Chúa Nhật
Ngày 24/03/2013
LỄ LÁ NĂM
C
(Phần
I)
Làm phép Lá:
PHÚC ÂM : Lc 19, 28-40
"Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi trước lên Giêrusalem. Và
xảy ra là khi Người đến gần Bếtphaghê và Bêtania, giáp núi gọi là núi Cây Dầu,
Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia,
vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các
con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con "Tại sao các ông mở
dây?", thì hãy nói thế này: "Vì Chúa cần dùng đến nó". Hai người
được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa
con, thì chủ nó hỏi rằng: "Sao các ông mở dây lừa con?" Hai ông đáp:
"Vì Chúa cần đến nó". Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giêsu, trải áo lên
mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi
Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi
Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà
đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời". Một vài người
biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: "Thưa Thầy, xin hãy mắng các
môn đệ Ngài đi". Chúa Giêsu nói: "Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ
làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". Đó là lời Chúa.
_______________________________________
THÁNH LỄ
BÀI ĐỌC I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không
giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ
thẹn".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn
luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức
tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai
tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh
tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời
nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải
hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đó là
lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 21, 8-9. 17-18a.
19-20. 23-24
Đáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
1)
Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy
Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".
2)
Đứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con
chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.
3)
Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn
tấm áo dài, thì chúng rút thăm. Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi
Đấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.
4)
Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi
khen Người. "Chư quân là người tôn sợ
Chúa, xin hãy ca khen Chúa. Toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người,
hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel !"
BÀI ĐỌC II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ
mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa,
đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người
huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài
người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng
lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người,
và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu,
mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng
lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Pl 2, 8-9
Chúa
Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế,
Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu.
BÀI THƯƠNG KHÓ: Lc 22, 14 - 23, 56 (bài
dài)
"Sự Thương Khó
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
LM: Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh
Luca.
XV1: Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và
bảo các ông:
LM: "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các
con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này
nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa".
XV1: Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
LM: "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau:
Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước
Thiên Chúa đến!"
XV1: Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông
mà phán:
LM: "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Ta".
XV1: Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén
mà phán:
LM: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các
con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con
Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!"
XV1: Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là
kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ
được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
LM: "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những
kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì
không như thế, vì ai cao trọng hơn (trong) các con thì hãy trở thành như người
nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu hạ. Vì người ngồi ăn và kẻ
hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở
giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong
các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy
đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và
được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
XV1:
Rồi Chúa nói:
LM:
"Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã
cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm
cho anh em con vững tin".
XV1:
Ông thưa Người:
XV2:
"Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết".
XV1:
Nhưng Người đáp:
LM:
"Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã ba lần chối
rằng không biết Thầy".
XV1:
Và Người bảo các ông:
LM:
"Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày
dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?"
XV1:
Các ông thưa:
XV2:
"Không thiếu gì cả".
XV1:
Vậy Người nói:
LM:
"Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như
vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy
bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm:
'Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác'. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải
được hoàn tất".
XV1:
Các ông thưa Người:
XV2:
"Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây"
.XV1:
Và Người bảo:
LM:
"Đủ rồi".
XV1:
Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người.
Đến nơi, Người bảo các ông:
LM:
"Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ".
XV1:
Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện
rằng:
LM:
"Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý
con muốn, một theo ý Cha".
XV1:
Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người
cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống
đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông
còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
LM:
"Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
XV1:
Người còn đang nói, thì này đây (xuất hiện) một lũ đông, và một người trong
nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu
bảo hắn:
LM:
"Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?"
XV1:
Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
XV2:
"Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?"
XV1:
Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng
Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
LM:
"Thôi, đủ rồi".
XV1:
Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo
các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
LM:
"Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày
Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là
giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
XV1:
Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một
đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
XV2:
"Cả ông này cũng theo hắn".
XV1:
Nhưng ông chối và nói:
XV2:
"Này chị, tôi đâu quen biết người ấy".
XV1:
Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
XV2:
"Chính ông cũng là người trong bọn đó".
XV1:
Nhưng Phêrô đáp:
XV2:
"Này anh, đâu có phải tôi".
XV1:
Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
XV2:
"Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ
Galilêa".
XV1:
Phêrô đáp:
XV2:
"Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?"
XV1:
Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô.
Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối
Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những
kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà
hỏi Người rằng:
XV2:
"Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó".
XV1:
Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão
trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công
nghị mà nói:
XV2:
"Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay".
XV1:
Người trả lời:
LM:
"Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng
chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu
Thiên Chúa toàn năng".
XV1:
Mọi người đều hỏi lại:
XV2:
"Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?"
XV1:
Người đáp:
LM:
"Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".
XV1:
Bấy giờ họ nói:
XV2:
"Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
XV1:
Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người
rằng:
XV2:
"Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho
Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
XV1:
Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
XV2:
"Ta không thấy người này có tội gì".
XV1:
Nhưng họ cố nài rằng:
XV2:
"Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ
Galilêa đến đây".
XV1:
Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người
xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai
giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê
thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe
nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi
Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế
và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể
và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả
Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước
kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ
lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
XV2:
"Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng
đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào
trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử
các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy
ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
XV1:
Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân
đồng thanh kêu lên:
XV2:
"Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
XV1:
Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng
Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to
hơn và nói:
XV2:
"Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
XV1:
Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
XV2:
"Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử
hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
XV1:
Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la
hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu.
Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng
đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi,
chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác
thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người
phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
LM:
"Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các
ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng:
"Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú
không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy
đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp
chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra
sao?"
XV1:
Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi
là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một
đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
LM:
"Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
XV1:
Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các
thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
XV2:
"Nó đã cứu được kẻ khác, thì hãy tự cứu mình đi nếu nó thật là Đấng Kitô,
người Thiên Chúa tuyển chọn".
XV1:
Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
XV2:
"Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
XV1:
Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau:
"Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh
trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
XV2:
"Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
XV1:
Đối lại, tên kia mắng nó rằng:
XV2:
"Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta,
như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn
Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
XV1:
Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
XV2:
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
XV1:
Chúa Giêsu đáp:
LM:
"Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với
Ta".
XV1:
Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ
chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa.
Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
LM:
"Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
XV1:
Nói đoạn, Người trút hơi thở.
LM:
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây
lát)
XV1:
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
XV2:
"Ông này quả thật là người công chính".
XV1:
Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy
ra, liền đấm ngực trở về.
Đứng
xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa,
họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt
lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các
công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng
trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác
Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đá đục sẵn, nơi chưa táng xác ai.
Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người
phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được
táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong
ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.
LM:
Đó là lời Chúa.
_________________
Hoặc đọc
bài ngắn này: Lc 23, 1-49
BÀI THƯƠNG KHÓ: Lc 23, 1-49 (bài ngắn )
"Sự Thương Khó
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
LM:
Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
XV1:
Khi ấy, tất cả công nghị đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ
bắt đầu tố cáo Người rằng:
XV2:
"Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho
Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".
XV1:
Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
XV2:
"Ta không thấy người này có tội gì".
XV1:
Nhưng họ cố nài rằng:
XV2:
"Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ
Galilêa đến đây".
XV1:
Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người
xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai
giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê
thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe
nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi
Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế
và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể
và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả
Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước
kia họ là thù địch với nhau. Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ
lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
XV2:
"Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng
đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào
trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử
các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy
ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
XV1:
Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân
đồng thanh kêu lên:
XV2:
"Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".
XV1:
Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng
Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to
hơn và nói:
XV2:
"Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"
XV1:
Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
XV2:
"Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử
hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".
XV1:
Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la
hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu.
Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng
đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng. Khi điệu Người đi,
chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác
thập giá theo sau Chúa Giêsu. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người
phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
LM:
"Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các
ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: 'Phúc
cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi
con!'. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: 'Hãy đổ xuống đè chúng
tôi!', và nói với các gò nổng rằng: 'Hãy che lấp chúng tôi đi!'. Vì nếu cây
tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
XV1:
Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi
là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một
đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
LM:
"Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
XV1:
Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các
thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
XV2:
"Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô,
người Thiên Chúa tuyển chọn".
XV1:
Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
XV2:
"Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".
XV1:
Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau:
"Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh
trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
XV2:
"Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".
XV1:
Đối lại, tên kia mắng nó rằng:
XV2:
"Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta,
như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn
Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"
XV1:
Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
XV2:
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
XV1:
Chúa Giêsu đáp:
LM:
"Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với
Ta".
XV1:
Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ
chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa.
Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
LM:
"Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".
XV1:
Nói đoạn, Người trút hơi thở.
LM: (Quỳ gối thinh lặng
thờ lạy trong giây lát)
XV1:
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
XV2:
"Ông này quả thật là người công chính".
XV1:
Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy
ra, liền đấm ngực trở về. Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ
nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.
LM:
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Bước chân theo chân
Chúa Giêsu
Chúa nhật hôm nay khai mạc tuần lễ thánh. Phụng vụ
sẽ cử hành những mầu nhiệm trọng đại nhất trong lịch sử cứu độ. Ðể chúng ta dễ
dàng tham gia, phụng vụ cố gắng cụ thể và hầu như muốn diễn lại tất cả những gì
đã xảy ra trong tuần lễ cuối cùng cuộc đời của Chúa. Chúng ta sẽ đáp lại bằng
cách đến dự mọi lễ nghi trong tuần này và nhất là bằng lòng yêu mến suy niệm
các nghi lễ ấy.
Ðể mở đầu chúng ta hãy ý thức hành vi sắp làm. Chúng
ta sẽ cầm lá đi vào nhà thờ. Chúng ta gọi đây là cuộc kiệu lá. Và các bài hát
sẽ cho chúng ta có cảm tưởng đang cùng đi với Chúa Giêsu vào đền thờ. Chúng ta
đừng có nghĩ mình rước Chúa đi; nhưng hãy nhớ chính Người đi trước và chúng ta
bước chân theo chân Người.
Ðiều này chính thánh Luca làm chứng trong câu đầu
bài Tin Mừng. Người viết: Bấy giờ Ðức Giêsu cầm đầu các môn đệ để lên
Giêrusalem. Người đi một cách quả cảm, đang khi môn đệ rụt rè và ngại ngùng.
Người biết những gì sẽ xảy ra; còn họ chỉ có những cảm tình hoang mang.
Ðến núi cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi đến một
làng trước mặt mượn một con lừa đem về. Mọi sự xảy ra như đã sắp đặt từ trước,
vì đây là kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã ấn định từ ngàn đời. Dẫn lừa về, môn
đệ vứt áo của họ lên lưng con lừa và để Ðức Giêsu cưỡi lên. Vì sao họ làm như
thế, có lẽ thoạt đầu họ chưa hiểu hết. Họ làm theo một thúc đẩy bên trong và
chỉ dần dần họ chỉ mới ý thức được ý nghĩa. Vì kìa, người ta đang trải áo
choàng của họ trên đường Ngài đi. Thái độ của người ta làm nức lòng môn đệ. Và
đoàn lũ môn đệ bắt đầu lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa vì hết thảy các phép lạ họ
được thấy.
Rõ ràng tác giả Luca đã chú trọng tới họ. Người ít
để ý đến Ðức Giêsu. Người hầu như không nói gì đến những người khác. Người nhìn
kỹ các môn đồ. Trước mặt Người, họ đã trở thành những con người khác. Ðây không
còn chỉ là đoàn 12 rụt rè, ngại ngùng không muốn tiến lên Giêrusalem nữa. Có
thể nói cũng không phải là đoàn 72 môn đệ như có lần nào đã được Chúa sai đi
từng đội làm việc truyền giáo.Luca nói đến tất cả đoàn lũ môn đồ bắt đầu lớn
tiếng ca ngợi Thiên Chúa. Người ám chỉ Hội Thánh ở thời đại của Người, như
Người đang nhìn thấy trước mắt. Ðó là cộng đoàn dân Chúa ở buổi sơ khai, vừa
hiểu ra ý nghĩa của hết các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, tức là vừa nhận ra Người
thật là Chúa.
Thế nên họ tung hô Người như tập đoàn các thiên thần
trong ngày Người Giáng sinh. Họ biến bài ca các thiên thần trở thành bài ca của
mình và như vậy họ cũng biến mình nên cộng đoàn phụng vụ thờ phượng tung hô
Thiên Chúa. Họ chúc tụng Chúa đã sai Ðức Giêsu đến. Họ chúc tụng Ngài là Vua
nhân danh Chúa. Họ không còn nhìn thấy Ngài ở dưới đất nữa, nhưng đang ở trên
trời rồi; nên họ mới tung hô: Bình an trên trời (chớ không phải dưới đất) và
vinh quang trên chốn cao vời!
Ðó phải là thái độ của chúng ta trong cuộc rước này.
Chính thánh Luca cũng không nói rõ Ðức Giêsu đã vào Giêrusalem một cách long
trọng. Người cho chúng ta hiểu Ðức Giêsu đã tiến vào đền thờ, để chúng ta có
tâm trạng tôn giáo và phụng vụ. Chúng ta không đưa (hay không theo) Chúa Giêsu
vào Giêrusalem để chịu chết lại. Chúng ta theo Người vào đền thờ, không phải ở
dưới đất mà ở trên trời để chúng ta chúc tụng cuộc phục sinh của Người và để
chúng ta thấy mình đã được đưa sang một thế giới khác, thế giới của sự thánh
thiện và phụng vụ, để chúng ta cũng chúc tụng thờ phượng Chúa như các thiên
thần.
Thế nên đừng ai coi phụng vụ của Tuần Thánh như diễn
lại các việc xưa kia đã xảy ra. Phụng vụ nhắc lại những việc ấy một cách khác
cụ thể và tỉ mỉ, nhưng không phải chúng ta ôn lại điều cũ, mà để chúng ta
ngưỡng mộ, tham gia như các thiên thần ở trên trời, tức là với lòng mến yêu,
thờ lạy và nhận lấy các mầu nhiệm cứu độ.
Chính với những tâm tình như thế mà chúng ta cầm lá
rước vào nhà thờ. Chúng ta không đi như đoàn lũ môn đệ của Chúa, tức là như Hội
Thánh đi vào cử hành Phụng vụ. Chúng ta bắt chước các thiên thần sốt sắng chúc
tụng các việc Chúa Giêsu làm để cứu độ chúng ta, đặc biệt trong cuộc thương khó
mà chúng ta sẽ nghe thuật lại trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta hãy tiến lên để
tham dự các mầu nhiệm ấy.
* * *
Mỗi tác giả sách Tin Mừng có lối trình bày riêng
cuộc khổ nạn của Chúa. Họ có tự do đến nỗi không bó buộc phải tường thuật tỉ mỉ
đầy đủ và theo thứ tự như một máy quay phim. Mọi người đã biết diễn tiến của
các sự việc, vì ngay từ khi Phêrô bắt đầu thay mặt anh em Tông đồ rao giảng
Chúa Giêsu lần đầu tiên, người ta đã được nghe kể rõ ràng về việc Chúa chịu
chết và sống lại. Do đó, những việc mà ai ai cũng biết, các tác giả không cần
kể lại theo diễn biến; nhưng độc giả chờ đợi họ một cái nhìn sâu sắc để hiểu ý
nghĩa các sự việc. Và tác giả các sách Tin Mừng đã làm công việc này. Mỗi ông
cho chúng ta một cái nhìn về diễn biến của cuộc tử nạn để chúng ta hội nhập,
tham dự, chia sẻ. Hôm nay chúng ta theo sự hướng dẫn của thánh Luca.
Chúng ta không thể đi theo Người từng bước. Theo lối
chia quen thuộc, chúng ta dừng lại ở mấy chặng sau đây: Lúc Ðức Giêsu bị bắt -
khi Người ở trước tòa án Do Thái - rồi Philatô xử Người - và sau cùng Người
chết trên thập giá. Dường như ở chặng nào chúng ta cũng nhận được một luồng
sáng đức tin không phải chỉ để nhìn thấy sự việc xảy ra mà còn được hướng dẫn
để đến gần Chúa Giêsu hơn.
Vậy, đang lúc Người còn nói với môn đệ thì một đoàn
lũ đã kéo đến mà đi đầu là Giuđa. Y lại gần mà hôn Người như thói quen của môn
sinh sau lâu ngày gặp lại Thầy mình. Nhưng Người thấy rõ ý xấu của y; và Người
bộc lộ ý xấu cho y hiểu. Người bảo: "Giuđa ngươi dùng cái hôn để nộp Con
Người sao?".
Những kẻ đứng quanh Người thấy Người không phải chỉ
là bậc Thầy trong cả thái độ và lời nói. Họ xin phép "Chúa" cho phép
dùng gươm. Và một người trong họ đã làm liền. Y chém vào tai tên đầy tớ thầy
"Thượng tế". Nhưng Ðức Giêsu thật là Chúa. Người bảo "thôi cứ để
như vậy", tức là cứ để theo ý Chúa Cha và Người chữa tai cho tên đầy tớ
kia. Rồi Người nhắc lại cho mọi người nhớ: hằng ngày Người đã ở nơi Ðền thờ mà
chẳng ai dám tra tay vào Người; nhưng bây giờ là thời của các quyền lực tối
tăm.
Như vậy, chúng ta không thấy Ðức Giêsu bị bắt như
một người có tội. Ngược lại, chúng ta vẫn thấy Người là Chúa. Tác giả Luca luôn
luôn chú ý đến điểm này. Trong suốt bài tường thuật, cái đèn pha của Người vẫn
pha ánh sáng vào tư cách cao cả của Chúa, đến nỗi những gì xúc phạm đến Chúa
như đòn vọt, xỉ nhục đều như bị dìm trong bóng tối. Tác giả chỉ lướt qua một
cách nhẹ nhàng để dừng lại trên khuôn mặt khả ái và khả kính của Ðức Giêsu.
Do đó, tác giả muốn môn đệ của Chúa phải xứng đáng
để tham dự Mầu nhiệm Tử nạn. Người kể ngay đến câu chuyện Phêrô chối Chúa trước
khi người ta đưa Chúa ra tòa. Có vẻ Người thông cảm với Phêrô không để cho ông
sa ngã đến chỗ phải thề để chối Chúa. Nhất là Người đã để cho Phêrô trở lại,
rồi mới kể đến việc người ta hành hạ và xét xử Chúa. Dường như Người muốn tách
rời tội của môn đệ và tội của người ta. Môn đệ sa ngã vì yếu đuối và đã được
cái nhìn đầy thương xót của Chúa làm cho khóc lóc rửa sạch linh hồn để tham dự
cuộc tử nạn cứu độ của Người.
Thật ra rất hiếm những nét tả về cái chết đau thương
và nhục nhã của Ðức Giêsu. Ngược lại nơi tòa án Do Thái, cũng như trước mặt
Philatô và trên cây thập giá, Người vẫn là Chúa. Tại tòa Do Thái, chẳng có thể
nói là đối diện với Người. Thầy Thượng tế cũng bị chìm ở giữa "người
ta". Họ không hỏi Người những điều bất xứng. Họ chỉ muốn biết Người có
phải là Ðấng Thiên Sai không? Con Người thì bộc lộ tâm tư của họ ra và cho họ
thấy nay đã đến lúc Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng. Như vậy, ai
đang xử ai? Ðến nỗi chính họ đã phải thốt ra: "Vậy ra ông là Con của Thiên
Chúa!" Và họ cũng chẳng dám coi lời khẳng định của Người là phạm thượng.
Tức là ở đây, tại tòa Do Thái, tác giả Luca cũng vẫn cho chúng ta thấy Ðức
Giêsu là Chúa.
Ðiều này tác giả cũng chẳng quên khi kể lại việc ở
trước tòa Philatô. Ông này luôn trở đi trở lại nhận định "không tìm ra tội
trạng nào nơi người ấy". Ông nại đến cả thái độ của Hêrôđê cũng không thấy
Người có tội gì. Luca nhấn mạnh đến sự vô tội, nhưng có thể để an ủi các môn đệ
của Chúa Kitô bị đưa ra tòa xét xử. Họ hãy nhớ lại phiên tòa Philatô. Ðức Giêsu
có cần trả lời gì đâu. Người nói duy nhất một câu để đáp lại câu Philatô hỏi:
Ông là vua dân Do Thái sao? Người bảo: Chính ông nói thế. Người nói để khẳng
định bản chất cao cả của mình; đang khi đối phương lúng túng và loay hoay trong
vấn đề tội trạng.
Khuôn mặt của Hêrôđê đã được tác giả Luca chú ý đặc
biệt. Cả tâm lý của ông cũng bị phơi bày ra. Từ lâu rồi ông chỉ mong có ngày
được giáp mặt Ðức Giêsu để thấy một phép lạ. Ông không biết rằng Người đã không
đến cho hạng người có tâm lý như vậy. Nước Trời không phải là chuyện kỳ lạ,
nhưng là ơn độ trì đổi mới con người. Thế nên Ðức Giêsu đã lặng thinh trước mặt
Hêrôđê, và đạo của Người sẽ chẳng bao giờ nói gì với những con người hiếu kỳ,
chuộng lạ. Và những kẻ chỉ thấy những sự lạ trong đạo của Người sẽ chẳng bao
giờ được nghe thấy tiếng Người thực sự. Ngược lại các môn đệ chân chính của
Người phải có can đảm nhìn thẳng vào cây thập giá đã được mang đến cho Người để
Người vác đi và rồi họ cũng vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi theo
Người như Simon, người Kyrênê và đám dân đông đảo cùng phụ nữ hôm nay đã theo
sau Người trên đàng đến núi Sọ.
Những người này đã được Chúa nhắn nhủ phải ăn năn
thống hối. Họ tiếp tục đi theo Người và được thấy không những Ðức Giêsu cầu xin
Chúa Cha tha thứ cho người ta; mà Người còn ban thiên đàng cho kẻ tội lỗi kêu
xin. Họ được thấy vạn vật u sầu chia sẻ sự đau khổ của Người và chính Người
đang chết ngoan ngoãn trong tay Ðức Chúa Cha. Họ thấy đoàn lũ ra về đấm ngực ăn
năn và ông Giuse đến táng liệm xác Chúa một cách trung thành. Tất cả những điều
mắt thấy tai nghe ấy làm cho các phụ nữ thấy rõ rệt Chúa đã chết cho kẻ có tội
và những người này đã bắt đầu thống hối ăn năn. Cuộc tử nạn của Chúa thật sinh
ơn cứu độ.
Ðó chính là điều mà tác giả Luca muốn dùng để kết
thúc bài tường thuật. Người muốn chúng ta thấy Chúa đã chết cho chúng ta và
chúng ta hãy trở về với Chúa. Chúa không cần chúng ta khóc thương các vết
thương của Người vì tác giả Luca đã không chú ý đến khía cạnh đau khổ của cuộc
tử nạn. Tác giả muốn chúng ta thấy Ðức Giêsu là Chúa; Người biết rõ tâm can mọi
người; Người không chấp tội chúng ta; Người hiến thân chịu chết để biểu lộ lòng
thương xót; Người kêu gọi mọi người thống hối ăn năn và độ trì mọi kẻ kêu cầu
Người. Sự chết của Người đã đem lại ơn cứu độ chúng ta. Thế nên chúng ta phải
có tâm hồn môn đệ để tham dự cuộc khổ nạn hồng phúc của Người. Chúng ta phải
khóc lóc tội lỗi mình trước. Như Phêrô, rồi chúng ta gia nhập đoàn lũ đi theo
Người cùng các phụ nữ; tức là với tất cả Hội Thánh, chúng ta đi đến chân thánh
giá Chúa Giêsu mà chiêm ngưỡng lòng thương xót của Người đang hy sinh mình để
cứu độ những ai kêu xin Người. Ðó là tâm tình và thái độ của chúng ta phải có
trong tuần lễ thánh này. Xin các mầu nhiệm cứu độ của Chúa Giêsu tràn ngập hồn
xác chúng ta.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba
24 THÁNG BA
Xin Cứu Chúng Con Khỏi
Sự Dữ
“Ta là Đức Chúa, là Thiên Chúa của các ngươi; Ta đã
dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20,2). Thiên
Chúa, Đấng đã dẫn đưa It-ra-en ra khỏi Ai-cập, vẫn không ngừng giải thoát con
người khỏi tội lỗi của họ. Lề luật của Thiên Chúa – tức Thập Giới và mệnh lệnh
yêu thương – là con đường giải phóng cho chúng ta.
Đức Kitô cho biết chính Người là con đường giải
phóng ấy cho loài người khi Người tuyên bố: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, và nội
trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Người có ý nói về “đền thờ thân
thể Người” (Ga 2,21) – nghĩa là, Người đang nói đến cuộc Phục Sinh.
Trong Mùa Chay, chúng ta hãy rà soát lại lương tâm
mình dưới ánh sáng các huấn lệnh của Thiên Chúa – để chúng ta có thể dứt bỏ tội
lỗi. Chúng ta hãy đổi mới trong mình niềm hy vọng gắn kết với cuộc Phục Sinh
của Đức Kitô, cuộc Phục Sinh ấy mở ra cho chúng ta khả năng đoạn tuyệt hoàn
toàn khỏi sự dữ – khỏi tội lỗi và sự chết.
Cuộc giải phóng It-ra-en khỏi Ai-cập – khỏi cảnh nô
lệ – thực sự là một tiên báo về cuộc giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi nhờ giá
Máu Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật Lễ Lá, Tưởng
Niệm Cuộc Thương Khó Của Chúa
Is 50, 4-7; Pl
2, 6-11; Lc 22, 14-23.56
LỜI SUY NIỆM: Trong tiệc Vượt Qua của Chúa Giêsu với
các Tông Đồ trước khi Chúa Giêsu vào cuộc khổ nạn. “Người cầm lấy bánh, dâng
lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các ông và nói: Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em.
Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,1).
Trong mọi Thánh Lễ và qua Thánh lễ, đã tạo cơ dịp
cho chúng ta ở chung với nhau bất chấp đảng phái, phe nhóm hay tầng lớp trong
xã hội, người lãnh đạo hay bị lãnh đạo, người lao động bằng chân tay, hay làm
việc bằng trí óc, người có khuynh hướng này hay khuynh hướng kia. Chúa Giêsu
đang mời gọi chúng ta tiếp tục để tưởng nhớ đến Ngài, nhờ đó đem chúng ta lại
với nhau, gặp nhau biết mở rộng tấm lòng chấp nhận nhau; cùng tung hô chúc tụng Chúa như xưa đám đông đã tung hô Chúa khi Chúa tiến
vào thành Giêrusalem.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
24 Tháng
Ba
Vững Niềm Tin
Vào năm 1856 các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc
khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp
đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây
thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào
tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá.
Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa.
Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của
hắn.
Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được
thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là
đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị
nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động
yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên
Chúa trên thập giá cũng thế.
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả
lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là
Alexamenos. Ở một cột trụ bằng đádựng hình thần Mars tức là vị thần chiến
tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: "Alexamenos vẫn
vững tin".
Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là
một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ. Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho
hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:
"Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư
hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là
sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp
tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào
thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho
là dại dột. Song với tất cả được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa Kitô chịu đóng
đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa".
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét