Trang

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

05-09-2012 : THỨ TƯ TUẦN XXII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Tư sau Chúa Nhật 22 Quanh Năm


* * *

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 3, 1-9
"Chúng tôi là những người phụ tá của Thiên Chúa, còn anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là toà nhà của Thiên Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi không thể nói với anh em như với những người thiêng liêng, nhưng với những người xác thịt, những trẻ nhỏ trong Ðức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không cho của ăn, vì bấy giờ anh em chưa ăn được, nhưng cả bây giờ, anh em cũng chưa ăn được, vì hãy còn là người xác thịt. Bởi chưng ở giữa anh em, có sự ghen tương và tranh giành, thì anh em không phải là xác thịt, và sống như người phàm đó sao? Vì khi còn có người nói rằng: "Tôi thuộc về Phaolô". Kẻ khác nói: "Tôi thuộc về Apollô", thì anh em không phải là người phàm đó sao?
Vậy Apollô là gì? Phaolô là gì? Tất cả chỉ là những người giúp việc, mỗi người tuỳ theo ơn Chúa đã ban, nhờ họ mà anh em đã tin. Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng chẳng là gì cả, người tưới cũng chẳng là gì cả, nhưng chỉ Thiên Chúa, Ðấng làm cho mọc lên, mới đáng kể. Kẻ gieo và người tưới đều là một. Mỗi người sẽ lãnh công theo sự khó nhọc của mình. Vì chúng tôi là những người phụ tá của Thiên Chúa: còn anh em là cánh đồng của Thiên Chúa và là toà nhà của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 14-15. 20-21
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.
2) Tự cung lâu của Người, Người quan sát, hết thảy mọi người cư ngụ địa cầu. Người đã tạo thành tâm can họ hết thảy, Người quan tâm đến mọi việc làm của họ. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng tôi mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng tôi. Bởi vậy lòng chúng tôi hân hoan trong Chúa, chúng tôi tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.

* * *

Alleluia: 2 Tm 1, 10b
Alleluia, alleluia! - Ðấng Cứu Chuộc chúng ta là Ðức Giêsu Kitô, đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết, và chiếu soi sự sống. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 4, 38-44
"Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài. Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa". Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Ðức Kitô.
Ðến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến". Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay nói lên lòng thương xót của Ðức Giêsu với bà mẹ vợ của ông Simon và những người đau yếu khác. Tình thương bao la của Ðức Giêsu trải rộng tới hết mọi người, không phân biệt thân sơ, không phân biệt xa gần. Ðức Giêsu luôn tất bật với sứ vụ đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thời giờ của Ngài dành hoàn toàn cho Cha và cho con người. Một tình thương cho đi và cho đến tận cùng.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là mạc khải, là sự hiện diện của Thiên Chúa Cha ở giữa chúng con. Vì quá yêu thương chúng con, Chúa Cha đã sai Chúa đến với chúng con. Ðể qua Chúa, Chúa Cha tỏ lộ được tình yêu và chúng con cũng cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha đối với chúng con.
Lạy Cha, được Cha yêu thương, còn gì hạnh phúc, còn gì cao quý bằng! Xin cho chúng con cảm được niềm vui tràn đầy này, để cuộc đời chúng con luôn bình an, và chúng con lại tiếp tục trao ban tình yêu đến cho anh chị em chúng con. Xin vì Danh Ðức Giêsu Con Cha, cầu bầu cho chúng con. Amen.

 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)


Chữa Trị Bệnh Tật
(Lc 4, 38-44)
Suy Niệm:
Chữa Trị Bệnh Tật
"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ". Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta". Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Xin cho công trình giải phóng và cứu rỗi của Chúa được nhiều người quảng đại dấn thân tiếp tục. Xin cho đôi mắt đức tin chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa nơi những người đang cần được giúp đỡ.
(Veritas Asia)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ TƯ TUẦN XXII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: 1 Cor 3:1-9; Lk 4:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Lối sống theo Thánh Thần và lối sống theo xác thịt.
Kinh Thánh không chỉ dạy những gì cao siêu khó hiểu nhưng còn liên quan đến những sinh họat bình thường hằng ngày, không chỉ dạy những gì thuộc lãnh vực tinh thần mà còn cả những gì thuộc lãnh vực thể xác. Nói tóm, không có một vấn nạn nào liên quan tới con người mà không được đề cập đến. Bài đọc I nói về những tật xấu; trong khi Phúc Âm đề cao những tính tốt của con người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lối sống theo Thánh Thần và lối sống theo xác thịt.

Thánh Phaolô trong thư gởi Corintô phân biệt rõ ràng hai lối sống: lối sống theo Thánh Thần và lối sống theo xác thịt. Lối sống thứ nhất đẹp lòng Thiên Chúa, lối sống thứ hai cần phải sửa đổi để con người có thể ngày càng kiện toàn hơn. Bài đọc hôm nay đề cập nhiều đến lối sống theo xác thịt, ít nhất là 2 điểm chính:

(1) Ghen tương cãi cọ: Khi thấy người khác hơn mình hay khi người ta có được những cái mình không có, con người thường nói xấu để hạ bệ nhau hay tranh cãi để tố cáo nhau. Khi làm những điều này là con người đang để cho tính xác thịt chi phối làm chia rẽ gia đình và cộng đoàn. Bao lâu còn sống theo tính xác thịt, con người không thể tiếp thu những bài học để sống theo Thánh Thần. Thánh Phaolô chỉ cho thấy những điều này đang xảy ra giữa các tín hữu của ngài: “Thưa anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thánh Thần, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao?”

(2) Vây cánh kéo bè: Một khi không đạt được những ham muốn xác thịt trên bằng cố gắng cá nhân, con người có khuynh hướng chọn những người cùng ham muốn những điều đó về phe của mình, rồi cùng tìm cách làm sao để có thể đạt được những ham muốn thấp hèn đó. Một trong những thủ đọan là dồn phiếu bầu cho một người và người này sau khi đắc cử phải tìm cách để thỏa mãn những đòi hỏi của họ. Thánh Phaolô khiển trách: “Khi người này nói: "Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô," và người khác: "Tôi, tôi thuộc về ông Apollo," thì anh em chẳng là người phàm tục sao?” Nếu một cộng đòan bị tính xác thịt chi phối như thế, làm sao có thể tồn tại và làm những gì Thánh Thần muốn?

Thánh Phaolô chỉ cho họ một lối sống cao hơn theo Thánh Thần: Điều quan trọng nhất phải làm trong cuộc đời là làm sao cho mọi người có được niềm tin vào Thiên Chúa, và làm cho đức tin này ngày càng phát triển mạnh; chứ không phải sống để vơ vét cho mình những danh vọng, uy quyền, và các mối lợi vật chất. Mỗi người lãnh đạo hay rao giảng chỉ là khí cụ của Chúa dùng trong một thời gian hay một hòan cảnh nhất định để góp phần trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Người cần thiết nhất làm cho đức tin lớn mạnh là chính Thiên Chúa. Thay vì tập họp thành bè đảng để chọn người lãnh đạo làm theo ý riêng mình, họ phải để Thánh Thần hướng dẫn để lựa chọn những người có khả năng để hướng dẫn cộng đoàn, rồi chính họ cũng phải tích cực cộng tác với người lãnh đạo, trong sứ vụ rao truyền và củng cố đức tin cho Dân Chúa.

2/ Phúc Âm: Mọi người đều góp phần trong việc chữa lành những tật bệnh trong cuộc sống.

(1) Gương sáng của Chúa Giêsu: Ngài vất vả từ sáng đến tối để chữa lành cả phần hồn lẫn phần xác của mọi người. Vừa hoàn tất việc giảng dạy để mở mang kiến thức cần thiết cho cuộc sống phần hồn trong hội đường, Ngài về nhà Simon với mục đích để kiếm gì ăn và nghỉ ngơi phần xác; nhưng của ăn không thấy mà trước mắt bà nhạc của Simon và bao nhiêu người bệnh đang chờ để quấy rầy Ngài. Thay vì nổi nóng trước những điều trái ý, Ngài chữa bệnh cho Bà nhạc và tất cả mọi người. Và khi đám đông tìm Ngài và muốn giữ Ngài lại kẻo Ngài bỏ họ mà đi, Ngài nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó."

(2) Gương sáng của Bà nhạc mẫu của Simon: Chỉ với hai câu tường thuật ngắn ngủi đã dạy cho chúng ta bài học phải làm khi đã thọ ơn: “Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất. Tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.” Bà không nấu ăn cho Chúa, cho con và các môn đệ được là vì Bà đang bị sốt. Nhưng sau khi đã được Chúa chữa lành, Bà đã không nại lý do mới lành bệnh cần được nghỉ ngơi cho lại sức; nhưng lập tức chỗi dậy để phục vụ Chúa và các môn đệ. Bà là gương sáng cho mọi người noi theo vì tất cả mọi người đều có bổn phận phải đóng góp thì cuộc sống gia đình và cộng đoàn mới bình an ổn định được. Cuộc sống sẽ xáo trộn và thiệt thòi nếu Chúa Giêsu vừa lo giảng dạy, vừa chữa lành, vừa nấu ăn, vừa phục vụ!

(3) Gương sáng của mọi người: Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Dân chúng xin Ngài chữa bệnh cho Bà nhạc Simon, và lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Tuy không chữa bệnh được nhưng đám đông có công tìm thầy và mang những người bệnh tới cho Chúa để được chữa lành. Trong cuộc sống hằng ngày, con người cần có thái độ đoàn kết này để giúp nhau vượt qua những trở ngại. Đừng ích kỷ quay đi trước những đau khổ của tha nhân, vì “nay người mai ta.” Nếu mình quay đi trước những khổ đau của đồng loại, ai là người sẽ giúp mình trong những lúc mình phải đương đầu với đau khổ?

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta không những cần biết chế ngự các tật xấu mà còn phải phát huy những tính tốt trong đời sống hằng ngày.
- Nếu đã thọ ơn Chúa và thánh Phaolô trong việc nhận ra những giá trị tinh thần và được chữa lành, đừng ích kỷ quay đi, nhưng phải tiếp tục làm ơn cho người mình đã thọ ơn hay cho người khác.
- Đức tin phải là điều quan trọng nhất của chúng ta khi còn sống ở đời này. Đừng hy sinh đức tin cho những lợi lộc thấp hèn như danh vọng, uy quyền, những lợi lộc vật chất để kéo bè làm chết ngạt sự phát triển đức tin của mình cũng như của tha nhân.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Tư tuần 22 thường niên
Sứ điệp:Chúa Giêsu đã tỏ cho mọi người biết chính mình là ai khi chữa lành các bệnh tật và khử trừ ma quỷ. Ngài không cần ma quỷ tuyên xưng Ngài. Chính việc làm sẽ làm chứng cho Ngài.
Cầu nguyện:Lạy Chúa Giêsu, khi đọc Tin Mừng, con thấy các phép lạ Chúa làm được kể lại một cách rất bình thường, lời văn bình dị, đơn sơ, vắn gọn, khác xa với cách tường thuật về một sự kiện lạ lùng, ly kỳ như con thường đọc thấy.
Qua cách diễn tả đó, con nhận ra cách Chúa đang can thiệp vào cuộc sống của chúng con. Phép lạ Chúa làm không chú trọng vào kẻ kỳ dị bên ngoài, mà phép lạ chính là lúc Chúa đến tiếp xúc với con người và để cho con người tiếp xúc, gặp gỡ Chúa. Chúa đã cầm tay bà nhạc mẫu của thánh Phêrô để nâng đỡ bà dậy và bà đã khỏi sốt. Chúa đã gặp gỡ con người để đưa con người đến tình trạng tốt hơn. Phép lạ chính là việc Chúa làm để tác động lên đời sống thường nhật của chúng con.
Lạy Chúa, nhìn vào phương cách Chúa làm phép lạ, con nhận ra Chúa đã thực hiện bao nhiêu phép lạ trong cuộc sống con: những điều may lành con nhận được hằng ngày, các khó khăn nguy hiểm con đã vượt qua, những bất hoà trong gia đình được hàn gắn…, tất cả đều là sự can thiệp lạ lùng của Chúa: lạ lùng nhưng quá bình dị đơn sơ nên nhiều lúc con không nhận ra.
Chúa làm phép lạ không phải vì muốn được nổi danh nhưng chỉ vì thương xót chúng con. Điều Chúa muốn chính là cầm tay bà nhạc thánh Phêrô để bà được khỏi bệnh. Và bà đã chỗi dậy để tiếp đón, mời Chúa và các môn đệ dùng bữa ở nhà mình.
Trong cuộc sống của con, xin Chúa giúp con nhận ra những lần Chúa đến gặp gỡ con, nâng đỡ con, để con biết mau mắn chỗi dậy đón tiếp Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".

05/09/12 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 22 TN
Lc 4,38-44

THÁNH HOÁ BUỔI CHIỀU

Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. Quỷ cũng xuất ra nhiều người và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng không cho chúng nói vì chúng biết Người là Đấng Kitô. (Lc 4,40-41)

Suy niệm: Chiều nay mời bạn cùng tôi đi rảo qua làng xóm/ phố xá để xem và ghi nhận các sinh hoạt lúc mặt trời đã lặn: nào là làm tăng ca, học thêm, nào là các thứ vui chơi, giải trí, ăn nhậu, dạo phố, đi lễ...
Đó là những buổi chiều ngoài phố/trong làng hôm nay. Còn với Chúa Giê-su đó là những giờ phút hy sinh giờ nghỉ ngơi để chữa lành cho vô số các bệnh nhân đến xin Ngài cứu giúp. Phúc Âm nói rõ: Chúa“đặt tay trên từng bệnh nhân”, điều đó nói lên Ngài quan tâm chăm sóc đến từng người. Rồi khi đám đông đã xong việc ra về, Chúa Giê-su tìm nơi thanh vắng cầu nguyện gặp gỡ thân mặt với Chúa Cha.

Mời Bạn: Sau một ngày mệt nhọc nhiều người bị cám dỗ thư giãn qua những cách thức ích kỷ, không lành mạnh. Thế là một chút thời gian, một chút cơ hội để gia đình đoàn tụ gắn kết yêu thương cũng thành ra mây khói. Mời bạn tìm cách thánh hoá những buổi chiều của gia đình bạn để tăng thêm sức khỏe, tình thương, trách nhiệm gia đình, thêm giờ cầu nguyện.

Chia sẻ: Cách thức tôi sống buổi chiều hiện nay có đúng ý muốn của Chúa không? Cần thay đổi thế nào?

Sống Lời Chúa: Tổ chức gia đình thế nào để thánh hóa buổi chiều trong tâm tình tạ ơn và đoàn tụ gia đình thật sự.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con noi gương Chúa, quên mình hy sinh phục vụ vì hạnh phúc anh em.




PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi, là những điều có thể giữ chân người tông đồ. 

Suy nim:
Sáng ngày sabát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum.
Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực.
Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37).
Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn.
Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ.
Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này.
Ngài đã lại gần và cúi xuống trên bà.
Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39).
Lập tức cơn sốt phải rút lui.
Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài.
Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh.
Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người,
làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do.
Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc.
Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sabát là ngày lễ nghỉ,
người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh.
Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40).
Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác.
Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ.
Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ.
Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, để xa đám đông, để gặp gỡ Cha,
Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến.
Đức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông,
Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng.
Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh.
Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42).
Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi,
là những điều có thể giữ chân người tông đồ.
Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài,
Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai.
Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới.
Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở.
Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày.
Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê.
“Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa
cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43).
Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ.
Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành…
Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới.
Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến.
Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt.
Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


"Ta còn phải rao giảng Tin Mừng cho các thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến".
 Mến Chúa Và Yêu Người
Năm 1990, trong chuyến viếng thăm Phi Châu, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến Gia Mô Su Cô, thủ đô nước Qua Tê Ðô Bu A để kính viếng Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình do tổng thống nước này cho xây cất và dâng tặng cho Tòa Thánh.
Ðược mô phỏng từ Vương Cung Thánh Ðường ở Rôma, ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa đến tám ngàn chỗ ngồi và mười ngàn chỗ đứng. Người ta không biết rõ kinh phí xây cất ngôi thánh đường này là bao nhiêu, nhưng tổng thống Kufues cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ. Vào giữa lúc dân chúng Qua Tê Ðô Bu A vẫn còn sống trong nghèo nàn lạc hậu, nhiều người đã có lý để chất vấn ông Kufues tại sao không dùng số tiền kếch sù ấy để xây cất trường học và đẩy mạnh công cuộc phát triển có lợi cho dân nghèo. Ðây cũng chính là điều kiện để Tòa Thánh đón nhận món quà của tổng thống nước này.
Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.
Rao giảng Tin Mừng không chỉ có nghĩa là công bố những chân lý liên quan đến phần rỗi linh hồn, sống đạo không chỉ có nghĩa là xây cất nhà thờ và chu toàn những việc đạo đức đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ. Góp phần phát triển xã hội, tranh đấu cho công bình, nỗ lực mang lại no cơm ấm áo và xoa dịu bao vết thương đau của con người, đó cũng là thành phần thiết yếu của công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Giáo Hội trong thế giới ngày nay như hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng khẳng định không thể xa lạ hay làm ngơ trước những vui mừng và hy vọng, đau thương và sầu khổ của con người thời đại, và những vấn đề sống còn của con người. Giáo Hội hành động như thế là vì tính cách toàn diện của ơn cứu rỗi. Thiên Chúa không chỉ cứu rỗi phần linh hồn mà cả con người với hồn lẫn xác. Giáo Hội loan báo ơn cứu rỗi toàn diện như thế là bởi vì chính Chúa Giêsu đã loan báo và thực hiện một ơn cứu rỗi như thế. Ngài không chỉ rao giảng và hứa hẹn một Nước Trời hoàn toàn xa lạ với những thực tại trần thế. Nước Trời mà Ngài rao giảng đến ngay trong những thực tại trần thế và trong cuộc sống cụ thể của con người. Ngài không chỉ tha tội trừ quỉ, chữa phần linh hồn mà còn dâng bánh và cá cho nhiều người được ăn no nê, cũng như chữa lành mọi thứ tật bệnh của con người.
Cử chỉ của Chúa Giêsu đối với nhạc mẫu của thánh Phêrô và việc Ngài đặt tay chữa những người bệnh tật ốm đau được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của một tình yêu được trải rộng đến mọi người, từng người, từng nhu cầu của con người mà Chúa Giêsu muốn Giáo Hội tiếp tục trong thế giới ngày nay. Cần có nhà thờ để qui tụ lại, tôn vinh Thiên Chúa và thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của con người, nhưng càng cần có nhà thương và trường học để phục vụ con người hơn. Gặp gỡ Thiên Chúa trong nhà thờ đã đành, nhưng gặp gỡ Ngài trong tha nhân và cuộc sống hàng ngày mới thiết thực hơn. Có những giây phút tĩnh lặng để cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để được tỉnh thức hơn hầu gặp gỡ, yêu thương và phục vụ người anh em trong cuộc sống hàng ngày. Con đường nào cũng phải dẫn tới nhà thờ nhưng nhà thờ nào cũng có lối thông với cuộc đời. Người tín hữu Kitô gặp gỡ Chúa để múc lấy sức sống và trở lại cuộc sống hàng ngày hầu gặp gỡ và yêu thương người anh em của mình nhiều hơn.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thống nhất hai giới răn mến Chúa và yêu người và ý thức rằng cốt lõi của Ðạo là Tình Yêu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tin mng cho toàn thế gii
Sáng ngày, Người đi ra mt nơi hoang vng. Đám đông tìm Người, đến tn nơi Người đã đến, và mun gi Người li, ko Ngài b h mà đi. Nhưng Người nói vi h: “Tôi còn phi loan báo Tin Mng cho thành khác na, vì tôi được sai đi ct đ làm, vic đó.” (Lc. 4, 42-43)
Đc Kitô đã nói:” Tôi còn phi loan báo Tin Mng nước Thiên Chúa cho các nơi khác na, vì tôi được sai đi ct đ làm vic đó”. Người không ch đến mt thành, là Ca-pha-na-um, hay nhng vùng lân cn đó, nhưng đến tn cùng thế gii.Cha nhng bà m v và còn bao nhiêu bà khác na!Cha nhng người b qu ám và còn phi đui bao nhiêu thn ô uế khác na!
Đng nên bóp nght Người vào mt ch: đng nên đc quyn nm gi s đip nước tri cho riêng mình. Cn phi loan truyn Tin Mng cho khp mi nơi như Người đã mun, như chính Người đã làm. Chúng ta không th là nhng người s hu đc nht và đc quyn khai thác Tin Mng. Hiến chế v Giáo Hi ca công đng Va-ti-can II nói vi chúng ta: “ Mi môn đ ca Chúa Kitô, tùy theo đa v ca mình, đu phi làm tròn trách nhim gieo ht ging đc tin”. (s 17). Phép ra ti làm cho chúng ta tr nên nhng nhà truyn giáo. Chúng ta không ch là Kitô hu cho nơi ca mình. V phn chúng ta phi mang Tin Mng đi khp mi nơi chúng ta đến.
Giáo Hi phát trin nh nhng cuc bách hi thi sơ khai thúc đy các môn đ Chúa Kitô đi lp cơ s mi ra khi thế gii Do-thái. Nhng bt mãn hin thi ca nhiu nhóm công giáo lâu đi buc chúng ta phi ci m ra thế gii khác chúng ta, h khao khát Thiên Chúa, có sc thm nhun và thăng tiến li Chúa mnh m. Xưa, Đc Giêsu đã truyn lnh cho các tông đ: “ Nếu h t chi các con, thì các con hãy đi sang làng khác”. Thiên Chúa không còn áp đt. Con Chúa cũng vy. Sut dòng lich s Giáo Hi, chúng ta đã quên điu đó. Công đng Va-ti-can II đã nhc nh chúng ta trong mt tuyên ngôn cách mng v t do tôn giáo.
Tht chính đáng khi nhn biết rng: tt cơn Chúa, tt c là s quan phòng ca Chúa, tt c qui hướng v vinh quang cao c ca Chúa. Nhng người b b rơi đã được Chúa chn, khiến chúng ta phi hiu ơn gi ca người Kitô chúng ta là: Hãy đi đến vi mi người không tr ai, vì không có mt người nào mà Chúa không ghé mt đoái nhìn. Còn chúng ta, phi nói gì vi h.
GF
www.gplongxuyen.net


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 9
5 THÁNG CHÍN
Chúng Ta Sẽ Đáp Lại Tiếng Gọi Của Thiên Chúa
Trong sâu thẳm trái tim con người, ơn gọi mặc lấy hình thức một cuộc đối thoại. Đó là cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và cá nhân mỗi người, trong đó một lời mời gọi riêng tư được nói lên. Đức Kitô gọi đích danh mỗi người, Ngài nói: “Hãy theo Ta”. Lời mời gọi này – được Đức Kitô nói lên cách nhiệm mầu bên trong nội tâm con người – sẽ được chúng ta nhận ra rõ ràng nhất trong bầu khí thinh lặng cầu nguyện. Việc đón nhận tiếng gọi này là một hành vi của đức tin.
Tiếng gọi vừa là dấu hiệu của tình yêu vừa là lời kêu gọi yêu thương. Trong trình thuật Tin Mừng về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với người thanh niên giàu có, Mác-cô kể rằng Đức Giêsu trìu mến nhìn anh ta khi Người thách đố anh ta bán mọi sự và đi theo Người (cf. Mc 10,21). Tiếng gọi của Chúa luôn đòi hỏi một sự chọn lựa, một quyết định hoàn toàn tự do về phía chúng ta.
Quyết định thưa “Vâng” trước lời mời gọi của Đức Kitô sẽ kéo theo với nó rất nhiều hệ quả quan trọng. Chúng ta phải từ bỏ những mối ưu tiên khác. Chúng ta phải sẵn sàng bỏ những người thân yêu của mình lại sau lưng. Chúng ta phải bắt đầu tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa bằng cách sống gần gũi hơn với Đức Kitô.
Lời đáp trả trong tình yêu này đối với tiếng gọi được diễn tả rất rõ ràng bởi tác giả Thánh Vịnh :
“Con thưa cùng Chúa: ‘Ngài là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc? …
Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ …
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài hoan lạc chẳng hề vơi!” Tv 16,2.5.11)
Ân huệ này yêu cầu sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta phải nỗ lực nhận hiểu mầu nhiệm vốn vượt quá mọi sự hiểu biết song đã được Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Chúng ta có sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Ngài?
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05-9
1 Cr 3, 1-9; Lc 4, 38-44.
LỜI SUY NIỆM: Sáng ngày, Người đi ra nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” (Lc 4, 42-43).
          Đầu mỗi ngày chúng ta phải học nơi Chúa Giêsu là phải tận dụng những thời gian thinh lặng, để cầu nguyện và dâng ngày cho Chúa, những giây phút tuy ngắn ngủi này nhưng hiệu quả của nó thật lớn lao, sẽ giúp cho chúng ta liên kết mọi việc làm và mọi suy nghĩ trong ngày với Chúa. Nó cũng giống như một loại thuốc khử trừ chất độc, giúp cho chúng ta chống lại những cám dỗ trong ngày. Chính nhờ gắn bó trong cầu nguyện với Chúa mà đời chứng nhân của chúng ta sẽ làm cho thiên hạ nhận ra Nước Thiên Chúa.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
05 Tháng Chín
Bỏ Mọi Sự Ðể Theo Chúa
"Bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa", lời kêu gọi này của Chúa Giêsu có thể thực hiện được trong xã hội dư dật ngày nay không? Như một dụ ngôn trong Phúc Âm, chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của tiến sĩ Marcello Candia, người đã dâng cúng tất cả tài sản để xây dựng một bệnh viện giữa khu rừng già Amazone bên Ba Tây và sinh sống tại đó như một người dân nghèo.
"Khi còn ở bậc trung học, tôi là thành phần của một nhóm trẻ sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của một cha dòng Phanxico. Chúng tôi thường đi thăm các gia đình nghèo tại ngoại ô Milano... Sự chú ý đến người nghèo đã làm nảy sinh ước muốn truyền giáo nơi tôi.
Một hôm thầy Cêciliô, người coi cổng nhà dòng đã nhờ tôi phát thức ăn cho người nghèo... Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo một tấm hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng đã chết vì bệnh cùi sau một thời gian phục vụ người thổ dân tại một miền ở Ba Tây... Mỗi lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đầy đau khổ của ngài. Dần dà, hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy... Từ đó, ước muốn phục vụ những người cùi đã nảy sinh trong tôi".
Sau khi tốt nghiệp đại học, Macello đã được cha gửi đi công cán tại nhiều nước nghèo trên thế giới. Trong dịp ghé thăm một vùng nghèo tại Amazone bên Ba Tây, Macello đã trở về với quyết định bán hết tất cả tài sản và rút về đây để phục vụ người nghèo. Với tài sản do gia đình để lại, Macello đã xây cất một bệnh viện với 120 giường và được trang bị với đầy đủ dụng cụ của một trung tâm y tế đa khoa.
Macello đã giải thích về việc làm của mình như sau: "Người ta nói với tôi rằng tốt hơn hãy giúp những người nghèo ở xứ sở của mình trước đã. Tôi xin trả lời rằng điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết làm một chút gì cho những người đang đau khổ, bất cứ họ đang ở đâu... Niềm vui lớn nhất của tôi là thấy nhiều người, thụ động và cam chịu số phận, đã biết cởi mở".
Sự trưởng thành của Giáo Hội được thể hiện qua ý thức mỗi lúc một sâu sắc của người giáo dân về vai trò của mình. Ðã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng Giáo Hội là chuyện của các giám mục, linh mục. Ðã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng nên thánh là chuyện của vị giáo hoàng, các giám mục, linh mục và tu sĩ... Không ai chiếm giữ độc quyền để nên thánh một mình. Nên thánh là ơn gọi chung cho tất cả mọi người đã chịu Phép Rửa... Do đó, tất cả những lời khuyên trong Phúc Âm đều có giá trị cho tất cả mọi người theo Chúa Kitô. "Hãy về bán hết mọi sự, phân phát cho người nghèo khó và trở lại với Ta". Mệnh lệnh này không chỉ ngỏ với một số thành phần ưu tuyển trong dân Chúa, nhưng là lệnh truyền cho tất cả mọi người.
Chúng ta không được sống trong một xã hộ dư dật. Nghèo đói là một sự dữ mà Thiên Chúa không bao giờ muốn cho con người rơi vào. Tuy nhiên, bên cạnh sự nghèo đói cơm bánh, còn có một sự nghèo đói còn đáng khiếp sợ hơn, đó là: nghèo đói tình thương... Có biết bao người đang chờ một ít cơm thừa cá cặn từ bàn ăn của chúng ta? Có biết bao nhiêu người đang mong mỏi một nghĩa cử yêu thương của chúng ta?
Thế giới cần được biến đổi không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng bằng chính tình thương mà con người biết san sẻ với nhau. Sự san sẻ đó là: dù sống trong xã hội nào, dù trải qua hoàn cảnh nào, mọi người Kitô chúng ta đều có thể và phải làm được. Và đó cũng là bí quyết duy nhất để giúp chúng ta nên thánh.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++



Ngày 05
Nữ chân phước Têrêsa Calcutta


Người nghèo khát nước nhưng họ cũng khát  sự thật và chân lý. Người nghèo thì trần trụi, họ cần quần áo, nhân phẩm và sự đồng cảm đối với tội nhân.
Người nghèo vô gia cư thì cần nơi trú ẩn bằng một mái ấm, với trái tim vui tươi, họ cần được đồng cảm, hiệp thông và yêu thương. Khi họ bệnh, họ cần được chăm sóc y tế, nhưng cũng cần một bàn tay giúp đỡ với nụ cười tiếp đón.
Những con người bị loại trừ, bị từ chối, họ không được yêu thương. Những người nghiện rượu, người hấp hối, những người đang cô đơn và bị bỏ rơi hoàn toàn, những người sống bên lề xã hội, các tiện dân, và phong cùi; tất cả những người đó đang trở thành gánh nặng cho xã hội, họ đã đánh mất sự hy vọng và niềm tin trong cuộc sống, họ đã quên bẳng nụ cười, họ không hề biết để nhận ra một chút ấm áp tình người, một cử chỉ của tình yêu và tình bạn, họ tự xoay sở đến với chúng ta để mong nhận được sự thoải mái. Nếu chúng ta quay lưng với họ, là chúng ta đang quay lưng với Chúa Ki tô!
Chân phước Têrêsa Calcutta


Giuse Hoàng Lương Cảnh (1763-1838)
Giuse Hoàng Lương Cảnh

Giuse Hoàng Lương Cảnh, Sinh năm 1763 tại Làng Ván, Bắc Giang, Giáo dân dòng ba Ða Minh, Trùm Họ, Y Sĩ, xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng. Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn cụ Trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh lên bậc Chân Phước của Giáo Hội. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 5/09.
Lời kinh thắp sáng cuộc đời.
Đã là Kitô hữu thì ai cũng từng thuộc và đọc một số kinh để cầu nguyện. Thế nhưng số người sống theo lời kinh mình đọc không phải là nhiều. Đối với cụ lang Giuse Cảnh, thì lời kinh chính là hơi thở của cuộc đời mình. lời kinh là nến sáng soi dẫn hành trình dương gian tiến về nước Chúa. Đọc truyện tử đạo của cụ, ta thấy rất rõ điều đó.
Giuse Hoàng Lương Cảnh sinh ra dưới thời chúa Trịnh Doanh năm 1763 tại làng Ván, tỉnh Bắc Giang. Sống ở làng Thổ Hà, huyện Yên Việt, ông được mọi người quý mến, nổi tiếng hiền lành và bác ái. Là một lang y, ông tận tụy với các bệnh nhân, thường chữa trị miễn phí cho người nghèo. Tuy không đi tu, nhưng trọn ngày sống của ông được dệt bằng kinh nguyện và các việc tông đồ. Ông đã rửa tội nhiều người trong giờ hấp hối, đặc biệt cho trẻ em. Giáo dân Thổ Hà tín nhiệm và bầu ông làm Trùm họ. Từ đó, ông càng hăng say hơn với việc truyền giáo và phục vụ cộng đoàn dân Chúa.
Đầu tháng 07 năm 1838, đang khi quân lính bao vây bắt các giáo hữu làng Thổ Hà, có người mời ông đến chữa bệnh và rửa tội cho con họ. Dù biệt nguy hiểm, ông Trùm vẫn tìm cách lén đi giúp đỡ, nhưng khi đến bên đó, quân lính phát giác ra, bắt ông đeo gông và giải về Bắc Ninh với cha Tự, Thày Uy, ba ông Trùm xứ khác và một số giáo dân.
Sức mạnh của lời kinh
Ngày 12.7 quan đưa tất cả ra tòa, để dọa và bắt họ bước qua Thánh Giá. Ba ông Trùm kia và một giáo dân nhát gan đã nghe lời để được tha về. Chỉ còn bảy người tuyên xưng niềm tin là cha Tự, cụ lang Cảnh, hai thày Úy và Mậu, cùng ba thanh niên Mới, Đệ, Vinh. Xét rằng cụ Giuse ở chức vụ Trùm họ lại cao niên, nên có ảnh hưởng lớn đến giáo dân, quan kết án xử tử cụ như cha Tự, còn năm người kia chị bị án phát lưu.
Dù tuổi già sức yếu, cụ lang Cảnh vẫn giữ lòng trung kiên, vui lòng chấp nhận mọi hình khổ, không than van, không oán trách. Những lần quan bắt bước qua Thánh Giá cụ quỳ xuống hôn tượng Chịu Nạn và thầm thĩ đọc kinh. Thấy thế, quan bảo cụ đọcto lên, cụ liền đọc lớn tiếng những lời kinh nguyện cầu thay cho những lời giải thích lý luận. Khi thấy cụ đọc kinh Chúa Thánh Thần : "… Xin yên ủi chúng con, dạy dỗ chúng con làm những việc lành…" Khi thì đọc kinh Thánh Danh Giêsu: "Chúa Giêsu là đường nẻo thật, ai theo đường này thì sẽ sống mãi vui vẻ chẳng cùng..." Đặc biệt có lần cụ đọc một lời kinh làm cho các quan ngạc nhiên phá lên cười : "Cầu Chúa Giêsu cho các vua trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh". Họ hỏi sao cụ lại cầu cho kẻ hành hạ mình như thế. Cụ bình tĩnh trả lời các quan về giới luật yêu thương của đạo Chúa.
Một lần khác quan hỏi ý kiến cụ về những kẻ bỏ đạo hoặc tố cáo linh mục, cụ chậm rãi kể tích truyện Giuđa phản thày vì 30 đồng bạc, rồi cụ thêm: "Thực ra lính cũng chẳng bắt được Chúa Giêsu, vì khi Chúa nói chính Ta đây, toán lính Do Thái bị té ngã xuống hết, chính Chúa đưa tay cho họ trói để hoàn tất việc chuộc tội thiên hạ, trong đó có cả các quan nữa đấy".
Vinh phúc nghìn thu.
Quan tỉnh Bắc Ninh tội nghiệp người già yếu, nên tìm hết cách khuyên dụ cụ bỏ đạo về với con cháu. Nhưng cụ trả lời : "Xin quan cứ làm án cho tôi được chết với cha Tự của tôi, thì tôi mừng rỡ bội phần". Ngày 15.9.1838, tỉnh Bắc Ninh nhận được bản án từ kinh đô ra. Thay vì án xử giảo như các quan đề nghị, bản án quyết định : "Đạo trưởng Nguyễn văn Tự và Đạo mục Hoàng Lương Cảnh phải trảm quyết ngay tức khắc".
Khi biết tin sắp bị xử tử, vị linh mục và cụ trùm họ liền vui vẻ chào giã biệt các bạn tù. Viên cai ngục kêu riêng cụ Cảnh ra, có ý cho uống chén nước trà để lấy sức, cụ đáp : "Xin cám ơn, tôi chẳng thiết ăn uống gì nữa, chỉ mong theo cha tôi ra pháp trường thôi". Thấy cha Tự mặc bộ tu phục trắng toát trên mình, cụ cũng khóac tấm áo dòng ba, như biểu hiện nỗi lòng người con Cha Thánh Đaminh. Cụ nâng niu trên tay ảnh Chuộc Tội nhỏ mà trong hai tháng tù vừa qua cụ đã hôn kính cả nghìn lần, giờ đây là nguồn trợ lực qúy giá của cụ trong cơn thử thách cuối cùng.
Đường ra pháp trường nô nức như ngày hội. Cha Tự thong thả vừa đi vừa xướng kinh Cầu Các Thánh, cụ Lang Cảnh bước đi vất vả hơn vì yếu sức, nhưng vẫn đều đặn thưa đáp : "Cầu cho chúng tôi". Hai vị như thấy lòng mình ấm lại vì như thấy tòan thể chư thánh đều hiện diện đâu đây sẵn sàng đón mình về Trời cao. Đến nơi xử, vị chứng nhân đức tin và cha Tự qùy xuống trên hai chiếc chiếu nhỏ. Lý hình theo lệnh trống thi hành phận sự, đưa cụ về hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Hôm đó là ngày 05.9.1838, cụ Trùm Cảnh đã quá thất tuần, 75 tuổi.
Thi hài cụ Giuse Cảnh được chôn táng dưới một ngọn đồi gần đấy. Sau giáo dân làng Thổ Hà rước về họ mình.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn cụ Trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh lên bậc Chân Phước của Giáo Hội. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh 

 

Trường thi tử Đạo.

Trùm họ Giuse Hoàng Lương Cảnh
Sinh Quý Mùi (1763) quê tỉnh Bắc Giang
Lương y chữa bệnh đảm đang
Bệnh nhân tận tụy thuốc thang dân nghèo

Là tín hữu luôn theo truyền giáo
Luôn hăng say, loan báo Tin mừng
Những người hấp hối bất ưng
Cụ xin rửa tội, cho từng bệnh nhân

Giáo dân Thổ Hạ cần Trùm họ
Tín nhiệm cụ Cảnh, họ đã bầu
Ngày đêm chẳng ngại nơi đâu
Thuốc thang rửa tội, ngõ hầu mời đi

Dù cụ biết hiểm nguy tìm cách
Ðến bến đò, lính ách lại ngay
Tra gông vào cổ trói tay
Giải về thị xã vùng này Bắc Ninh

Quan Tổng Ðốc khi tình khi lý
Bắt chứng nhân, theo ý của quan
Lệnh buộc xuất giáo phải làm
Nếu không sẽ phải, theo đàng khổ đau

Ðến cụ Cảnh tới sau thúc bước
Cụ quỳ ngay để được nguyện cầu
Quan tưởng cụ nói gì đâu
Liền la nói lớn, ngõ hầu ta nghe

Cụ Trùm Cảnh tăng bè lớn tiếng
Lời kinh cầu, chết điếng tai quan
Cho lính vào kéo lão can
Cụ Trùm thừa thắng, kéo tràn cung mây

Quan chọc cụ, ngất ngây cười nhạo
Sao lại cầu kẻ tạo khổ đau
Giêsu Thiên Chúa nhiệm mầu
Thứ tha, tha thứ phải cầu cho nhau

Truyện Giuđa trước sau phản bội
Nhưng phải cần thống hối ăn năn
Mười điều Chúa đã khuyên răn
Nếu ai giữ trọn, khó khăn xá gì

Tin vào Chúa, Ngài thì chúc phúc
Yêu thương nhau trong lúc thế trần
Ðệ huynh như thể tay chân
Sống đời đạo đức, trọn phần thiết tha

Cụ Trùm Cảnh dẫn ra để xử
Ðến pháp trường cụ cứ nguyện cầu
Lý hình gươm giáo đi đầu
Quỳ trên chiếu nhỏ, ngõ hầu chém ngay

Thi hài chôn nơi này ngọn núi
Một thời gian rời núi rước về
Nơi làng Thổ Hạ thôn quê
Xác chôn dưới đất, hồn về Thiên cung

Phúc tử đạo anh hùng Mậu Tuất (1838)
Tuổi già nua trên thất thập tuần
Canh Tý (1900) Nước Chúa lãnh phần
Suy tôn Á thánh từ nhân cứu người

Lời bất hủ: Quan hỏi về những kẻ bỏ đạo hoặc tố cáo các linh mục, cụ liền chậm rãi kể tích truyện Giuđa phản bội Thầy mình vì 30 đồng bạc rồi cụ thêm: "Thực ra lính cũng chẳng bắt được Chúa Giêsu, vì khi Chúa nói chính Ta đây, toán lính Do thái bị té ngã xuống đất hết, chính Chúa đưa tay cho họ trói, để hoàn tất việc chuộc tội thiên hạ, trong đó có cả các quan nữa đấy". Có lần cụ Trùm đọc kinh cho quan nghe như sau: "Cầu Chúa Giêsu cho các vua trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh", các quan cười phá lên và hỏi sao lại cầu cho kẻ hành hạ mình, cụ bình tĩnh trả lời: "cầu cho các quan vì giới luật yêu thương của đạo Chúa dạy..". Quan khuyên cụ bỏ đạo, cụ trả lời: "Xin quan cứ làm án cho tôi được chết với cha Tự của tôi, thì tôi mừng rỡ bội phần". Khi nhận được bản án bị xử tử cụ Cảnh đáp: "Xin cảm ơn, tôi chẳng thiết gì ăn uống chi hết, chỉ mong theo cha tôi ra pháp trường thôi".

Phêrô Nguyễn Văn Tự (1796-1838)
Phê-rô Nguyễn văn Tự

Phêrô Nguyễn Văn Tự, Sinh năm 1796 tại Ninh Cường, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, linh mục dòng Thuyết Giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 5/09.
Cha dưới đất, Cha trên trời
"Thưa quan tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như Trung Phụ, và kính Song Thân như Hạ Phụ. Không thể nghe lời cha ruột để hại vua, tôi không vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được".
Vị tử đạo đã có những lời phân tích mạch lạc quan niệm về trung hiếu của các giáo hữu Việt Nam như trên là một linh mục dòng Thuyết Giáo : cha Phêrô Nguyễn Văn Tự.
Bị bắt vì sứ vụ
Sinh quán tại Ninh Cường, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định năm 1796. Cậu Phêrô Tự đã dâng mình cho Chúa từ niên thiếu. Năm 1826, thày thụ phong linh mục, sau đó xin vào dòng Đaminh và được cha chính Amandi Chiêu nhận lời khấn ngày 04.01.1827. Suốt 12 năm đời linh mục, cha Phêrô là một tu sĩ gương mẫu và là cha truyền giáo nhiệt thành. Hồ sơ phong thánh ghi nhận cha luôn tận tụy với công việc, không quản ngại khó khăn, luôn đối xử hòa nhã và rất mực yêu thương mọi người.
Năm 1838, cha Tự được cử phụ trách xứ Đức Trai còn gọi là Kẻ Mốt, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Lúc này cuộc bách hại của vua Minh Mạng khá gay cấn, nên cha phải thi hành tác vụ của mình lén lút. Một thân hào tên Quang đã cho cha đến trú ẩn tại vườn nhà ông. Mỗi sáng cha dâng lễ ngay trong vườn đó. Ngày 29.06, khi quân lính kéo đến bào vây làng Kẻ Mốt để bắt cha Tự, thì ngài được anh em tín hữu đưa lánh qua làng bên. Nhưng quân lính sau khi lục soát, tìm thấy áo lễ và chén lễ của cha, đến lượt ông lang Ninh mới bị dọa đánh đã khai ra chỗ cha đang ẩn trốn. Cùng bị bắt với cha Tự có thày giảng Đaminh Úy, dòng ba Đaminh, 26 tuổi, một trợ tác đắc lực của ngài.
Khi bị giải về huyện Lương Tài, quan huyện ngỏ ý đòi vị linh mục nộp tiền chuộc, nhưng cha bình tĩnh trả lời : "Đối với tôi, bị bắt vì đạo là một hồng ân Chúa ban, tiền bạc thì tôi không có, còn phiền giáo hữu thì tôi không muốn chút nào". Đến ngày 03.07, sau khi bắt thêm được bốn ông Trùm ở bốn giáo xứ và một giáo hữu trong vùng, quan cho áp giải tất cả về Ninh Thái (Thị xã Bắc Ninh ngày nay).
Sáng hôm sau, quan cho gọi cha Phêrô ra hỏi. Ông lịch sự cho mời cha vào nhà, cho ngồi chiếu tử tế, rồi với giọng ngọt ngào, quan yêu cầu cha khai tên các giáo sĩ giáo phận. Cũng bằng giọng điệu lịch sự không kém, cha thong thả kể tên hai Đức cha và sáu linh mục, những người đã bị bắt rồi, thế cũng đủ làm viên quan gật gù ra vẻ đắc ý lắm. Một tuần sau, phải lại cho mời cha đến và yêu cầu cha cắt nghĩa về các đồ thờ, áo lễ, chén lễ của cha mà họ tịch thu. Cha được dịp giảng đạo lý Công Giáo cho các quan nghe, bác bỏ những tin đồn bịa đặt về đạo, về các nghi lễ, cũng như về các giáo hữu.
Phong thái vị thủ lãnh.
Trong thời gian bị giam tại huyện, bất ngờ cha Tự thấy trong sổ sách của mình bị tịch thu, có cuốn sổ ghi tên tất cả các giáo hữu ở Kẻ Mốt, ngài liền tìm cách để hủy nó đi, nhưng làm sao bây giờ ? Vì quân lính canh gác kỹ quá. Cha liền bày kế xin họ một cái chiếu, lấy cớ đắp cho đỡ muỗi, rồi nằm trong chiếu, cha nhẩn nha nhai và nuốt cuốn sổ ấy. Dĩ nhiên "món ăn" này không hợp khẩu vị chút nào, nên mơi ăn được hai phần, cha đã thấy rát cả cổ, không thể nuốt nổi nữa, thế là cha đành nhai cho nát rồi ném dưới gầm phản.
Điều làm cha đau lòng nhất là thấy nhiều người bị bắt với cha đã đạp Thánh Giá để được về. Cha không ngưng nhắc nhở lời Chúa xưa : "Ai chối Thày trước mặt người đời, Thày sẽ chối kẻ ấy trước mặt Cha Thày, Đấng ngự trên trời" (Mt. 10,33). Cha nói tiếp : "Trời đất qua đi, nhưng lời Chúa chẳng qua" (Mt. 5,18), "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa ngã trước thử thách" (Mt. 26,41)… Nhưng cha vẫn được an ủi vì sự kiên trung của hai thày giảng Phanxicô Mậu, Đaminh Úy và bốn giáo dân Giuse Cảnh, Tôma Đệ, Agustinô Mới và Stêphanô Vinh. Tất cả đều là hội viên dòng Ba Đaminh, sau này được phúc tử đạo (19.12.1839).
Ngày 27.7.18, Tổng đốc Bắc Ninh đệ án về triều đình xin xử gảo cha Phêrô và ông Trùm Cảnh, còn năm người kia, đánh mỗi người 100 roi, rồi phát lưu họ vào Bình Định. Nhưng vua phúc đáp yêu cầu cho tra hỏi lại, nếu bỏ đạo thì ân xá, nếu cố chấp thì xử chém hai vị trên và xử giảo hai vị còn lại.
Ngày 09.8 quan đòi bẩy vị ra tòa. Khi thì dọa dẫm, khi thì ngọt ngào, quan dụ dỗ các vị đạp lên Thánh Giá. Trước hết, quan lịch sự mời cha Tự làm gương. Ông nói thực tình muốn tha cho cha. Nhưng cũng bằng lời nói khiêm tốn tinh tế, vị linh mục nói với ông về Thượng Phụ, Trung Phụ và Hạ Phụ, cũng như trật tự kính trọng đối với ba vị đó của mình. cha tiếp : "Người tướng cầm quân đánh giặc, dù binh lính mình chạy hết, tướng cũng không được phép hàng giặc. Tôi là linh mục, dù giáo dân bị tan tác, vẫn phải một lòng trung thành với Thiên Chúa". Sau lời khẳng khái của cha, quan biết nói thêm cũng vô ích, nên ra lệnh giam cha vào ngục.
Áo trắng lòng son
Biết ngày xử án sắp tới, cha Tự nhờ một giáo hữu mời linh mục Phương xứ Kẻ Roi đến giải tội. Từ hôm đó, cha tỏ ra vui vẻ khác thường, mong chờ ngày hạnh phúc. Sáng ngày 05.9, bản án về tới Bắc Ninh, cha và ông Trùm Giuse Cảnh bị điệu đi xử. Hai vị cười cười nói nói, tạm biệt các đồng bạn. Cha lấy tu phục ra mặc, cụ Cảnh cũng khoác tấm áo dòng ba. Thấy cha rạng rỡ trong bộ áo trắng, quan thắc mắc về ý nghĩa bộ áo, cha giải thích : "Đây là áo dòng tu lớn trong Giáo Hội mà tôi hân hạnh là phần tử. Mầu trắng tiêu biểu cho đức khiết tịnh mà tôi hết lòng gìn giữ…"
Rồi cầm lấy Tượng Chịu Nạn, cha nói tiếp : "Đây là chúa cứu thế, đã chịu đóng đinh vì tội thiên hạ. Xin quan cho phép tôi được mang áo dòng và cầm Thánh Giá này khi đi xử".
Quan không nói gì cả, hiểu ngầm là đồng ý. Bấy giờ dân chúng hiếu kỳ chen lẫn nhau ùa đến xem, cha xin phép quan nnói đôi lời. Thế là trong gần một giờ đồng hồ, cha giảng về Chúa Giêsu, và ơn cứu độ, về mọi người là anh em con cùng một Cha trên Trời.
Trên đường ra pháp trường, lính xếp hàng đi hai bên, cha Tự và cụ Cảnh đi ở giữa, vừa đi vừa sốt sắng đọc kinh Cầu Các Thánh. Pháp trường là một ngọn đồi nhỏ, ở ngoài thành Kinh Bắc. Đến nơi, hai vị quỳ xuống hai chiếu đã trải sẵn. Theo tiếng trống lệnh, lý hình thi hành phận sự, chém rồi tung đầu hai vị lên cho mọi người trông thấy. Tức thì nhiều người, trong đạo cũng như ngoại đạo, xô nhau chạy vào để thấm máu các ngài. Một người về sau chuộc được ảnh Thánh Giá của cha, trao lại cho dòng Đaminh. Trong hồ sơ phong thánh, người ta thuật lại nhiều ơn lạ Chúa đã thực hiện nhờ các di tích này.
Vị chứng nhân áo trắng đã về trời với tấm lòng son ngày 05.09.1838. Thi hài cha được lệnh chôn ngay gần đó, giáo hữu phải bỏ tiền chuộc đưa về an táng tại họ Nghĩa Vũ, huyện Yên Dũng, cũng thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Đức Lêo XIII đã suy tôn cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, linh mục dòng Thuyết Giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh

Trường thi tử Đạo.

Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tự
Năm Bính Thìn (1796) vinh dự minh cường
Vào dòng Ðaminh thân thương
Hằng ngày giảng đạo huyện đường bắt giam

Cha Nguyễn Tự gian nan không ngại
Tại Bắc Ninh bách hại gắt gao
Có ông Quang một thân hào 
Ðưa Cha trú ẩn, trốn vào vườn ông

Sáng Cha dâng lễ, không kịp nghỉ
Lính tới vây, dân chỉ Cha đi
Làng bên lánh nạn tức thì
Bọn chúng lục soát, chúng nghi nơi này

Lính kiếm được đúng ngay áo lễ
Chén Thánh kia, đang để trong nhà
Tập trung dân chúng khảo tra
Nhiều người từ chối, nói là không hay

Ðến người chót, ông này bị dọa
Là Lang Ninh, thưa đã nộp Cha
Bắt luôn Thầy Úy nữa mà
Cha khai làm bếp, coi nhà giúp tôi

Lính áp giải vào ngồi thị trấn
Tại nơi đây phỏng vấn cung khai
Truy tìm các vị Thừa sai
Song Cha chẳng nói, dông dài mà chi

Một bội giáo, hắn thì xấc láo
Ông phải khai, ta bảo ăn đòn
Cha mắng lại, mày chó con
Gặp quan tao nói, hết còn tuy toe

Tôn tức giận vỉa hè ngồi nắng
Trả thù Cha, đã mắng chửi anh
Khi quan đến đã mời nhanh
Vào nhà tham luận, chân thành đổi trao

Quan lại hỏi, có bao giáo sĩ
Cha Tự ngồi, ngẫm nghĩ đã khai
Có hai Giám mục thưa ngài
Bảy nhà truyền giáo, giỏi tài tuổi tên

Quan mừng lắm không quên cảm tạ
Bé cái lầm toàn đã bắt rồi
Biết ra quan đã hỡi ôi
Ra tòa lần khác, sẽ thời biết ta

Quan lại hỏi chuyển qua chuyện khác
Các đồ thờ, cho các quan nghe
Áo lễ chén Thánh đây nè
Cha liền rao giảng, chẳng che giấu gì

Quan liền báo ta thì cho biết
Hai ngày sau đặc biệt ra ròa
Giáo dân bị bắt khảo tra
Bước qua Thập Giá, để mà được tha 

Ðược tin ấy thì Cha buồn thảm
Về ngục giam can đảm nhủ khuyên
Hai ngày cầu nguyện triền miên
Không đem kết quả, buồn phiền xảy ra

Bốn Trùm xứ mất ba còn một
Cụ bảy lăm rất tốt lương y
Lệnh vua thay đổi tức thì
Tập trung phòng lớn, bảng ghi rõ ràng

Một bên Thánh Giá ngang mặt đất
Còn bên kia đủ tất khổ hình
Khi thì mềm dẻo nghĩa tình
Khi thì đe doạ, thình lình nổi lên

Cha Nguyễn Tự gọi tên để bước
Ngài trả lời, sao được phản Thầy
Giêsu là Chúa tôi đây
Ông quan lại nói, việc này tùy ông

Ðến pháp trường rất đông binh lính
Cha con một cũi dính chung nhau 
Ðọc kinh sốt sắng nguyện cầu
Ðường dài dẫn giải, khá lâu pháp trường

Tới nơi xử khẩn trương trải chiếu
Cha con quỳ theo kiểu nguyện kinh
Quan hiệu lệnh hai lý hình
Chém đều một lúc, thân mình đầu rơi

Dân xô lại tận nơi thấm máu
Cùng họ hàng con cháu lo chôn
Lương dân gây khó làm ồn
Xác Cha phải chuộc, nghe đồn khá to

Sáu mươi lạng bạc, lo để chuộc
Gặp cái eo, bắt buộc phải tuân
Nghĩa vụ chôn táng mộ phần
Chứng nhân tử đạo, hồng ân Nước Trời

Phúc tử đạo sáng ngời Mậu Tuất (1838)
Chết tuyên xưng chẳng khuất phục quan
Roma Toà Thánh lệnh ban
Suy tôn Canh Tý (1900) hân hoan đón mừng

Lời bất hủ: Quan huyện ngỏ ý đòi tiền chuộc, nhưng cha Tự bình tĩnh trả lời: "Ðối với tôi bị bắt vì đạo là một hồng ân Chúa ban, tiền bạc thì tôi không có, còn phiền giáo hữu thì tôi không muốn chút nào"..cha nói tiếp: "Người tướng cầm quân đánh giặc, dù binh lính mình chạy hết, tướng cũng không được phép hàng giặc. Tôi là linh mục, dù giáo dân bị tan tác, vẫn phải một niềm trung thành với Thiên Chúa".

Thứ Tư 5-9
Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta.

Chân Phước Mẹ Têrêsa Calcutta

(1910 – 1997)
M
ẹ Têrêsa Calcutta, người phụ nữ nhỏ bé được cả thế giới biết đến vì công việc bác ái cho những người nghèo nhất trong những người nghèo, được phong chân phước ngày 19 tháng Mười, 2003. Trong những người hiện diện hôm đó là hàng trăm nam nữ tu sĩ dòng Bác Ái Truyền Giáo, mà người đã thành lập năm 1950 như một tu hội của giáo phận. Ngày nay tu hội ấy còn bao gồm các nam nữ tu sĩ chiêm niệm và các linh mục dòng.
Trong buổi lễ phong chân phước, bằng một giọng nói khó khăn và yếu ớt, khi cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên xưng mẹ là chân phước, cả một làn sóng hoan hô vang dội của khoảng 300,000 người ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, được đọc bởi người phụ tá, Đức Thánh Cha đã gọi Mẹ Têrêsa là “một trong những nhân vật quan trọng của thời đại chúng ta” và “một hình ảnh của Người Samaritan Tốt Lành.” Đức giáo hoàng nói, cuộc đời của mẹ là sự “tuyên xưng can đảm về phúc âm.”
Sự phong chân phước của Mẹ Têrêsa, chỉ sau sáu năm khi người từ trần, là một phần trong tiến trình được khởi sự bởi cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Cũng như rất nhiều người trên thế giới, cố giáo hoàng nhận ra một gương mẫu cho tất cả mọi người noi theo về tình yêu của mẹ dành cho Thánh Thể, cho sự cầu nguyện và cho người nghèo.
Sinh trong gia đình ở Albani, giờ đây là Skopje, Macedonia, Gonxha (Agnes) Bojaxhiu là người con út còn lại trong gia đình có ba người con. Có lúc, gia đình này sống thật thoải mái khi công việc xây cất của người cha phát đạt. Nhưng sau cái chết của ông, cuộc đời thay đổi thật nhanh chóng.
Trong những năm theo học trường công, Agnes tham dự trong một đoàn thể Công Giáo và rất muốn đi truyền giáo ở nước ngoài. Vào năm 18 tuổi, cô vào dòng Nữ Tu Loreto và Dublin. Chính vào năm 1928, cô từ giã người mẹ lần sau cùng và đi đến phần đất mới với cuộc đời mới. Năm sau đó, cô được gửi đến đệ tử viện Loreto ở Darjeeling, Ấn Độ. Ở đây cô chọn tên Têrêsa và chuẩn bị cho một cuộc đời phục vụ. Cô được sai đến một trường nữ trung học ở Calcutta, ở đây chị dậy sử địa cho các cô con gái nhà giàu. Nhưng chị không thể quên được những thực tại chung quanh chị - người nghèo, sự đau khổ, và vô số người tuyệt vọng.
Năm 1946, trong khi trên chuyến xe lửa đến Darjeeling để tĩnh tâm, Chị Têrêsa nghe được điều mà sau này chị giải thích là “một mời gọi trong một ơn gọi. Thông điệp thật rõ ràng. Tôi phải rời tu viện và giúp người nghèo trong khi sống giữa họ.” Chị còn nghe được một mời gọi khác hãy từ bỏ đời sống với các Nữ Tu Loreto và, thay vào đó, “theo Đức Kitô vào các khu nhà tồi tàn để phục vụ Người đang hiện diện trong người nghèo nhất của người nghèo.”
Sau khi được phép rời Loreto, thiết lập một cộng đoàn tôn giáo mới và đảm nhận công việc mới, chị theo học lớp y tá trong vài tháng. Chị trở về Calcutta, là nơi chị sống trong khu xóm tồi tàn và mở trường dậy trẻ em nghèo. Mặc áo choàng sari mầu trắng và đi dép (là y phục thường ngày của phụ nữ Ấn Độ) không bao lâu chị biết rõ người hàng xóm của chị – nhất là người nghèo và đau yếu – và các nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng.
Công việc này vô cùng mệt nhọc, nhưng sự làm việc cô đơn của chị không lâu. Các người tình nguyện đến tiếp tay với công việc của chị, một số là cựu học sinh, họ trở nên nòng cốt cho dòng Bác Ái Truyền Giáo. Những người khác giúp đỡ bằng sự tặng góp thực phẩm, quần áo, đồ dùng, và cho sử dụng cơ sở. Năm 1952, thành phố Calcutta tặng cho Mẹ Têrêsa một ký túc xá cũ, mà nó đã trở nên mái nhà cho những người hấp hối và tuyệt vọng. Khi Dòng phát triển, các dịch vụ cũng được nới rộng cho các cô nhi, trẻ em bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và sống ở hè phố.
Trong vòng bốn thập niên kế tiếp, Mẹ Têrêsa làm việc liên lỉ cho người nghèo. Tình yêu của mẹ không có biên giới. Sức lực của mẹ cũng vậy, khi người ngang dọc địa cầu để hỗ trợ và mời gọi người khác nhìn thấy diện mạo của Chúa Giêsu trong những người nghèo nhất. Năm 1979, mẹ được giải Nobel Hòa Bình. Vào ngày 5 tháng Chín, 1997, Thiên Chúa đã gọi mẹ về nhà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét