Ngày 13/04/2013
Thứ Bảy Tuần
II Mùa Phục Sinh Năm C
BÀI ĐỌC I: Cv 6, 1-7
"Họ chọn bảy
người đầy Thánh Thần".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên
xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ
hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười Hai Vị triệu
tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà
lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy
người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt
họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời
Chúa". Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài và chọn Têphanô, một người
đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và
Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu
nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem
gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Đáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng
con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc
đọc: Alleluia.
1)
Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, ca ngợi là việc của những kẻ lòng
ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng
Chúa. - Đáp.
2)
Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu
chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Đáp.
3)
Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng
của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
- Đáp.
ALLELUIA: Ga 19, 28
Alleluia,
alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ
thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 6, 16-21
"Họ thấy Chúa
Giêsu đi trên mặt biển".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ
biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà
Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi
chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên
mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính
Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy,
thuyền đã đến nơi họ định tới. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Chúa Ði Trên
Biển
Biến cố Chúa đi trên biển cũng được mô tả
trong Phúc Âm Nhất Lãm (Mt 14 và Mc 6), nhưng tường thuật của Gioan xem ra nhấn
mạnh những chi tiết khác, ngài muốn làm nổi bật một ý nghĩa khác. Thánh sử
Gioan không nói đến việc Chúa đến để trợ giúp cho các Tông Ðồ đang lúc gặp khó
khăn, cũng không nói gì về việc làm cho sóng gió im lặng. Thay vì nhắc chi tiết
làm sóng gió im lặng, ngài nhắc đến việc chiếc thuyền đến bờ bình an. Nhưng khi
nhắc đến chi tiết này, tác giả xem ra cũng không chú ý nhiều đến nó, mà chỉ chú
ý đến chi tiết qui về Chúa Giêsu nhiều hơn.
Tác giả muốn cho chúng ta nhìn thấy một Chúa
Giêsu Kitô đầy quyền năng, không tùy thuộc vào những giới hạn thiên nhiên áp
đặt. Chúa Giêsu đi trên mặt nước không bị chìm, không bị nguy hiểm bởi sóng to
gió lớn trên mặt biển. Lúc đó, quyền năng Chúa Giêsu được diễn tả bằng lời xác
nhận của Ngài: "Thầy đây đừng sợ". Trong Phúc Âm Gioan thì nói:
"Ta đây". Ðó là cách nói diễn tả thực thể Thiên Chúa, nhắc đến Giavê
Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môisê như là Ðấng "Ta là: Ego sum qui
sum". Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các Tông Ðồ để mạc khải cho các
ông nhận ra Ngài là thực thể Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là". Như thế,
sau phép lạ Chúa làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hoá nhiều để nuôi sống
5,000 người, thì biến cố đi trên mặt biển giữa sóng gió được mạc khải rõ hơn về
thực thể Thiên Chúa quyền năng "Ta là".
Ðáp lại, thái độ của dân chúng nhìn thấy Chúa
chỉ như một tiên tri, một con người phi thường và muốn tôn Chúa lên làm vua. Họ
hiểu sai thực thể Chúa là ai. Trong biến cố Chúa đi trên mặt nước chứng tỏ cho
các môn đệ nhìn thấy thực thể đúng thật của Ngài, Ngài là Thiên Chúa, là Ðấng
"Ta là".
Như thế, qua lời nói trấn an các tông đồ
"Thầy đây đừng sợ", mạc khải này chuẩn bị thêm cho việc Chúa Giêsu
giảng dạy về Bánh Hằng Sống nơi hội đường Caphanaum, Bánh ấy chính là Ngài. Hơn
nữa, trong hội đường khi rao giảng về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu được tường
thuật năm lần khi dùng đến lời quả quyết "Ta là" để diễn tả thực thể
Ngài là Thiên Chúa: "Ta là Bánh Hằng Sống". Như thế phần nào chúng ta
thấy lý do tại sao Phúc Âm Gioan nhắc đến dấu lạ này sau phép lạ bánh và cá hoá
nhiều và liền trước bài giảng về Bánh Hằng Sống.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi hiện
diện giữa loài người, Như thế, có thể kết luận rằng nhận Chúa Giêsu là Thiên
Chúa để có thể tin nhận mạc khải của Chúa về Bí Tích Thánh Thể, về Bánh Hằng
Sống. Hai việc này luôn đi đôi với nhau: tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thì
sẽ tin nhận bí tích Thánh Thể. Ngược lại, nếu không tin Chúa Gêsu Kitô là Thiên
Chúa thì cũng không thể tin vào Thánh Thể, và nếu không tin vào Thánh Thể thì
cũng không tin vững mạnh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con được nhìn thấy những dấu lạ Chúa vẫn thực hiện hôm nay và tin nhận
Chúa là Thiên Chúa, từ đó tin nhận những gì Chúa mạc khải cho chúng con để cứu
rỗi chúng con. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp
những nghịch cảnh thử thách. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để đến với chúng
con và trấn an chúng con "Thầy đây đừng sợ", xin cho chúng con biết
đến với Chúa trong Thánh Thể để nghe Chúa nói "Thầy đây đừng sợ".
Amen.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Bảy Tuần
II Phục Sinh
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
Khó khăn và xung đột ý kiến xảy ra ở mọi nơi
và mọi thời; nói cách khác, hễ có sống chung, là có đụng nhau. Làm thế nào để
giải quyết khi phải đương đầu với những khó khăn hay xung đột? Người khó khăn
nóng tính sẽ la hét, chửi rủa, làm cho ra lẽ; rồi sau đó muốn ra sao thì ra.
Người thâm trầm ít nói sẽ lặng lẽ rút lui, và chép miệng thở dài: thôi thì
đường ai nấy đi cho đẹp cả đôi bên. Nhưng cả hai cách giải quyết đều không đẹp
ý Chúa và giúp ích cho tha nhân;vả lại, có đi đâu chăng nữa, con người vẫn phải
đương đầu với vấn đề “chung đụng.”
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta giải quyết
vấn đề cách đẹp lòng Chúa và giúp ích cho tha nhân. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ
tường thuật các khó khăn của cộng đồng các tín hữu sơ khai, họ cũng phải đương
đầu với thiên vị và ghen tị giữa các tín hữu Do-thái theo văn hóa Hy-lạp và các
tín hữu Do-thái bản xứ. Thay vì trốn tránh vấn đề, hay tìm cách ly khai, các
Tông-đồ chọn thêm bảy Phó-tế để giúp các ngài lo cho các bà góa Do-thái theo
văn hóa Hy-lạp. Mọi người đều vui vẻ với giải quyết khôn ngoan này. Trong Phúc
Âm, khi phải đương đầu với phong ba bão tố, các Tông-đồ hỏang sợ, và càng sợ
hãi hơn khi thấy một bóng người lướt trên nước tới thuyền của họ, vì các ông
tưởng là ma; nhưng Chúa Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Chính Thầy đây! Đừng
sợ!”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Biết khôn ngoan giải quyết vấn đề.
1.1/
Vấn đề thiên vị và ghen tị xảy ra trong cộng đòan: “Thời đó, khi số môn
đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín
hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá
trong nhóm họ bị bỏ quên.”
(1) Nhận định vấn đề: Thói quen của con
người là bảo vệ những người thân quen mình trước, rồi mới đến những người xa
hơn. Vấn nạn trên xảy ra giữa những người Do-thái, nhưng theo những văn hóa
khác nhau: các bà góa người bản xứ được cung cấp lương thực đầy đủ hơn những bà
góa theo văn hóa Hy-lạp. Nếu không biết cách giải quyết vấn đề, tình trạng
thiên vị và ghen tị sẽ ngày càng trầm trọng hơn, sẽ đưa đến việc tách rời giữa
hai nhóm, sẽ gây thiệt hại cho sự đòan kết, và sẽ làm gương mù cho các tín hữu
khác.
(2)
Cách giải quyết: “Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói:
"Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều
không phải. Hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và
khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó.”
Một người không thể làm hết, và cũng không tốt
để làm hết, vì sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp bằng nhiều người cộng tác. Hơn
nữa, việc mở mang Nước Chúa là bổn phận của tất cả mọi người, chứ không phải
chỉ là bổn phận của giới lãnh đạo mà thôi. Các Tông-đồ biết sắp xếp các thứ tự
ưu tiên: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận hàng đầu không thể xao lãng. Để có
người lo cho các nhu cầu của cộng đoàn, cần tuyển thêm các Phó-tế có những đức
độ cần thiết. Các Tông-đồ để cho các tín hữu tham gia vào việc tìm kiếm các ứng
viên; sau đó các ngài sẽ chuẩn y bằng việc đặt tay, và hướng dẫn họ trong việc
phục vụ cộng đoàn.
1.2/
Phẩm trật Hội Thánh dần dần được hình thành: “Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ
chọn ông Stephanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông
Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và ông Nicolaus, một người ngoại
quê Antioch đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau
khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.” Đây là 7 Phó-tế đầu tiên của
Hội Thánh. Phó-tế Stephanô là thánh tử đạo đầu tiên làm chứng cho Chúa Giêsu
trong trình thuật mà chúng ta sẽ được nghe ít ngày nữa.
Số các tín hữu càng đông, phẩm trật của Hội
Thánh càng phải được nới rộng để đáp ứng nhu cầu của cộng đoàn và của các tín
hữu. Dưới sự hướng dẫn của các Tông-đồ và hoạt động của Chúa Thánh Thần, “Lời
Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem ,
số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón
nhận đức tin.”
2/
Phúc Âm: Đừng sợ hãi khi phải đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống.
Khó khăn trong cuộc sống không thể thiếu trong
tiến trình thăng tiến và làm cho con người trưởng thành. Những khó khăn có thể
do Thiên Chúa gởi đến để thử thách đức tin hay do tha nhân gây ra qua cuộc sống
chung đụng. Trình thuật trong Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến trường hợp thứ
nhất.
2.1/
Biển động làm các ông hỏang sợ: Trình thuật này xảy ra sau khi phép lạ Bánh hóa nhiều và
dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua của họ. Chúa Giêsu truyền cho các Tông-đồ
qua bờ bên kia trước, còn Ngài lên núi cầu nguyện. Đứng trên núi của vùng
Tiberias, Chúa Giêsu có thể quan sát rõ ràng thuyền của các ông trong Biển Hồ.
Nhiều tác giả của các bài thánh ca đã so sánh Giáo Hội và cuộc đời con người
như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả trong hành trình tiến về quê trời; ví
dụ: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng. Chúa Giêsu có thể đã nhìn thấy trước những khó
khăn mà các Tông-đồ phải đương đầu với khi các ông phải hướng dẫn con thuyền
Giáo Hội sau này; nên Ngài chuẩn bị cho các ông bằng biến cố biển động hôm nay.
Từ Tiberias, nơi các Tông đồ khởi hành khởi
hành, đến Capernaum, nơi các ông muốn tới không xa lắm; nhưng đêm ấy biển động
vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Chúa
Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Điều này làm các ông hoảng
sợ, vì từ trước tới giờ, các ông chưa từng được chứng kiến một con người đi
trên nước. Chỉ có ma quỉ với làm được việc ấy. Vì thế, nỗi lo sợ các ông tăng
gấp đôi.
2.2/
Chúa Giêsu trấn an các ông: "Thầy đây! Đừng sợ!" Các ông muốn rước Người lên
thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến. Nhiều lần
trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã nói những lời tương tự với
các môn đệ: Khi hiện ra với các Tông-đồ sau khi sống lại, Chúa nói với các ông:
“Đừng sợ!” (Mt 28:10). Những lời từ giã cuối cùng của Ngài với các ông: “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn
14:27).
Hay khi chọn Phêrô để xây dựng Giáo Hội, Ngài
đã nói với ông “Phêrô! Con là đá, và trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.
Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời và quyền lực của hỏa ngục cũng không
thắng được” (Mt 16:18). Một khi sống trong sự bảo vệ của Ngài, con người không
có gì phải sợ hãi nữa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
-
Khi phải đương đầu với khó khăn và xung đột, cả hai thái độ tức giận chửi rủa
và từ chối rút lui đều phải tránh. Chúng ta cần phối hợp cả hai: sự trợ giúp
tinh thần của Chúa và sự tế nhị trong cách đối xử, để giải quyết vấn đề cách
khôn ngoan và bác ái.
-
Tất cả các tín hữu đều có bổn phận góp phần trong việc mở mang Nước Chúa. Những
nhà lãnh đạo cần biết khôn ngoan hướng dẫn để mọi thành phần của Dân Chúa đều
có cơ hội đóng góp tùy khả năng và hoàn cảnh của họ.
-
Khi những khó khăn xảy đến, đừng sợ! Hãy bình tĩnh, cầu nguyện, và tìm cách đối
phó.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Ga 6,16-21
A. Hạt
giống...
Một chuyện nhỏ
được cho xen vào đơn vị Hóa bánh ra nhiều : Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
- Câu chuyện xảy
ra khi bóng chiều đã phủ xuống. Trong Thánh Kinh, đêm tối là thời gian thuận
tiện để Thiên Chúa mặc khải. Vậy chuyện này muốn mặc khải cho các môn đệ biết
thêm về mầu nhiệm Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu đi
trên mặt nước ; và khi các môn đệ gặp Ngài, Ngài nói "Chính Ta đây, đừng
sợ" : trong Thánh Kinh, chỉ có Thiên Chúa và những người được Thiên Chúa
ban quyền đặc biệt mới có thể đi trên mặt nước (như Êlia, Êlisê, phần Môsê thì
cho nước biển tách đôi). Kiểu nói "Chính Ta đây" cũng là lời Thiên
Chúa mặc khải cho Môsê trong bụi gai.
Như thế, chuyện
này mặc khải rằng Chúa Giêsu là Êlia mới, Êlisê mới và Môsê mới. Ngài có uy
quyền của Thiên Chúa, Ngài thống trị các sức mạnh thiên nhiên.
B....
nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu để
các môn đệ hành trình một mình trên biển lúc trời tối. Khi đó cuồng phong lại
nổi lên và biển động mạnh. Các môn đệ hoảng sợ. Chính lúc đó Ngài đến với họ và
nói "Chính Thầy đây, đừng sợ". Nghĩa là Ngài dạy họ một lúc hai điều
: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần có Chúa che chở.
2. Câu chuyện này
tiếp liền phép lạ hóa bánh ra nhiều muốn day cho các môn đệ biết rằng Chúa
Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho dân chúng ăn, mà còn ban sức mạnh
tinh thần và sự che chở an toàn cho các môn đệ.
3. Trong Thánh
Kinh, câu "Đừng sợ" được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi
ngày trong suốt một năm.
4. Nhà truyền
giáo Moody kể : Ở làng tôi, bên New England ,
có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống bấy
nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng
mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và
phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong
tay Chúa Giêsu-Kitô, như một người con của Chúa (Góp nhặt).
5. "Đức
Giê-su bảo các môn đệ : "Chính Thầy đây đừng sợ !"
Mọi người vẫn đi
qua, như không có gì xảy ra. Vài người đứng lại, đứng lại để xem một người bị
giựt kinh phong nằm ngay trên đường, trông thật tội nghiệp !
Có người nói :
"Vắt chanh vào miệng anh ta" ; nhưng mọi người vẫn đứng im, không ai
động tĩnh gì.
Tôi cũng thấy
ngại, ngại ánh mắt dòm ngó của bao người xung quanh. Tôi có cảm giác sờ sợ như
thể sắp làm việc gì sai quấy vậy. Tại sao thế ? Tôi chợt nhớ lời Chúa nói :
"Chính Thầy đây đừng sợ !" và tôi đã mạnh dạn bước ra, vắt chanh vào
miệng anh.
Tôi cảm thấy thật
vui, khi nhận ra tác động của lời Chúa trên tôi, giúp tôi mở lòng ra với người
anh em bên tôi.
Lạy Chúa, xin cho
con biết yêu mến và tuân giữ lời Chúa. (Epphata)
6. (những mầm
khác)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI/Gp.Cần Thơ
13/04/13 THỨ BẢY TUẦN 2 PS
Th. Máctinô I, giáo hoàng, tử đạo
Ga 6,16-21
Th. Máctinô I, giáo hoàng, tử đạo
Ga 6,16-21
ĐIỀU THÚ
VỊ BẤT NGỜ
Các ông hoảng sợ, nhưng Đức
Giê-su bảo các ông :”Thầy đây mà, đừng sợ!” Các ông muốn rước Ngài lên thuyền,
nhưng ngay lúc đó, thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến. (Ga 5,20-21)
Suy niệm:
Biển Hồ Galilê là hồ nước ngọt dài 23 km, rộng 13 km. Cuộc đời rao giảng của
Đức Giêsu có nhiều sự kiện gắn với biển hồ này. Sau phép lạ hóa bánh người ta
tìm tôn Chúa lên làm vua, Chúa truyền lệnh các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên
kia, phần Ngài thì lên núi cầu nguyện. Ra khơi trong điều kiện không thuận lợi:
đêm tối, biển động, sóng to, gió mạnh, mà lại không có thầy cùng đi. Thuyền đi
được một nửa chặng đường, chừng 5 hay 6 km, thì Chúa dành cho họ một bất ngờ
thú vị. Ngài đi trên mặt nước đến với họ và ngay lúc đó “thuyền đã tơi bờ,
nơi các ông định đến.”
Mời Bạn:
Cuộc sống là biển đời đầy phong ba bão táp, lắm khi bạn tưởng như Chúa vắng
mặt. Bạn cứ vững tin vì biết rằng Ngài sẽ dành cho bạn điều thú vị bất ngờ:
Những vực thẳm chết chóc của tội lỗi đã được Đấng Phục Sinh lấp đầy bằng sự
hiện diện cứu độ. Mọi giông tố, sóng gió, tất cả đều tan biến. Sách Khải Huyền
nói cuối cùng thì biển sẽ không còn nữa... Và chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy
mình đã đến chỗ mình muốn đến. Ngay giữa những thử thách tại trần gian này,
chúng ta đã được nếm hưởng trước niềm hạnh phúc Thiên Đàng, nhờ có Chúa hiện
diện.
Chia sẻ:
Kể lại một kinh nghiệm nhận được bình an ngay giữa thử thách khi nhận ra Chúa
đang hiện diện với mình.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi thử thách làm tôi lo lắng sợ hãi, tôi nhớ lại lời Chúa
nói: “Thầy đây mà, đừng sợ.”
Cầu nguyện: Lạy Đấng Phục Sinh, xin đến ở lại với con trong giây phút này.
www.5phutloichua.netCHÍNH THẦY ĐÂY
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình. Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ
Thiên Chúa sai đến một vị vua. Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh,
toàn thắng, Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma. Sau khi Đức
Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu, họ nghĩ ngay Ngài chính là
người họ mong đợi từ lâu. Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua, làm người đứng lên
lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15). Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong
mỏi của dân chúng. Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là
một Mêsia đầy quyền lực, để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để
giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi. Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy
Đức Giêsu trốn đi. Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ, vì Thầy bỏ qua cơ hội
ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel, và chính họ cũng mất đi một cơ hội
để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói
cho ta biết tại sao sau đó các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên
kia (c. 16).Nhưng theo Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này. Bị Thầy bắt qua
lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối, trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên
này, điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ. Họ muốn ở lại hưởng chút dư
vị của thành công vang dội vừa rồi. Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục. Chuyến
đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì. Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong
bất ngờ gây biển động. Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét. Cả
nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền. Họ đã cố chèo được chừng năm,
sáu cây số. Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm
đen? Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước. Nhưng Thầy không đến
trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần
thuyền các ông (c. 19). Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối. “Thầy đây mà, đừng sợ!”,
Đức Giêsu vội vã trấn an. Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ
ngày xưa, vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài. Thật ra Chúa
chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình. Phải tập quen dần với
những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới
hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng
này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh
em
là
làm cho chính Ta”
(Chân
phước Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG TƯ
Sự Sống Của Thiên Chúa Được Đổ Tràn Vào Thế Giới
Mùa Phục Sinh, chúng ta đi vào trong một cảm
nghiệm tâm linh sâu sắc có sức làm cho chúng ta nếm cảm đức tin của mình vào Đức
Kitô Phục Sinh, “Chiên Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7). Người đã chịu hiến tế
vì chúng ta, song sự chết đã không chế ngự được Người. Sứ mạng của Người đã
không chấm dứt khi Người bị treo trên Thập Giá, sứ mạng ấy đã không chấm dứt
khi Người kêu lên: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). Thật vậy, đó chính là lúc
mà sự hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã mở ra một kỷ nguyên mới
trong lịch sử loài người.
Chính Đức Kitô đã thánh hiến kỷ nguyên này qua
cuộc Phục Sinh của Người từ cõi chết. Người đã hoàn thành trọn vẹn chương trình
cứu độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đức Kitô đã được phục sinh – như lời
Người đã hứa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa, bởi vì Người là sự sống
vĩnh cửu mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta.
Đức Giêsu nói về chính mình: “Ta là … sự sống”
(Ga 14,6). Và, vào một dịp khác, Người tuyên bố: “Ta là sự sống lại và là sự
sống” (Ga 11,25). Như vậy, nơi Người, nguồn cội của chính sự sống đã đi vào thế
giới chúng ta.
Xuyên qua hiến tế của Đức Giêsu, sự sống thần
linh đã được đổ chan hòa trên mọi dân tộc, và – một cách nào đó – trên toàn
khắp vũ trụ. Một sức sống hoạt và tươi trẻ nào đó đã nạp vào toàn thể tạo vật
kể từ khoảnh khắc chiến thắng của Người trên Thập Giá. Chính chúng ta bây giờ
không còn là nô lệ của “nỗi sợ chết nữa” (Dt 2,15). Đức Kitô đã giải phóng
chúng ta vĩnh viễn!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
Ngày 13-4
Thánh Martinô I Giáo Hoàng, tử đạo.
Cv 6, 1-7; Ga 6, 16-21.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và
đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Thầy đây đừng
sợ!” (Ga 6, 19b-20)
Trong cuộc sống của người Ki-Tô hữu chúng ta,
khi có những bảo táp phong ba, tâm hồn của chúng ta đều có sự chao đảo, nhưng
phải luôn biết rằng lúc nào chúng ta cũng có tình yêu thương của Chúa ở cùng;
bất cứ hoàn cảnh nào đến với chúng ta, dù là khó khăn và nguy hiểm đến đâu, đều
có đủ ơn của Chúa ban cho một cách dư đầy, để mà chiến đấu. Chúa Giêsu luôn nói
với chúng ta trong mọi lúc và mọi nơi :”Thầy đây đừng sợ”. Ước gì chúng ta luôn
trông cậy vào tình yêu thương của Chúa Giêsu Thánh Thể sẵn sàng chiến đấu để
chiến thắng.
Mạnh Phương
Gương các
Thánh
Ngày 13-04: Thánh MARTINO I , Giáo Hoàng Tử Đạo
(+656)
Thánh Martinô I sinh tại Tôđi, miền Umbria .
Đức Giáo hoàng đặt Ngài làm đại diện ở
Constantinophe. Tại đây, Ngài đã nhiệt thành chống lại Nhất ý thuyết. Lạc giáo
này dạy rằng: nơi Chúa Giêsu chỉ có một ý chí, ý chí thần linh. Như vậy là họ
chối bỏ ý chí riêng của nhân tính Ngài.
Năm 649, khi Đức Thêdôre qua đời, thánh Martinô
được cử lên ngôi kế vị thánh Phêrô. Ngay tháng 10 năm này, Ngài đã triệu tập
công đồng Lêtêranô để kết án lạc thuyết. Làm như vậy Ngài đã liều chuốc lấy phản
ứng độc hại của Contance II, một hoàng đế trẻ theo lạc giáo, và muốn bắt Giáo
hội phải chấp nhận sắc lệnh "Type" về giáo lý của ông. Ngày 17 tháng
6 năm 653, quan thái thú đại diện hoàng đế là Calliopas ở Ravennna Italia đã
bắt Đức giáo hoàng trong nhà thờ chính tòa. Ngài bị tố cáo đồng lõa trong cuộc
phản loạn của quan thái thú tiền nhiệm là Olymius.
Sau đó Ngài bi đưa về Constantinople
bằng tàu. Sẵn đau khổ vì bệnh đau khớp xương, cuộc hành trìnnh còn khổ cực thêm
vì bị mất thực phẩm tối thiểu, bị cấm không được tắm rửa. Ngày 17 tháng 9, Ngài
tới Constantinople và bị gian trong một nhà tù
cho tới ngày 20 tháng 12. Tại một tòa án giả tạo với sư hiện diện của hoàng đế,
Ngài bị truất ngôi và bị kết án tử hình.
Bi bỏ rơi trong ngục thất, thánh Martinô vô cùng
cực khổ vì lạnh. Một phụ nữ lén cho Ngài một chiếc giường và một chiếc nệm. Khi
ấy, Thượng phụ giáo chủ Constantinople hấp
hối, ông ta sợ bị đoán phạt trước tòa Chúa nên xin Hoàng đế đừng xử tử tù nhân.
Nhưng thánh Martinô lại bị lưu đày tới Cherson ở Crimea .
Tại đây, Ngài qua đời vì thiếu thốn, có lẽ vào
ngày 03 tháng 4 năm 656.
13 Tháng Tư
Emmaus
Nói đến những người không nhà không cửa, người
ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre , người đã sáng lập cộng đồng Emmaus
nhằm giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
Phong trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một
căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris
vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh
thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được
phóng thích.
Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng
đồng là : "Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những
người khác...". Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá
trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Ðó là niềm tin mà
cha Pierre luôn
khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của
Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều
Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả,
Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài
đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu
lệnh của cha Pierre ,
và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng
đồng Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để
chế biến và bán lại, như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
Hiện nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia
trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều
sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.
Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại rằng, buổi
chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về
làng cũ của họ.
Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối
với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh
vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng
cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới,
mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của
thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan... Ánh sáng Phục Sinh
của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng
lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau
một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
Ðó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta
cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư?
Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy
mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
Chúa Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn:
đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng
được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
(Lẽ Sống)
Thứ Bẩy 6-4
Chân Phước Crescentia Hoess
(1682 - 1744)
C
|
Khi lớn lên, cô khao khát được gia nhập dòng Phanxicô. Nhưng tu viện thì nghèo và, Crescentia không có của hồi môn, nên các bề trên đã từ chối không nhận. Sau đó, trường hợp của cô được ông thị trưởng thành phố là một người Tin Lành can thiệp, vì nhà dòng có nặng ơn nghĩa với ông. Cả nhà dòng cảm thấy như bị ép buộc phải chấp nhận cô, bởi đó đời sống trong tu viện của cô thật khốn khổ. Cô bị coi là một gánh nặng và không được làm gì khác hơn là các công việc của người đầy tớ. Ngay cả tính tình vui vẻ của cô cũng bị cho là bợ đỡ hoặc đạo đức giả.
Bốn năm sau, tình trạng của Sơ Crescentia khá hơn khi bà bề trên mới nhận ra các nhân đức của sơ. Và Sơ Crescentia được bổ nhiệm là giám đốc đệ tử. Sơ được mọi người yêu mến và quý trọng đến nỗi, sau khi mẹ bề trên từ trần, Sơ Crescentia được mọi người tín nhiệm trong chức vụ ấy.
Dưới sự dẫn dắt của Sơ Crescentia, tình trạng kinh tế nhà dòng khấm khá hơn, và tinh thần đạo đức của Sơ Crescentia ngày càng lan rộng. Không bao lâu, Sơ Crescentia được các hoàng thân công chúa cũng như giám mục và hồng y đến xin ý kiến. Tuy nhiên, là một người con đích thực của Thánh Phanxicô, Sơ Crescentia vẫn hết mực khiêm tốn.
Tinh thần Sơ Crescentia thì vững mạnh nhưng thể xác của ngài thường đau yếu luôn. Sơ thường xuyên bị đau đầu và đau răng. Sau đó sơ không thể đi lại được, chân tay từ từ tê liệt, co quắp lại. Mặc dù đau đớn, sơ vẫn tràn đầy bình an và niềm vui khi sơ từ trần vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1744.
Sơ được phong chân phước năm 1900.
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét