của phong trào cải cách tiên đoán rằng các thay đổi sẽ lôi cuốn được nhiều
người gia nhập. Khi điều ngược lại xẩy ra, cũng các nhà lãnh đạo đó tuyên bố
rằng họ lôi kéo được ít thành viên hơn, nhưng thẩy đều là những người tốt hơn.
Bây giờ, thì họ tỏ ra bất cần trước viễn tượng trong một thập niên nữa nhiều
cộng đoàn của họ sẽ hết đoàn viên. Đức HY Franc Rodé, cựu tổng trưởng Thánh Bộ
Dòng Tu, cho người ta thấy rõ: dù LCWR đại diện cho 80% các cộng đoàn nữ tu tại
Hoa Kỳ, nhưng Hội Đồng Các Bề Trên Cả Dòng Nữ (CMSR), một hội đồng nữ tu khác,
hiện đang thu hút 80% các ơn gọi nữ.
Mặc dù hàng giáo phẩm vốn nội tại trong đời sống tôn giáo
xưa nay, nhưng LCWR đã từ bỏ ý niệm “bề trên”, coi nó như độc đoán, để phát huy
ý niệm “lãnh đạo” được họ coi là dân chủ hơn. Nhưng đây là trò bịp bợm, vì một
trong các động lực khiến Tòa Thánh mở cuộc điều tra chính là vì các nữ tu khiếu
nại rằng LCWR chuyên áp đặt các thay đổi từ trên và bất cứ ai phản đối đều bị
cho ra rìa.
Cuộc điều tra trên bị tố cáo là “lùng diệt phù thủy” và
“lùng diệt dị giáo” nhưng cùng một lúc, các nữ tu huênh hoang rằng cuộc sống
của họ đã hoàn toàn thay đổi, đến độ không ít người trong số họ đã trở thành
những người tranh đấu mạnh mẽ cho việc phá thai. Một quảng cáo 4 trang trên tờ
NCR đã chào mừng các nữ tu bằng những lời sứ thần Gabrien thưa cùng Đức Mẹ:
“Kính chào, các bà đầy ơn phúc” và tuyên xưng “các đạo binh thần thánh trong
liên đới với các bà”. Trong số những người tài trợ quảng cáo này, ta thấy có
nhóm phò phá thai Người Công Giáo Tự Do Chọn Lựa.
Giống như trong các lãnh vực khác, dù hay nói tới đa dạng
tính và chủ nghĩa đa nguyên, nhưng người Công Giáo cấp tiến không coi sinh hoạt
tôn giáo truyền thống là chân thực. Bởi thế, một độc giả của NCR “biết tỏng
tong” là các thiếu nữ gia nhập các dòng truyền thống thẩy đều “đã nuốt chửng
cái bả huyền thoại về chính mặc cảm tự ti của mình”. Còn Ken Briggs, một cựu
phóng viên của New York Times thì tuyên bố rằng LCWR là “thế hệ sống sót cuối
cùng của Công Đồng Vatican II”. Đối với Briggs, sự hiện hữu của Hội Đồng Các Bề
Trên Cả Dòng Nữ quả là một âm mưu phá hoại đối với LCWR, một tổ chức mà chỉ có
nó mới có quyền lên tiếng thay cho mọi nữ tu, kể cả các nữ tu không nhất trí
với các chủ trương của nó. Ông bảo: nói rằng các cộng đoàn truyền thống đang
lôi cuốn nhiều ơn gọi hơn không hề đúng sự thật mà chỉ là một âm mưu khác của Vatican nhằm phá hoại LCWR.
Ở đây, một lần nữa, lịch sử lại là chướng ngại vật cho cái
hiểu về chính mình của phe cấp tiến. Họ nhắc lại các phục vụ anh hùng mà các nữ
tu vốn thực hiện tại các trường họ, các nhà thương và các nhà mồ côi để hàm ý
một cách phi lý rằng các nữ tu hiện đang bị điều tra là vì chính những việc phục
vụ anh hùng đó, chứ không phải vì họ đã bỏ bê chúng một cách đại qui mô. Các
giáo dân thuộc đủ khuynh hướng hẳn nhận ra rằng trong nhiều năm qua, trong các
trường Công Giáo và trong nhiều định chế y tế Công Giáo, người ta ít thấy bóng
dáng các nữ tu này.
Các nữ tu sĩ hiện đại tự hào về các thành tựu của các bậc
đàn chị đi trước, nhưng lại chỉ có thể ngưỡng mộ họ một cách mập mờ, vì cho
rằng các công trình vĩ đại của ngày qua được thực hiện bởi các đàn chị chỉ biết
sống cái lối sống bị ngày nay kết án là hẹp hòi, bẳn gắt, một lối sống mà các
nữ tu hậu công đồng đã tự mình thoát ra khỏi.
Nhưng thái độ được họ chấp nhận đối với các nữ tu thời tiền
công đồng đã được duyệt lại trong cố gắng giải quyết sự mâu thuẫn trên. Trong
một thời gian, ý kiến của phe cấp tiến xem ra ủng hộ mẫu người trong vở kịch Sister Mary Ignatius Explains It All,
trong đó, các nữ tu bị chính nền huấn luyện sai lạc của họ biến thành độc ác và
rối loạn về tâm lý. Cái nhìn này nay đã bị họ loại bỏ để chọn một quan điểm
trái ngược: các nữ tu trông rộng thấy dài vốn là những người đi tiên phong
trong việc tạo ra mọi thiện ích trong Đạo Công Giáo Hoa Kỳ, nhưng họ bị hàng
giáo phẩm phản động cản trở.
Lý do ở lại
Tại sao các người cấp tiến bất mãn cứ tiếp tục ở lại trong
cái Giáo Hội vốn luôn làm họ thất vọng này là điều khó hiểu; lý do không hẳn vì
họ tin vào bản chất thần linh của Giáo Hội. Đôi khi họ trích dẫn Phép Thánh Thể
làm lý do ở lại, nhưng về phương diện luận lý, các nguyên tắc của họ đòi họ tin
rằng phép thánh thể của Thệ phản cũng đâu có kém giá trị.
Việc làm người Công Giáo bị phe cấp tiến thu gọn vào một mẫu
số chung rất thấp, như một độc giả của NCR từng viết: đó là “các mối tương quan
với hàng trăm người”... các tổ chức chuyên nghiệp, các câu lạc bộ cựu học sinh,
hay các nhóm vận động hành lang. Một độc giả khác vốn tham dự một giáo xứ “tiến
bộ, không phải vì tôi cần tới Đạo Công Giáo để trưởng thành về thiêng liêng, mà
bởi vì cộng đồng có tính bao gồm này nuôi dưỡng tôi một cách độc đáo chưa thấy
ở nơi nào”.
Một người duy nữ tuyên bố như sau: “phụ nữ không cần Vatican . Chúng
tôi không cần các giám mục. Họ là một đe dọa thực sự”. Nhưng thực ra, phụ nữ
cần những thực tại ấy, vì căn tính của họ vốn được nhào nặn nên nhờ cái tâm
tình nổi loạn đầy ám ảnh chống lại thẩm quyền Giáo Hội.
Thèm khát quyền lực
Phe cấp tiến lặp đi lặp lại luận điệu cho rằng các vị trong
hàng giáo phẩm là những người thèm khát quyền lực, nhưng thực ra, phe cấp tiến
mới là người bị quyền lực ám ảnh, và đây là lý do chính khiến họ tiếp tục ở lại
trong Giáo Hội. Một phụ nữ kể cho độc giả NCR nghe: đã từ lâu, bà không đi nhà
thờ nữa cho tới khi một người duy nữ khác có quyền chào hỏi người ta trước
thánh lễ.
Phần lớn người duy nữ không đưa ra được một nền thần học gắn
bó nào về chức linh mục, ấy thế nhưng họ vẫn một mực đòi được thụ phong. Một
“giám mục” đàn bà đã nói rằng: dù “Giáo Hội Công Giáo độc hại đối với phụ nữ…
nhưng điều hết sức quan trọng đối với uy tín của tôi là được nhận mình là người
Công Giáo Rôma. Tôi phong chức linh mục cho các phụ nữ của Giáo Hội Công Giáo
Rôma. Tuy bị phạt tuyệt thông, tôi vẫn ở trong giáo hội này một cách đặc thù và
trong ý hướng”.
Một “chuyên viên” về giáo dân, cựu linh mục Dòng Tên Paul
Lakeland, tố cáo rằng Giáo Hội Công Giáo “đang nhi hóa” (infantilizes) con người.
Hình như qua thuật ngữ này, ông muốn nói rằng đời sống tôn giáo và luân lý của
họ không hẳn non dại cho bằng họ đã không “nắm lấy quyền sở hữu đối với giáo
hội hoàn vũ”.
Trong một thư ngỏ, linh mục Eric Hodgens, người Úc, than
phiền rằng những người xuất chúng như ông không được nắm giữ những chức vụ họ
đáng được nắm, trong khi những người “bán linh hồn để mua thăng tiến” thì được
thăng thưởng.
Giáo hội học cấp tiến
Chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo đang diễn lại lịch sử Cải Cách
thế kỷ 16, bắt đầu bằng lời kêu gọi cải cách hợp pháp, và rồi kết thúc với thật
nhiều chia rẽ. Nhưng trong khi Luther và Calvin bác bỏ những người tiến quá xa
và quá nhanh, thì ý niệm lạc giáo và ly giáo hoàn toàn vô nghĩa trong nền giáo
hội học thiếu gắn bó của người Công Giáo cấp tiến, trong đó, phán đoán của mỗi
người đều được coi là thánh thiêng và ai cũng là người Công Giáo nếu họ nghĩ về
họ như vậy.
Chính tờ NCR hiện đang ủng hộ một thứ ly giáo chính thức,
tức đòi cho phụ nữ được thụ phong linh mục, dù Giáo Hội đã chính thức tuyên bố:
việc phong chức ấy bất thành. Jamie Manson, một bỉnh bút thường xuyên của NCR,
thúc giục phụ nữ tham dự “tiệc thánh thể do giáo dân chủ sự” hay tìm cách được
thụ phong bởi người ly giáo, trong khi “bà” thần học gia duy nữ Rosemary
Radford Ruether tuyên bố mình thích có hệ thống, trong đó toàn bộ cộng đồng
“phong chức” linh mục cho phụ nữ, không cần giám mục.
Kane thì cho hay: “tôi không ở ngoài hiệp thông. Định chế ở
ngoài hiệp thông với tôi”. Bà thấy phụng vụ là “nguồn gây lo lắng, buồn sầu,
thậm chí còn trống rỗng nữa”, nên bà rất vui khi một vài cộng đoàn đang cố gắng
tạo ra các nền phụng vụ duy nữ riêng cho mình. “Có lẽ đây là khởi đầu của một
giáo hội mới”. LCWR từng tặng Huy Chương Lãnh Đạo Xuất Chúng cho Kane, cựu chủ
tịch của nó.
Đối với người Công Giáo cấp tiến, điều xem ra là giáo hội
học được xây dựng trên “tinh thần” của Công Đồng Vatican II, một tinh thần mà
chỉ một số người nào đó nắm bắt được, còn những người khác, kể cả các vị giáo
hoàng, đều không biện phân được. Kinh nghiệm nhân bản trở thành tiêu chuẩn duy
nhất của sự thật, nhưng có những kinh nghiệm bình đẳng hơn những kinh nghiệm
khác. Người cấp tiến thực sự tin rằng “Thánh Linh” nói với họ chứ không nói với
những người họ bất đồng với.
Họ thường quảng đại ban thưởng cho nhau những hình dung từ
như “sâu sắc”, “đẹp đẽ”, “đầy cảm thương”, “đầy yêu thương” và “thánh thiện”,
tấn phong cho nhau là ‘nghệ sĩ”, “tiên tri” và “người thấy trước”. Một độc giả
của NCR tỏ ý không bằng lòng với kiểu nói “Chúa đã dùng các tiên tri mà phán
dạy” như chuyện đã qua, vì như thế là loại bỏ rất nhiều tiên tri đang sống hiện
nay.
Clifford và Gaillardetz nại tới ơn gọi tiên tri của thần học
gia, những người “không màng tới thị phi thông thường”, mà nhiệm vụ “đòi một
cảm thức khiêm nhường sâu xa”. Nhưng những anh hùng cấp tiến như Hans Kung đã
từ lâu vốn rất thích nhận những khen tặng của truyền thông. Những người cấp
tiến cũng rất thích hãnh diện rằng đại đa số người Công Giáo đồng ý với nền
luân lý dễ dãi của họ về tính dục.
Mặt khác, tước hiệu tiên tri ít khi được họ ban tặng cho
những ai không ủng hộ ý thức hệ cấp tiến. Trong số những người ấy ta thấy có
Chân Phúc Têrêxa Thành Calcutta, người, đối với họ, chỉ là con voi chính trưng
bày trong phòng khách, vì bà không ăn khớp với khuôn mẫu người Công Giáo “hậu
công đồng” của họ. Có lần, Unsworth nhạo báng bà trên các trang của tờ NCR, gọi
bà là “Mẹ Jugo”, tên một loại xe hơi rẻ tiền của Âu Châu và than phiền rằng các
nữ tu của bà là trở ngại cho giáo hội cấp tiến ở Chicago.
Người Công Giáo cấp tiến cũng không chịu ca ngợi một “nữ tu
độc lập” khác, một phụ nữ biết vươn tay ra với thế giới bên ngoài bốn bức tùng
tu viện, vượt thắng vô vàn trở ngại, trong đó có cả sự chống đối lộ liễu của
một vị hồng y mạnh quyền, để tạo nên một hệ thống truyền thông Công Giáo lớn
nhất thế giới. Những công trạng ấy đáng lẽ đã biến Mẹ Angelica thành bậc anh
hùng duy nữ, nhưng NCR chỉ coi bà như một thứ trình diễn hào nhoáng.
Khi mô tả những cuộc tụ họp của mình, người cấp tiến thường
nhấn mạnh tới cảm thức hài hước của họ và quả thực họ không nhìn họ một cách
nghiêm chỉnh. NCR hay đăng các bức hình cho thấy các anh hùng cấp tiến đang
cười để tương phản họ với nét khó chịu của người bảo thủ. Sau khi Unsworth qua
đời, chủ bút NCR Tom Fox xưng tụng ông là người dí dỏm vĩ đại, và trích dẫn
những câu bông đùa của ông như “ơn toàn xá lấy từ gác xép ra dành cho thiên
niên kỷ mới”. Việc ông nhạo báng, gọi Chân Phúc Têrêxa là “Mẹ Jugo” được coi là
cau khôi hài muôn thuở!
Linh đạo cấp tiến
Khi thẩm quyền chức vụ bị bác bỏ, thì người ta bắt buộc phải
thay thế nó bằng việc tôn thờ cá nhân. Chittister thường hạ giá các cuộc tông
du của Đức Giáo Hoàng, coi chúng chỉ là các biểu hiện lấy tiếng, cỡ biến cố
hoàn cầu, để rồi, trước mặt độc giả NCR, tự thế chỗ của Đức Giáo Hoàng: “chỉ
cần biết có một Joan Chittister cũng đủ làm nhiều người được phấn khởi”; “bà có
một trung tâm linh đạo bình thản”; “Đã qua tuổi 70 mới đây, bà không có dấu
hiệu gì cho thấy sẽ chầm chậm lại…”; “luôn bình thản, duyên dáng, và có mặt…”;
“… luôn ý thức sâu sắc được đau khổ và ước muốn khôn nguôi đương đầu với nguyên
nhân của đau khổ ấy…”; “bà thong dong buớc cùng khắp Cựu Ước, nơi bà tìm thấy
nhiều bằng hữu vượt thời gian”; “ít nhà văn nào có nhà in riêng…”; những người
ái mộ bà “giữ cho thế giới đồng nhịp với các suy tư của Chittister về thân phận
con người…”…
Còn nữa: “Số người muốn có thời gian với bà đông vô kể.
Những người cầu thân với bà đôi khi phải đăng ký trước cả ba năm…”; “quả là một
đặc ân đối với Call to Action (Tiếng Gọi Hành Động) khi thành công đăng ký được
bà…” Chủ bút NCR rất vui khi được gặp bà trên điện thoại sau khi đã cố gắng gọi
lần thứ hai. Bà mệt mỏi vì bay “vội vào ra” Newfundland, tiếp theo sau chuyến
bay khác tới New York … hôm sau lại bay đi California ”. Tờ báo
không quên đăng tấm hình người tị nạn Iraq
tại Damascus
quây quần quanh bà để tỏ lòng tri ân đối với chuyến bay viếng thăm của bà… Còn
rất nhiều những ca tụng đại loại như thế.
Tất cả những ca tụng ấy xem ra nhất quán với cái hiểu của
Chittister đối với Luật của Thánh Bênêđíctô. Lời Thánh Nhân khuyên khiêm nhường
đòi người ta phải dẹp các ảo tưởng của họ đối với sự phóng đại và bằng lòng với
những xử sự thấp hèn nhất. Nhưng theo bà, đối với phụ nữ, lời khuyên ấy phải là
sự cả quyết (self-assertive).
Nền linh đạo cổ điển khuyên ta phải cẩn thận biện phân được
các thúc đẩy (impulses), phân biệt các thúc đẩy từ Thiên Chúa khỏi các thúc đẩy
không từ Người. Nhưng trong thứ linh đạo cấp tiến hiện nay, bản ngã là thẩm
quyền tối hậu.
Người Công Giáo cấp tiến lên án “xã hội tiêu thụ” mà không
thấy cách tiếp cận linh đạo của họ ăn khớp với nó xiết bao. Reese từng nói về
việc Giáo Hội mất nhiều thành viên như sau: “nếu ta là nhà bán lẻ tận gốc
(outlet), thì ta chỉ còn biết đổ lỗi cho khách hàng”. Nhưng trên thực tế, người
cấp tiến coi tôn giáo như nhà bán lẻ tận gốc. Nếu Đạo Công Giáo cổ truyền có
tính giáo điều và độc đoán, nó đâu có chú ý tới ý muốn của người ta. Tuy nhiên,
giờ đây, người ta quả coi tôn giáo như một quán cà phê trong đó, họ muốn lựa
món nào tùy thích. Các nhà tĩnh tâm hiện đang được điều hành bởi các nữ tu
chuyên tìm cách lôi cuốn “khách hàng” để “thoa bóp trị liệu” hay các món xa xỉ
tâm linh khác cho những người có hết mọi sự.
Do đó, môn đệ Chúa Kitô đã trở thành khách hàng mà người ta
liên tục cần chiếm được sự lui tới của họ. Các bức thư gửi tới NCR hay thông
báo rằng tác giả của chúng đã chán ngấy lắm rồi và đã rời bỏ Giáo Hội hay đang
nghĩ tới chuyện đó. Một độc giả NCR cho rằng “một ngày kia, rất có thể tôi được
mời gọi bác bỏ giáo hội của tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ bác bỏ Thiên Chúa
hay chính tôi”. Thiên Chúa và bản ngã xem ra đã trở nên một. Một độc giả khác
thắc mắc há “Thiên Chúa mà tôi chọn để thờ phượng trong Giáo Hội Công Giáo
không đang nói với tôi rằng ‘khốn cho ngươi’” vì đã thuộc về một giáo hội không
chịu thừa nhận các cuộc kết hợp đồng tính.
Bình luận về việc một số bằng hữu của ông đã rời bỏ Giáo
Hội, Ruff cho rằng “đáp ứng của tôi là ở lại trong giáo hội này suốt đời và cố
gắng hết sức để phục vụ giáo hội ấy”, một quyết định được ông coi cũng chỉ là
một trong các khả thể có tính hợp pháp ngang nhau. Tuy nhiên, chỉ có một câu
hỏi có giá trị duy nhất, liên quan tới việc làm người Công Giáo, là liệu các
giáo huấn của Giáo Hội có chân thực hay không. Nếu chúng không chân thực, thì
không ai nên tham gia cái giáo hội ấy, còn nếu chúng chân thực, thì không ai có
quyền ròi bỏ nó về phương diện luân lý.
Người Công Giáo thế kỷ 21
Nghị trình cấp tiến hiện nay đã đi quá xa việc đi tìm Đạo
Công Giáo thích hợp cho thế kỷ 21. Nó đã nghiêng về cánh tả đến độ chỉ còn là
Kitô hữu một cách hàm hồ. “Linh đạo” là điều chủ yếu, vì từ ngữ này hiện đang
được cả những người vô thần sử dụng. Những người này đang tự cho mình đạt tới
chỗ cao nhất trong “kinh nghiệm tôn giáo” mà không cần dấn thân vào bất kỳ một
tín ngưỡng đặc thù nào.
Đối với Jamie Manson, Phép Thánh Thể chỉ là một dịp để làm
những chuyện quan trọng hơn trở thành khả hữu, vì đối với các thừa tác viên
giáo dân “sự nối kết sâu xa nhất của họ với Thiên Chúa xẩy ra trong hai kinh
nghiệm: lúc nhìn vào đôi mắt người chịu lễ và trong bữa ăn họ chia sẻ với các
thành viên của cộng đoàn sau đó”.
Bà tường trình rằng các việc sùng kính cổ truyền đã nhường
bước cho “yoga, thiền, ca hát, âm nhạc hay các thao tác lặp đi lặp lại khác
nhằm đem lại sự lành mạnh cho cả thân xác lẫn tinh thần”. Chính bà lần chuỗi
không phải để suy niệm các mầu nhiệm Ba Ngôi nhưng chỉ để “làm tan biến các xao
xuyến âu lo của tôi”. Quả có gì khác nhau đâu giữa chuỗi Mân Côi và chuỗi hạt
Phật Giáo? Sau khi ngăn cấm lối cầu nguyện lặp đi lặp lại đầy “vô nghĩa”, hiện
nay, người cấp tiến lại cho phép nếu họ thấy nó thỏa đáng trong chính cuộc sống
họ.
Brennan thuật lại rằng, nhờ chịu ảnh hưởng của phong trào
duy nữ, lý thuyết của Jung, và nhiều điều khác, nay bà đã khám phá ra rằng
“Thiên Chúa không phải là bất cứ ai… nhưng là nguồn suối và là thực tại của mọi
người và mọi sự”. Bà đã giải thoát mình khỏi các ý niệm xưa cũ về Thiên Chúa
vốn thả neo trong trí khôn tôi nhưng không còn nói với trái tim tôi nữa”.
Theo chân nhà tranh đấu da đen đầy kỳ thị chủng tộc Malcolm
X, linh mục thần học gia Bryan Massingale, cựu chủ tịch Hội Thần Học Hoa Kỳ,
thấy rằng gốc rễ chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc nằm trong “cơ cấu biểu tượng của
Kitô Giáo, nhất là hình ảnh của tôn giáo này về một Thiên Chúa da trắng”. Bởi
thế, theo ông, cần phải “bác bỏ hệ thống biểu tượng văn hóa của Kitô Giáo
Phương Tây”. Những người cấp tiến xưa nay vốn thích nhắc người Công Giáo nhớ
tới việc Chúa Giêsu là một người Do Thái cũng là những người rất thích diễn tả
Người như một người đàn ông da đen hay một người Ấn Độ.
Thiên Chúa Ba Ngôi tại quán càphê Starbucks
Bước theo đường mòn của chủ nghĩa Thệ Phản cấp tiến,
Terrence Tilley, một cựu chủ tịch khác của Hội Thần Học Hoa Kỳ, thắc mắc không
biết liệu các công thức tín lý cổ điển của các công đồng tiên khởi, nhất là các
công thức có liên quan tới Chúa Giêsu, đã lỗi thời chưa và có làm ta lầm lẫn
hay không. Ông cho rằng phải hiểu Chúa Giêsu một cách nào đó để có thể quả
quyết rằng ngoài Kitô Giáo ra, các tôn giáo khác cũng có mặc khải thần linh.
Linh mục thần học gia Phêrô Phạm Văn Cho cũng chủ trương
rằng “các từ ngữ như tính phổ quát, tính duy nhất, và tính độc chiếm, do có
liên hệ lịch sử với phong trào thực dân và đế quốc của Phương Tây, phải được
coi là không còn thích hợp và hữu dụng nữa để phát biểu đức tin của ta…”
Còn nhà thần học duy nữ Elizabeth Johnson thì cho hay:
“Chẳng có gì có hại nếu ta bỏ hẳn từ ngữ ‘Chúa Ba Ngôi’”. Một độc giả NCR
khuyên người ta nên dùng một sách cầu nguyện vì trong đó, “không có ‘Cha, Con
và Thánh Thần’, không có cả Giêsu lẫn Mẹ Đồng Trinh”.
Trong một bài xã luận Lễ Giáng Sinh, NCR cho độc giả của
mình hay: học thuyết về cứu chuộc là một sai lầm đã được truyền tụng trong
nhiều thế kỷ qua, cho tới khi nó bị bác bỏ bởi một số ít thần học gia hiện đại.
Bài xã luận tự khen: “có lẽ đây là lần đầu tiên, bạn được nghe Tin Mừng này”.
Jeanette Blonigen Clancy, một cựu nhân viên của tổng giáo
phận St Paul-Minneapolis, bác bỏ học lý “nam giới” về Ba Ngôi như “ba gã trên
trời”. Cô cho rằng “tôi tôn kính Chúa Giêsu như khuôn mặt cổ kính để gợi hứng
lối sống chính trực cho ta. Nhưng việc Người xuống thế gian không phải là biến
cố một lần mãi mãi làm thay đổi mọi sự mọi thời… Sự đau khổ và cái chết của
Người chỉ có giá trị thần thoại biểu tượng cho mọi đau khổ và cái chết cứu
chuộc… Sự hy sinh của họ cũng không kém đáng kể như chính sự hy sinh của Người…
Tôi thấy Chúa Giêsu nói chuyện làm ăn với Buddha tại quán cà phê Starbucks”.
Nhưng ngay cả việc hoàn toàn cởi mở đối với các tôn giáo
khác vẫn chưa đủ. Thần học gia duy nữ Mary Dale cho hay: “Tôi khẩn khoản xin
các bạn phạm tội… Nhưng không phải để chống lại các tôn giáo nhỏ nhoi như Kitô
Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo… tất cả đều phát sinh từ tôn
giáo vĩ đại của chế độ tổ phụ. Mà là phạm tội chống lại chính hạ tầng cơ sở”.
Nên nhớ, Chittister rất ái mộ Daly, coi tác giả này như một thần học gia lỗi
lạc.
Nhược điểm tai hại của sinh hoạt tôn giáo hậu công đồng là
hiểu canh tân theo nghĩa giải thoát khỏi nền linh đạo truyền thống, tự cắt mình
khỏi Giáo Hội đến nỗi tạo ra cả một lỗ hổng tâm linh cần được trám đầy. Hiện
nay, một số nữ tu thực sự đã dật dờ đi vào chủ thuyết ngoại đạo mới, thờ nữ
thần và nhiều loại linh đạo phi Kitô giáo đa dạng, sử dụng thẩm quyền còn lại
của họ để quảng bá cho điều thực chất là một tôn giáo thù nghịch.
Kate Childs Graham, một cộng tác viên của NCR, người liên
minh với Hội Đồng Phong Chức Phụ Nữ và Tiếng Gọi Hành Động, đã coi Starhawk,
“nhà văn và nhà tranh đấu xã hội”, như một thế giá, mà thực chất chỉ là một
người tự xưng là “phù thủy”, thờ nữ thần.
Một số người Công Giáo theo thuyết duy môi sinh trên thực
tế, tỏ ra thờ trái đất thực sự. Chủ Bút NCR là Rick Heffern, từng phát biểu
“Điều hiện đang lên khuôn lời cầu nguyện của tôi hơn cả chính là trình thuật
khoa học về tạo dựng… Vũ trụ là một đơn nhất, một cộng đồng tương tác, biến hóa
gồm các hữu thể và sự sống gắn bó một cách khắng khít với nhau”.
Người cấp tiến chỉ thấy một lý do duy nhất khiến người Công
Giáo rời bỏ Giáo Hội là tính khô cứng trong các giáo huấn, chứ không kể gì tới
sự rời bỏ đều đặn trong các giáo phái khác như Giáo Hội Anh Giáo Mỹ và các nhóm
Thệ Phản chính dòng.
Giáo Hội Anh Giáo Mỹ cung cấp cho người ta chính điều người
Công Giáo cấp tiến rất thèm muốn: không giáo hoàng, được bầu giám mục, thẩm
quyền giám mục yếu ớt, muốn cử hành phụng vụ ra sao tùy thích, hết sức mềm dẻo
về tín lý, hoàn toàn chấp nhận cuộc cách mạng tình dục. Nhưng, cũng như các
dòng nữ cấp tiến, Anh Giáo Mỹ xem ra đang tiến tới việc tự hủy.
Như lịch sử Thệ Phản Giáo và Do Thái Giáo hiện đại đã chứng
minh, thành tựu chính của tôn giáo cấp tiến là thuyết phục người ta tin rằng họ
không cần chi tới tôn giáo. Công Giáo cấp tiến đã đạt được mục tiêu của họ
trong việc phá hoại nhiều niềm tin và thực hành truyền thống, nhưng do đó, nó
cũng đang phá hoại chính nó: các vấn đề như phong chức phụ nữ không còn kéo
được sự chú ý của những người vốn thuộc về Giáo Hội như thuộc về một câu lạc bộ
sức khỏe. Con số những người cấp tiến tự coi mình như Công Giáo ngày càng giảm,
và về một phương diện nào đó, những người Công Giáo cấp tiến “hơn cả” chính là
những người đã hoàn toàn ra khỏi Giáo Hội.
Nhưng không phải mọi người rời bỏ Giáo Hội đều làm thế vì họ
cho rằng học thuyết của Giáo Hội quá khô cứng. Trái lại, một số rất đông đã
tham gia các nhóm Thệ Phản cực đoan, vì than phiền rằng các linh mục cấp tiến
của họ trình bày cho họ một dịch bản quá ư trần tục về Tin Mừng.
Người Công Giáo cấp tiến chạy trốn trước điều họ coi là mặc
cảm tâm thần đè nặng lên họ từ nền dưỡng dục tôn giáo, nhưng cảm thức đè nén
này phần lớn chỉ nằm trong giáo huấn về tính dục.
Ý niệm “tội xã hội”: chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa
thực dân, các cơ cấu kinh tế và xã hội bất công, bất kể giá trị như thế nào,
thực chất đã áp đặt lên người ta một mặc cảm nặng nề đến nỗi họ không thể nào
tháo gỡ được, vì tội xã hội được định nghĩa là tội mà người phạm tội không thừa
nhận sự đồng loã của mình.
Massingale quả quyết rằng người da trắng dính líu tới nền
văn hóa kỳ thị chủng tộc một cách sâu xa đến nỗi những ai nghĩ mình tự do cũng
đồng loã vì chính lý do đó. Một chủ bút của NCR ca ngợi một cuốn sách do dòng
Maryknoll ấn hành vì đã không tin rằng chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc có thể giải
quyết được trong ngữ cảnh văn hóa Mỹ, vì “chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và tội
diệt chủng vốn là hiến định của Hiệp Chúng Quốc…”
James Hitchcock. |
Cuối cùng, chủ nghĩa cấp tiến hiện đại, cả thế tục lẫn tôn
giáo, đều muốn nhân danh tự do để kiểm soát người ta. Sự cay đắng hiện đang
bàng bạc trong phong trào cấp tiến là ý thức quá chậm rằng ít nhất trong Giáo Hội
Công Giáo, chương trình này đã thất bại.
Phóng dịch bài “The Failure of Liberal Catholicism”
của Tiến Sĩ James Hitchcock, đăng trong Catholic World Report, số ngày
15-5-2011.
(www.vietcatholic.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét