Ngày 08
tháng 04 năm 2013
LỄ TRUYỀN
TIN CHO ĐỨC MẸ
(Lễ Trọng)
BÀI ĐỌC I: Is 7, 10-14
"Này trinh nữ sẽ
thụ thai".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng:
"Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời
cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử
Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Đavít, làm phiền lòng
người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính
Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11
Đáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và
9a).
Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật
thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu
và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Đáp.
2)
Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa,
và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Đáp.
3)
Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm
môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Đáp.
4)
Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung
thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và
lòng trung thành của Chúa. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 10, 4-10
"Ở đoạn đầu cuốn
sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể
xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa
đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác.
Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này
con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách
ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và
của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề
luật". Đoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh
ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi
thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô
một lần là đủ. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA : Ga 1, 14ab
Alleluia,
alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta,
và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
"Này Bà sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến
một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một
người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần
vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở
cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối
và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì
đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là
Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà
Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó
xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến
với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là
Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ
thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà
thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa,
tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà. Đó là
lời Chúa.
Đức Maria vừa được sứ thần Chúa đến báo tin là được chọn làm Mẹ Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và sau khi đã nghe sứ thần giải đáp những điều còn thắc mắc, Mẹ chỉ vắn tắt thưa cùng sứ thần: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.
Là Mẹ của con Thiên Chúa, tức là Mẹ của Thiên Chúa, nhưng Đức Maria vẫn chỉ coi mình là nữ tỳ. Cũng như Đức Kitô, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng cũng khẳng định là mình đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người. Nói cách khác, tuy thực sự là Thầy và là Chúa, nhưng Đức Kitô muốn sống giữa anh em nhân loại của mình như một người tôi tớ chứ không như một ông chủ. Và Ngài cũng muốn cho cộng đoàn Dân Chúa, mà Ngài lập ra, phải luôn tôn trọng nguyên tắc Ngài đã ấn định: Vua Chúa các dân thì lấy quyền mà thống trị và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em thì phải nên người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.
Trong xã hội phong kiến ngày xưa, vua quan được coi như cha mẹ của dân: dân chi phụ mẫu. Ngày nay, tuy phần lớn các quốc gia đã trở thành dân chủ và nhiều người lãnh đạo chính quyền vẫn tự xưng mình là "công bộc", là "đầy tớ" của nhân dân. Nhưng trong thực tế, thì chỉ thấy người ta đón tiếp, chào hỏi long trọng và hết lòng phục vụ các người đầy tớ ấy, mà chẳng ai đón tiếp, chào hỏi người dân, nhất là những người nghèo và những kẻ làm tôi thực sự.
Còn Đức Maria và Chúa Giêsu thì vẫn trước sau như một. Chỉ biết sống vì mọi người và cho mọi người, hay nói cách khác, lấy sự phục vụ mọi người làm phương châm. Chúa Giêsu thì chủ tâm thực hiện sứ vụ người tôi tớ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã phác hoạ, còn Mẹ Maria thì chỉ thích sống như một người nữ tỳ của Chúa.
Giáo Hội, một mặt là nhiệm thể Đức Kitô, một mặt cũng là hình ảnh nối tiếp của Đức Maria, nên cũng phải thể hiện vai trò làm tôi tớ và nữ tỳ của Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, người mẹ nào cũng trước hết làm mẹ, làm tôi tớ rồi mới làm thầy dạy con cái mình. Con càng nhỏ dại, mẹ càng phải vất vả hầu hạ và nhất là con càng đau yếu, thì mẹ càng pảhi chăm sóc tận tình. Giữa chức vụ làm mẹ và làm thầy thì có bổn phận làm tôi tớ. Người ta phải yêu mến cha mẹ, phải sống trọn chữ hiếu. Người ta phải tôn kính thầy mình. Nhưng không ai có bổn phận phải biết ơn tôi tớ. Trái lại kẻ làm tôi thường bị khinh rẻ và cư xử bất công. Người ta đã bất công như thế nào đối với Chúa Giêsu chỉ vì Ngài đã không dùng quyền năng để áp đặt trên họ một quyền thống trị, mà lại chỉ muốn hầu huyện mọi người như tôi tớ. Vậy nếu ngày hôm nay Giáo Hội có bị coi thường, bị ngược đãi, thậm chí có bị bách hại, thì âu cũng là lẽ thường, bởi chính Đức Kitô cũng đã từng bị ngược đãi và bị giết. Cũng chính Người đã báo trước cho các môn đệ biết trước số phận đang chờ đón họ. Thà chúng ta tự coi mình như những đầy tớ vô dụng, làm tất cả những gì Chúa dạy phải làm, rồi sau đó có bị quên ơn, ngược đãi, còn hơn là tự tôn mình làm thầy, làm chúa thiên hạ, rồi sau bị người ta nguyền rủa và lên án: Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chính vì chỉ muốn làm nữ ty của Chúa, nên Đức Maria đã được chọn làm Mẹ Thiên Chúa và được mọi đời khen ngợi là người diễm phúc.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Truyền Tin, Năm ABC
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự vâng phục mang
lại ơn cứu độ cho con người.Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để làm quyết định; nhưng khi con người quyết định chọn điều gì, là con người phải lãnh nhận hậu quả do quyết định ấy mang lại. Thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình có thể quyết định mọi sự. Trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của cuộc bất tuân là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền nọc độc của tội Tổ Tông cho con cháu.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tuân phục hay bất tuân lời Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được tiên-tri Isaiah truyền chỉ tuân phục một mình Thiên Chúa, vua Ahaz của
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vua Ahaz bất tuân lời Thiên Chúa.
1.1/ Vua Ahaz nghi ngờ Thiên Chúa: Rezin là vua sau cùng của
(1) Sự bất trung của vua Ahaz: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz để khuyên nhà vua tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài mới có thể bảo tòan lãnh thổ của nhà Judah. Vua Ahaz không tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa, và vào lời khuyên của tiên tri Isaiah; ông cầu viện với vua Ai-cập để xin sự bảo vệ. Hậu quả là Chúa để cho vương quốc của ông rơi vào tay vua
1.2/ Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz lần thứ hai.
(1) Hãy xin một dấu lạ để Thiên Chúa làm cho: “Một lần nữa Đức Chúa phán với vua Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Vua không xin một dấu từ Thiên Chúa vì vua ngoan cố, không muốn nghe những lời khuyên của tiên-tri Isaiah.
(2) Dấu lạ Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.”
- Isaiah không dùng chữ đặc biệt để chỉ trinh nữ (betula), nhưng dùng chữ (
- Con trẻ sắp sinh ra có thể là trẻ Hezekiah, mà
- Dẫu vậy, sự nghiêm trọng của lời tuyên sấm và tên con trẻ tương lai “Emmanuel” cho chúng ta thấy lời của tiên-tri Isaiah không chỉ dừng lại với sự sinh ra của Hezekiah; nhưng chỉ thẳng tới vị vua lý tưởng của giòng tộc David, mà qua vị vua này, Thiên Chúa mới thực sự ở với con người.
- Thánh sử Mathhew và Giáo Hội đã nhìn sự sinh ra của Đấng Cứu Thế bởi Trinh-Nữ Maria là sự hòan tất của lời tiên tri này.
2/ Bài đọc II: Thi hành ý muốn của Thiên Chúa cao trọng hơn các hy lễ tòan thiêu và hiến tế chiên bò.
2.1/ Máu thú vật không thể xóa bỏ tội lỗi con người: Trong Cựu Ước, mỗi khi con người muốn được Thiên Chúa tha tội, họ lên Đền Thờ, sát tế thú vật, và dâng cho Thiên Chúa như trong ngày lễ Day-at-onement. Nhưng những hy lễ này chỉ có thể tha những tội vô tình họ xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; còn những tội cố tình, không một hy lễ nào có thể xóa được; đó là lý do tại sao tác giả Thư Do-thái nói: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.” Vì thế, con người cần một cách khác để được tha tội; và Thiên Chúa đã chuẩn bị một cách thức hiệu quả để tha tội cho con người: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.” Tạo cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có tai để lắng nghe và vâng lời; có trí óc để hiểu và có ý chí để làm theo những gì Thiên Chúa muốn; và có một thân xác để có thể hy sinh, chịu đựng đau khổ, để đền tội thay cho con người.
2.2/ Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho con người: Tác giả trưng dẫn Thánh Vịnh 40:6-9: “Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.”
- Trước hết, Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.” Điều này hiển nhiên vì tất cả những điều này thuộc về Thiên Chúa. Con người có dâng tiến những lễ vật này cũng là lấy những của Thiên Chúa ban để dâng lại cho Ngài. Đó là chưa kể đến tội mà các tiên tri đã tố cáo con người nhiều lần: dâng của dư thừa, dâng cho qua lần chiếu lệ, dâng lễ vật mà vẫn đang toan tính phạm tội, dâng lễ vật mà lòng xa Thiên Chúa vạn dặm …
- Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” Sự vâng phục của Chúa Giêsu là lễ hiến tế duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa, và máu của Người đổ ra chỉ một lần là đủ để Thiên Chúa tha thứ tất cả cho con người.
- Nếu chúng ta muốn thiết lập mối giao hòa với Thiên Chúa, vâng lời làm theo thánh ý Ngài là cách thức duy nhất. Thiên Chúa muốn con người tin và tuân phục những gì Đức Kitô đã mặc khải và dạy dỗ con người.
3/ Phúc Âm: Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria bắt đầu Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
3.1/ Biến cố Truyền Tin: Khi Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria.
- Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Thông thường, con người dễ hãnh diện khi được người khác khen mình; nhưng Mẹ là người rất khiêm nhường, Mẹ biết mình không xứng đáng với lời chào này; nên bối rối, băn khoăn về lời chào ấy.
- Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh để lo việc của Thiên Chúa. Điều khó hiểu ở đây là thánh Luca đã đề cập tới việc Mẹ đã đính hôn với Giuse ở đầu trình thuật. Tại sao đã khấn giữ mình đồng trinh, lại còn đính hôn với Giuse? Điều này chỉ có thể giải nghĩa hoặc Luca lầm lẫn hoặc bản văn bị sắp xếp lẫn lộn thứ tự giữa 2 biến cố: truyền tin và đính hôn.
- Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”
3.2/ Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Chúng ta không chắc Mẹ Maria có thể hiểu thế nào là sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần; nhưng Mẹ tin những gì thiên thần Gabriel nói vì hai lý do:
(1) Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể làm cho bà Elisabeth, người họ hàng với Mẹ, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai; còn việc gì Thiên Chúa không làm được?
(2) Niềm tin của Mẹ vào Thiên Chúa: Mẹ biết Thiên Chúa là ai, và Mẹ biết mình là ai. Mẹ tuy không hiểu những gì Thiên Chúa nói, nhưng sự khôn ngoan dạy Mẹ cứ mau mắn vâng lời; vì tất cả những gì Thiên Chúa muốn đều tốt đẹp. Vì thế, Mẹ thưa với thiên thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa biết chắc các điều tốt đẹp cho con người. Bất tuân Thiên Chúa là cách dễ dàng nhất gây ra đau khổ cho con người.
- Vâng lời Thiên Chúa không lấy đi sự tự do của con người, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan. Giống như một con trẻ chưa đủ khôn ngoan để làm quyết định cho mình, em phải vâng lời cha mẹ là những người khôn ngoan hơn. Chúng ta cũng thế, khi chưa hiểu kế họach của Thiên Chúa cho cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu và Đức Mẹ: xin vâng làm theo ý Thiên Chúa.
- Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ những gì Thiên Chúa hứa ban cho tới khi thành sự thật.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.
08/04/13 THỨ HAI TUẦN 2 PS
Lễ Truyền Tin
Lc 1,26-38
Lễ Truyền Tin
Lc 1,26-38
ĐỨC TIN
“XIN VÂNG” TRỌN HẢO
Bấy giờ bà Maria nói :”Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Suy niệm:
Niềm tin tuyệt vời của Mẹ Maria khi nói lên lời “xin vâng” thật đáng ngạc nhiên
thán phục. Cùng với lòng khiêm tốn thẳm sâu, lời thưa vâng trong đức tin của Mẹ
đã có sức mạnh kéo Thiên Chúa từ trời cao xuống thế để ở với con người. Lời
“xin vâng” đầy xác tín của Mẹ đã khơi mào cho Ngôi Lời “vốn dĩ là Thiên
Chúa” nhưng đã “hạ mình, vâng lời” làm người trong lòng Mẹ; lời “xin
vâng” từ đời đời đó được tiếp tục thể hiện trong tất cả thân phận làm
người của Đức Giêsu, cho tới khi Ngài nói lời “xin vâng” tối hậu với Chúa Cha
trong vườn Cây Dầu, để bằng lòng chịu chết đền bù tội lỗi nhân loại (x. Pl
2,6-8). Cùng đồng thanh với lời “xin vâng” của Người Con, lời “xin vâng” ban
đầu của Mẹ được trở nên hoàn hảo bằng lời “xin vâng” kéo dài đến tận dưới chân
thập giá và mãi về sau khi Mẹ để cho Chúa hoàn toàn làm chủ đời mình để đồng
hành với Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu chuộc.
Mời Bạn:
Trong Tông thư “Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI mời gọi chúng ta chiêm
ngắm và học hỏi mẫu gương đức tin vâng phục đó của Đức Maria: “Nhờ lòng
tin, Đức Maria đã đón nhận lời Thiên thần, và trong tinh thần vâng
phục, Mẹ đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên Chúa… Với
đức Tin, Mẹ theo Chúa lúc Người đi rao giảng và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgotha …” (số 7).
Sống Lời Chúa: Nguyện tắt: “Xin cho con nhận ra và vâng theo ý Chúa.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin gia tăng đức tin yếu kém của chúng con, để chúng
con biết noi gương Mẹ Maria luôn phó thác cho tình yêu Chúa.
www.5phutloichua.net
Lễ Truyền
Tin
Mỗi khi đọc
kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu
cuộc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng
vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ðây chính là lời chúc phúc
có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.
Quả thế,
không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của
người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc
cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ
thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức
trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ
chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp
bằng một câu trả lời đầy thuyết phục, một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng
của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ
của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông
Môsê hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với
từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả
lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình
an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phócho
Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin
tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác
tín.
Trong cuộc
sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên
quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông
đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta
bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn
luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó
lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có
những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay cho lời
chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn
chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm
giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện
gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó
nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ
điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà
Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc
bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những
người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn,
khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy,
chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời
Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên
Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra
cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến
đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi
lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng
Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân,
con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người
khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi suy niệm về biến
cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ
nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày
xưa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Ba
25 THÁNG BA
Người Phụ Nữ Khôn Sánh
Trong
biến cố Truyền Tin, Đức Maria bày tỏ sự ưng thuận với sứ thần. Bản trình thuật
của Luca – dù thật vắn tắt – vẫn vừa vô cùng hàm súc các nguồn Cựu Ước vừa nổi
bật đặc tính mới mẻ của Kitô giáo. Nhân vật chính trong câu chuyện này là người
‘mệnh phụ’ (Ga 2,4) được tuyển chọn từ đời đời để làm cộng tác viên thiết yếu
đệ nhất cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Đó là almah – hay thiếu nữ – đã
được ngôn sứ Isaia báo trước (Is 7,14). Đó là cô gái thuộc dòng dõi hoàng tộc,
được gọi là Myriam, Maria ở Na-da-rét, một làng quê nghèo nàn lẩn khuất nhất
miền Ga-li-lê (Ga 1,46). Nét mới mẻ độc đáo của Kitô giáo ở đây chính là sự
kiện một phụ nữ được đặt vào một địa vị cao vời khôn sánh. Sự kiện này thật
không thể quan niệm được đối với não trạng Do Thái thời ấy, cũng như đối với
nền văn minh Hy La vốn đang cường thịnh lúc bấy giờ.
Sứ
thần Ga-bri-en đã chào Maria với những lời lẽ hết sức trịnh trọng đến nỗi làm
Maria kinh sợ: “Khaire – Ave – Mừng vui lên!” Lần đầu tiên, niềm vui cứu độ âm
vọng trên mặt đất. “Kekharitomene – gratia plena – Bà đầy ân phúc!” Đây là Đấng
Vô Nhiễm, được chạm khắc trong sự sung mãn nhiệm mầu của sự tuyển chọn của
Thiên Chúa, của sự tiền định từ đời đời, của sự trong sáng tuyệt diễm. “Dominus
tecum – Thiên Chúa ở cùng Bà!”
Thiên
Chúa ở với Đức Maria, một thành viên của gia đình nhân loại được tuyển chọn để
làm Mẹ Đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” Từ bây giờ và cho đến mãi
mãi, Thiên Chúa sẽ ở với con người. Thiên Chúa sẽ không quay lưng lại và sẽ
không bỏ con người chơi vơi. Thiên Chúa đã tự kết hiệp nên một với con người để
cứu con người và trao ban cho con người chính Con Một của Ngài, là Đấng Cứu Độ.
Maria trở thành một bảo đảm cụ thể và sống động của sự hiện diện cứu độ này của
Thiên Chúa.
Thần
sứ yêu cầu Maria ưng thuận cho Ngôi Lời đến trần gian. Câu trả lời của Maria
chính là tiếng vọng lại hoàn toàn từ tiếng đáp trả của Ngôi Lời đối với Thiên
Chúa Cha: “Này con đây”. Chính nhờ được dẫn trước và được hỗ trợ bởi lời đáp
trả “Này con đây” của Con Thiên Chúa mà Maria đã có thể thưa lên “Này con đây”.
Chính tại khoảnh khắc Maria thốt lên lời ưng thuận, Con Thiên Chúa trở thành
Con Người. Ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta cử hành mầu nhiệm nền tảng là cuộc Nhập
Thể của Ngôi Lời. Thư Do Thái cho phép chúng ta đi sâu vào những chiều sâu khôn
dò của sự tự hạ này của Ngôi Lời – tự hạ vì yêu con người cho đến chết trên
thập giá.
“Khi
vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo
cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ
con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách
Thánh đã chép về con.’”Dt 10,5-7
Chúa
đã tạo cho con một thân thể. Việc cử hành Lễ Truyền Tin hôm nay dẫn chúng ta
trực tiếp đến với ngày Giáng Sinh, sau chín tháng. Các anh chị em tín hữu của
chúng ta ngay trong những thế kỷ đầu tiên đã nắm bắt rất rõ ý nghĩa mầu nhiệm
này – một mầu nhiệm đưa dẫn chúng ta tới cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc Phục
Sinh của Đức Giêsu. Lễ Truyền Tin rơi vào Mùa Chay – sự kiện này giúp chúng ta
nhận hiểu ý nghĩa cứu chuộc của nó: Cuộc Nhập Thể gắn kết chặt chẽ với công
cuộc cứu chuộc mà Đức Giêsu hoàn thành bằng việc đổ máu vì chúng ta trên Thập
Giá.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Gương các Thánh
Ngày 25-03
LỄ TRUYỀN TIN
"Lịch
Roma đã mừng lễ Ngôi Lời nhập thể với danh hiệu gọi từ xa xưa là "Truyền
tin" của Chúa, nhưng lễ này từ xưa và hiện nay vẫn là lễ mừng Chúa Kitô và
Mẹ Ngài : Ngôi lời đã trở thành "Con của Đức Maria" (Mc 6,3) và Maria
trở thành Mẹ Chúa Trời".
"Phụng
vụ phong phú của Đông và tây phương, đối với đức Kitô. Đã mừng lễ Truyền Tin,
nhằm nhắc lại tiếng "Xin vâng" cứu rỗi của Ngôi lời nhập thể, lúc
bước vào đời đã nói: "Lạy Thiên Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý
Người" (Dt 10, 7 và Tv 39,8-9) , lễ này cũng kính nhớ giây phút đầu của ơn
cứu chuộc với sự kết hợp chặt chẽ, bất khả phân giữa thiên tính và nhân tính
trong một Ngôi Lời".
"Lễ
truyền tin đối với Đức Maria: một Evà mới, trung thành và vâng phục với lời
"Xin vâng" quảng đại (Lc 1,38) do Đức Chúa Thánh Thần. Maria trở
thành Mẹ Chúa Trời và là mẹ của mọi người. Maria cũng là hòm bia giao ước và
Đền thờ Thiên Chúa bởi Mẹ cưu mang Đấng trung gian duy nhất. Lễ truyền tin kính
nhớ sự tự do chấp nhận sự hợp tác với kế hoạch cứu rỗi Đức Maria"
(Marialis culitus 6b)
Như
vậy biến cố Truyền tin. Diễn ra âm thầm giữa sứ thần Gabrie với Đức Trinh Nữ
Maria (Lc 1,26-28) đã mang đến cho toàn thể gia đình nhân loại một Tin vui lớn
lao. Nhân loại không còn chìm ngập trong bóng tối sự chết nữa, bởi vì lời hứa
cứu độ (St 3,15), nay "Vào thời sau hết, Thiên Chúa đã nói với ta nơi một
người con" (Dt 1,2). Biến cố cứu rỗi này kết hợp bởi hai lời "Xin
vâng" tự đời đời của Ngôi Con Thiên Chúa "xin đến để thi hành thánh ý
Thiên Chúa" và trong thời gian của Đức Maria sẵn sàng cộng tác "như
lời thiên thần truyền" (Lc 1,38).
Đến
lượt chúng ta là những kẻ hưởng nhờ hồng ân cứu chuộc chúng ta cũng cần tiếp
nối một lời xin vâng để thực sự trở thành thân nhân của Chúa (Lc 8.21). Đây là
đường nhập thể của sự sống vĩnh cửu nơi mỗi người biết đón nhận Tin vui Cứu độ.
(daminhvn.net)
Thứ Hai 8-4
Thánh Julie Billiart
(1751 - 1816)
Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế. Trong thời gian này, khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành bốn đến năm giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm. Trong vòng hai thập niên kế đó, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.
Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Ðây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, hai người bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Ðức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên. Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Ðức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.
Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Ðức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến
Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét