Hình ảnh Thánh Cả Giuse qua các thời đại
Nhân
ngày mồng một tháng năm, ngày Quốc Tế Lao Động và cũng là ngày kính Thánh Giuse
Thợ, chúng ta thử nhìn lại hình ảnh về Thánh Cả Giuse trải qua các thời đại
trong suốt lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Giáo Hội nói riêng, và đặc
biệt trong thế giới hội họa.
Hình
ảnh về nhân thân Thánh Cả Giuse đã được hình thành qua các thời đại trong suốt
hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội rất phong phú và đa dạng. Trong thời cổ đại
đã có nhiều tác giả trình bày về Thánh Nhân, đặc biệt nhất là các tác giả:
Justin, Hieronymus, Augustinus và Gioan Chrysostomus. Còn trong thời tân đại
thì cách riêng có các tác giả: Pierre d´Ailly, Isidor de Isolanis, Vincente
Ferrer, Bernardin von Siena, Teresa von Avila, Franz von Sales, Jose Maria
Vilaseca, Josefmaria Escriva und Tarcisio Stramare (1). Sự trình bày về nhân
thân Thánh Cả Giuse của các tác giả này trước hết được dựa trên các đoạn Phúc
Âm đã viết về Thánh Nhân và tiếp đến là dựa theo truyền khẩu của Giáo Hội.
Thánh
Giuse đã được trình bày như một người lao công đầy trung tín và nhiệt thành,
một người cha tốt lành thánh thiện, một vị hôn phu hoàn toàn đặc biệt, một đấng
bảo trợ của Giáo Hội và của những người trong cơn hấp hối. Ngoài ra Thánh Nhân
còn được tuyên xưng là đấng bảo trợ trong nhiều lãnh vực khác nữa.
Cuộc
tranh cãi về thiên chức làm cha và làm chồng của Thánh Giuse trong cuộc sống
Thánh Gia Thất Na-da-rét vào thời cổ đại và thời trung cổ đã gây nên nhiều lo
ngại cho nhiều thành phần trong Giáo Hội, vì người ta sợ rằng thiên chức làm
cha Đức Giêsu của Thánh Giuse có thể làm cho thiên chức làm cha đích thực của
Thiên Chúa sẽ bị lu mờ lãng quên, và thiên chức làm chồng Đức Maria của Thánh
Nhân cũng có thể làm tổn hại và hiểu lầm cho sự đồng trinh vẹn sạch của Đức
Maria. Cũng vì thế, để tránh sự hiểu lầm đó, trong các hình ảnh về Thánh Gia
Thất Na-da-rét, Thánh Giuse thường đã được trình bày như một ông già tóc râu
bạc phơ, còn Mẹ Maria thì trẻ đẹp bên Chúa Hài Đồng Giêsu. Một hình ảnh hoàn
toàn bất cân xứng trong một gia đình, nếu không muốn nói là một xúc phạm không
những đối với Thánh Giuse mà còn đối với cả Đức Trinh Nữ Maria nữa.
Còn
thánh Augustinus đã trình bày rõ ràng điều mà chân phước Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trong thời đại chúng ta ngày nay đã khẳng định lại rằng chính gia
đình là yếu tố phải được liên kết trong mầu nhiệm „Xuống Thế làm Người“(2). Cơ
sở làm điểm tựa cho những suy luận của thánh Augustinus: „Sau cùng, chính Đức
Trinh Nữ Maria, Đấng đã biết rất rõ ràng rằng Mẹ đã cưu mang Đức Kitô không do
sự kết hợp hôn nhân, gọi Thánh Giuse là cha Đức Kitô“ (Lc 2,48) (3). Dựa trên
nền tảng chắc chắn này của Kinh Thánh, ĐGH Gioan Phaolô II đã dạy rằng thiên
chức làm cha của Thánh Giuse trong kế hoạch xuống thế làm người của Con Một
Thiên Chúa không được quan niệm chỉ là „hình thức bên ngoài“ hay chỉ là „một
cách gọi“ mà thôi, nhưng xét về mặt dân sự, thiên chức ấy mang „đầy đủ quyền
làm cha một cách hoàn toàn công khai.“ (4)
Đối
với các nhà thần học và các họa sĩ Kitô giáo thời đại tân tiến ngày nay thì ý
kiến đó là một điều tất yếu. Sự ngần ngại và do dự của một số tác giả trong
thời cổ đại và thời trung cổ kể như không còn chỗ đứng nữa. Trong các bức hình
trình bày cuộc sống đầy thơ mộng lý tưởng của Thánh Gia Thất Na-da-rét, các
danh họa Kitô giáo ngày nay đã bắt đầu trình bày Thánh Giuse như một người đàn
ông trẻ, tay cầm cành hoa huệ trắng, biểu tượng cho sự đồng trinh trong trắng,
và như một người cha gương mẫu.(5) Qua đó, Thánh Giuse được coi như một người
chồng hoàn toàn tinh tuyền vẹn sạch của Đức Trinh Nữ Maria.
Nhưng
để nghệ thuật có thể trình bày được một hình ảnh chân chính như thế về Thánh
Giuse, người ta đã phải trải qua những giai đoạn chuyển tiếp lâu dài. Trước
hết, để nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh vẹn sạch của Mẹ Maria trong đời sống
gia đình Na-da-rét, người ta đã từng trình bày Thánh Nhân như một ông già râu
tóc bạc phơ, một người mất hết ham muốn và khả năng trong đời sống chăn gối vợ
chồng, không thể truyền sinh được nữa. Và trong các bức họa trình bày ngày
Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế, Thánh Giuse thường được trình bày như một người
hoàn toàn đóng vai phụ ở „hậu trường“ của biến cố trọng đại này. Chẳng hạn
Thánh Giuse đứng dựa vào cánh tay trái, vẻ mặt đầy suy tư, có khi đang trao đổi
với ngôn sứ Isaia (6). Trong khi đó, có họa sĩ Kitô giáo khác lại trình bày
Thánh Giuse cùng đứng chung với một hay hai mục đồng, những người đôi khi được
coi như là những người „đổ thêm dầu vào lửa“, những người càng làm cho Thánh
Giuse thêm đăm chiêu hơn.(7) Tất cả những điều đó có thể làm cho người xem có cảm
tưởng rằng hình như Thánh Cả Giuse đang trong tâm trạng nghi ngờ và do dự về
nguồn gốc của Hài Nhi Giêsu!(8)
Phải
chăng qua cách trình bày của mình về sự do dự của Thánh Giuse – vốn được dựa
theo ý nghĩa thần học – các danh họa Kitô giáo này chỉ muốn nói lên rằng Đức
Trinh Nữ Maria đã cưu mang Con Một Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần
(x. Lc 1,26-38) và Mẹ đã hoàn toàn phó thác tất cả cho sự an bài của Chúa, chứ
chính Mẹ không tự thông báo cho Thánh Giuse biết về quá trình „truyền tin“ và
sự mang thai kỳ diệu bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần?
Nhưng
nếu vậy, thì quả là một điều phi lý, không lô-gích! Vì, tuy Kinh Thánh không
nói rõ, người ta sẽ tự hỏi là sau biến cố „Truyền Tin“, một biến cố không những
liên quan trực tiếp đến cuộc đời của Mẹ mà còn liên quan đến cuộc sống gia đình
với Thánh Cả Giuse nữa, Đức Trinh Nữ Maria trước tiên đã đi gặp gỡ một ai khác,
chứ không phải là Thánh Giuse? Theo tâm lý và lịch trình hợp lý của cuộc sống
thì chắc chắn rằng người đầu tiên mà Đức Trinh Nữ Maria đã đi gặp sau biến cố
„Thiên Thần truyền tin“ phải là Thánh Giuse, „một người công chính“ (Mt 1,19)
và hơn nữa, là hôn phu, là người bạn trăm năm của mình biết rõ điều Thiên Chúa
muốn thực hiện nơi Mẹ. Và tiếp đến, một điều khác cũng chắc chắn là Thánh Giuse
đã hoàn toàn tin vào lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, chứ không còn nghi
ngờ do dự về hiện tượng Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế nữa. Sự bảo đảm chắc
chắn cho lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, trước hết đó là chính Thiên
Chúa Cha đã sai Thiên Thần hiện đến giải thích và động viên Thánh Nhân trong
việc đón nhận Đức Trinh Nữ, vì Mẹ đang cưu mang Đấng Cứu Thế, Con Một của
Người, do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1,20-24). Hơn nữa, chính con người
và cuộc sống thánh thiện vẹn toàn – luôn „đầy ơn phúc thiên đàng“, luôn „ có
Thiên Chúa ở cùng“ và „luôn đẹp lòng Thiên Chúa“ của Mẹ (Lc 1,28-30) – cả là
một bảo chứng chắc chắn và khả tín nhất.
Thật
vậy, mặc dù tất cả con cái loài người vốn được cưu mang và sinh ra trong tội
lỗi, nhưng một số trong họ, chẳng hạn các vị Thánh Nhân – vì nhờ được ơn thiêng
thánh hoá, nhờ có một cuộc sống kết hiệp thần bí mật thiết với Thiên Chúa trong
kinh nguyện và nhờ sự nỗ lực trở nên hoàn thiện vượt mực của bản thân – toàn
diện con người họ đã tỏa ra một sự thánh thiện cao vời, một nhân cách đáng trân
trọng kính nể, đầy thuyết phục và khả tín. Chúng ta có thể trích dẫn trong Kinh
Thánh trường hợp thánh tổ phụ Môsê, người tôi tớ trung tín của Thiên Chúa: Sau
bốn mươi đêm ngày được diễm phúc tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trên núi
Sinai, không những tâm hồn ông đã được thánh hóa nên tinh tuyền thánh thiện
trước mặt Thiên Chúa, mà cả con người thể xác của ông cũng đã trở nên sáng láng
siêu phàm, đến nỗi con cái Ít-ra-en phải run sợ không dám đến gần ông. Mỗi lần
chính Môsê muốn gặp gỡ con cái Ít-ra-en để thông báo cho họ điều này điều kia
ông phải lấy khăn che mặt lại (x. Sh 34,29-35).
Nếu
một người phàm vốn được sinh ra trong tội lỗi và sự bất toàn như tổ phụ Môsê mà
qua sự tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trong bốn mươi đêm ngày đã được ơn
thiêng biến đổi một cách lạ lùng như vậy, thì Đức Trinh Nữ Maria, một Nữ Tỳ
hoàn toàn tinh tuyền và khả ái của Thiên Chúa, đã được kén chọn từ muôn thủa để
làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nên cũng đã được Trời Cao gìn giữ khỏi nguyên tội và mọi
tội lỗi riêng ngay từ giây phút đầu tiên khi được dựng thai trong lòng mẹ, luôn
được Thiên Chúa ở cùng, luôn tràn đầy ơn thánh, v.v… thì con người Mẹ còn tỏa
ra sự thánh thiện và sự tinh tuyền cao vời biết chừng nào! Mỗi lời nói, mỗi cử
chỉ và mỗi việc làm của Mẹ còn khả tín và có sức thuyết phục biết bao!
Một
yếu tố quan trọng khác chúng ta cũng không được phép bỏ qua, đó chính là ơn
Chúa Thánh Thần chắc chắn đã soi sáng và tác động mạnh mẽ trong tâm hồn Thánh
Giuse, để Thánh Nhân hiểu và chấp nhận chương trình an bài của thánh ý Người
đang được thể hiện nơi Đức Trinh Nữ.
Tất
cả những điều đó muốn khẳng định rằng tại máng cỏ Bê-lem trong ngày Đấng Cứu
Thế ra đời, Thánh Giuse đã hoàn toàn xác tín và không còn chút hồ nghi rằng
người bạn đời của ngài là Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa kén chọn để làm
Mẹ Đấng Thiên Sai và Trẻ Hài Nhi đang nằm trong máng cỏ kia chính là Con Thiên
Chúa, là Đấng Cứu Thế.
Theo
thiển ý, tôi nghĩ rằng các họa sĩ Kitô giáo đã trình bày nét mặt hoài nghi và
do dự của Thánh Giuse khi chính ngài mắt thấy tai nghe những sự kỳ diệu vượt
sức hiểu biết của phàm nhân đang xảy ra tại hang đá Bê-lem – Hài Nhi Giêsu tuy
được sinh ra trong cảnh cơ hàn cùng khổ, nhưng chiếu tỏa một ánh sáng siêu phàm
khôn tả, Đức Trinh Nữ quỳ chấp hai tay chìm sâu trong sự tôn thờ và yêu mến Con
Thiên Chúa mà Mẹ vừa sinh ra giữa muôn khúc nhạc réo rắt huyền diệu của ca đoàn
các Thiên Thần Chúa từ Trời xuống, v.v… – không phải Thánh Nhân hoài nghi nguồn
gốc của Hài Nhi Giêsu, nhưng chỉ muốn nói lên rằng khi cảm nhận được một cách
thực tiễn Hài Nhi Giêsu thực sự là Con Một của Đấng Tối Cao như Thiên Sứ từng
báo cho ngài biết và Đức Trinh Nữ Maria thực sự là một vị Thánh Nhân vượt lên
trên mọi Thánh Nhân khác, được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng mà không chỉ
con cái Ít-ra-en mong đợi từ hàng ngàn năm qua, nhưng còn là Đấng Cứu Thế mà
toàn thể nhân loại luôn trông ngóng đợi chờ, Thánh Giuse cảm thấy phận mình quá
hèn mọn bất xứng trước sứ mệnh quá cao cả mà Thiên Chúa muốn ngài đảm nhận, đó
là làm bạn trăm năm của Đức Thánh Trinh Nữ Maria và qua đó làm dưỡng phụ, là
cha nuôi Đức Giêsu, Con Một của Người: „Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, chớ
ngại nhận bà Maria làm vợ“(Mt 1,20). Vì thế, người ta có thể cắt nghĩa nét ngần
ngại và do dự biểu lộ trên khuôn mặt Thánh Giuse có lẽ chỉ muốn nói rằng Thánh
Nhân đang tự hỏi: Với thân phận phàm nhân yếu đuối và bất xứng của mình thế
này, làm sao mình xứng đáng phục vụ Con Thiên Chúa và Mẹ Thánh của Người, và
rồi đây làm thế nào mình có thể chu toàn được sứ mệnh cao trọng dường ấy được?
Bây
giờ chúng ta cùng quan sát một trình bày hoàn toàn đặc biệt khác về Thánh Giuse
trong thế giới nghệ thuật hội họa. Trong bức họa thời danh „Martyrologium“ tại
Tu Viện Weltenburg/Đức quốc, xuất phát từ thế kỷ XI, Thánh Giuse được trình bày
như một người hấp hối giữa muôn thần thánh đang nghiêng mình tôn kính Thánh
Nhân. Chủ đề này đặc biệt được giới nghệ thuật thánh vào thế kỷ XIX quan tâm
nhiều, nhưng dĩ nhiên dưới một hình thức trình bày mới mẻ: Người ta trình bày
Thánh Giuse đang trên giường hấp hối, có Chúa Giêsu và Mẹ Maria luôn túc trực
bên cạnh để an ủi và tiễn đưa người tôi trung của Thiên Chúa về Thiên Đàng. Bởi
vậy, Thánh Giuse không chỉ được chọn làm Đấng Bảo Trợ các gia trưởng và các gia
đình của họ, mà còn là Đấng Bảo Trợ quyền thế của các người hấp hối.
Từ
thế kỷ XVI trở đi, được khởi đầu bởi các danh họa và điêu khắc gia người Tây
Ban Nha Alonso Cano và Josê Murillo, những trình bày về Thánh Giuse luôn được
lồng vào khuôn khổ sự trình bày về Thánh Gia Thất Na-da-rét: Trong sự trình bày
Thánh Gia Thất Na-da-rét thì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse được coi như
„Ba Ngôi ở trần gian“. Đây là sự gợi ý của nhà thần học người Pháp Johannes
Gerson (1363-1429) và được rao truyền bởi nhà thần bí học người Ý thuộc Dòng
Phanxicô, thánh Bernardin von Siena OFMConv.
Đặc
biệt trong nghệ thuật điêu khắc, Thánh Giuse thường được trình bày đang bồng
Chúa Hài Nhi Giêsu trên tay hay đang cầm dụng cụ của một người thợ mộc, nhất là
khi Thánh Nhân được chọn làm Đấng Bảo Trợ của lao động và của các thợ thuyền.
Trong Sách Giáo Lý GH Công Giáo đã khẳng định rõ ràng: „Lao động là công trình
trực tiếp của những con người đã được sáng tạo nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa, và được mời gọi cùng nhau tiếp nối công trình sáng tạo khi làm chủ trái
đất.“(9) Khi sinh thời chính Chúa Giêsu cũng đã phải làm việc cật lực để sinh
sống và qua đó Người đã thánh hóa lao động, công việc sinh nhai kiếm sống của
nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhiều năm lao động
ở xưởng thợ Na-da-rét bên cạnh người dưỡng phụ mẫn cán và thánh thiện tuyệt
vời. Năm 1989, trong Thông điệp Redemptoris custos (Đấng Bảo Trợ Chúa Cứu Thế)
về con người và sứ mệnh Thánh Giuse trong đời sống Chúa Giêsu và đời sống Giáo
Hội, ĐTC Gioan Phaolô II đã viết: „Nhờ quyền năng của thần tính Người, các việc
làm theo nhân tính của Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta ơn thánh hóa, bởi vì
khi chính những việc làm ấy do có công trạng trước mặt Thiên Chúa hay do đã tạo
nên được thành quả rõ ràng nhất định, thì chúng đã mang lại ơn thánh trong ta.“
(10)
Vào
năm 1870 khi Đức Giáo Hoàng Piô IX tôn phong Thánh Giuse làm Đấng Bảo Trợ Giáo
Hội, Thánh Nhân đã đặc biệt được các tín hữu tin tưởng khẩn cầu và phó thác
công cuộc truyền giáo của Giáo Hội dưới sự cầu thay nguyện giúp của Thánh Nhân.
Nếu thế, trong Năm Đức Tin này (2012-2013) chúng ta càng cần phải phó thác công
trình tân Phúc Âm hóa và cả chính Giáo Hội cho sự bầu cử đắc lực của Thánh Cả
Giuse trước tòa Đức Kitô, hầu Giáo Hội có thể chu toàn được sứ mệnh của mình và
để các tín hữu có thể tuyên xưng đức tin Kitô giáo của mình „một cách đầy đủ
trọn vẹn và với sự xác tín mới, với sự tin tưởng phó thác và với niềm hy vọng“
(11). Đó chính là sự xác tín sâu xa và cách thức sống đức tin chân chính của
Thánh Cả Giuse, một người công chính, trước bao thử thách vô cùng khó khăn,
nguy hiểm khi ngài phải tìm mọi cách để che chở bảo vệ tuyệt đối cho sự sống
còn của Hài Nhi Giêsu và của Mẹ Người khỏi mọi đe dọa từ mọi phía và cả chính
trong cuộc sống cực kỳ nghèo khổ và vất vả của Thánh Gia Thất tại Na-da-rét.
Theo
thiển ý, tôi xác tín rằng, với một đức tin mạnh mẽ và một lòng tin tưởng phó
thác tuyệt đối như thế vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse còn
xứng đáng được tôn xưng với tước hiệu „Cha của những người tin“ hơn cả tổ phụ
Áp-ra-ham nữa (x. Rm 4,11b). Bởi vì, Thánh Nhân đã luôn mau mắn tuân phục và
thực thi mọi lời Thiên Thần Chúa phán bảo cùng ngài, chứ không một chút trù trừ
do dự (x. Mt 1,24; 2,13-14; 19-21). Trong Thông điệp „Redemptoris hominis“ của
ngài, chính ĐTC Gioan Phaolô II cũng đã viết: „Rập đúng theo khuôn đức vâng
phục nguyên thủy và cơ bản của đức tin, Thánh Cả Giuse đã luôn mau mắn và vui
vẻ chu toàn thánh ý Thiên Chúa, mà nhiều lần Thiên Thần đã loan báo cho
ngài.“(12)
Vào
năm 1963, khi triệu tập Công Đồng chung Vatican II, ĐTC Gioan XXIII đã tôn
phong Thánh Cả Giuse làm Đấng Bảo Trợ Công Đồng và phó thác mọi công việc của
Công Đồng cho sự bầu cử chở che của Thánh Nhân, ĐTC viết: „Chúng ta luôn luôn
cần đến sự dìu dắt của Thánh Cả Giuse (…); Thánh Nhân là Đấng đã được Thiên
Chúa đặt làm người dìu dắt và che chở Thánh Gia Thất Na-da-rét“(13). Thánh
Giuse, một đàng, là vị Quan Thầy và là người dẫn đường của Giao Ước mới và, một
đàng khác, là Đấng hằng cứu giúp tất cả những ai kêu cầu đến ngài. Đó chính là
lý do mà Đức Giáo Hoàng Piô IX, vị Giáo Hoàng của các tín điều „Vô Nhiễm Thai“,
của „Quyền Tối Thượng và Bất Khả Ngộ của Đức Giáo Hoàng“, vào ngày 8.12.1870,
ngày đại lễ Vô Nhiễm Thai của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã khẳng định
rằng các Giám Mục và tất cả các tín hữu trong toàn Giáo Hội cần phải được phó
thác cho sự che chở bảo trợ thần thế của Thánh Cả Giuse(14).
Tiếp
đến, Đức Giáo Hoàng Leô XIII, Đấng kế vị Đức Piô IX, cũng là một vị Giáo Chủ
của Giáo Hội rất có lòng sùng kính Thánh Cả Giuse, đã kêu gọi tất cả mọi tín
hữu trong toàn Giáo Hội hãy luôn tin tưởng khẩn cầu cùng Thánh Cả Giuse, vì
Thánh Nhân là Đấng đã được Trời Cao kén chọn để chăm sóc gìn giữ Con Một Thiên
Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thánh của Người với một tình yêu bao la và một
sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cũng vậy, chớ gì Thánh Cả Giuse cũng che chở và
dìu dắt toàn thể Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng.(15)
Trong
Tự Sắc „Porta fidei“ (Cánh Cửa Đức Tin), được công bố ngày 11.10.2011, ĐTC
Bênêđíctô XVI đã viết: „Trông cậy vào Thánh Cả Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ Maria,
Đấng đã mang Chúa Hài Đồng Giêsu lánh nạn sang Ai-cập, hầu để cứu Hài Đồng
thoát khỏi sự ruồng bố của bạo vương Hê-rô-đê“(16) chúng ta hãy bước đi trên
con đường Thiên Chúa đã tiền định cho mình một cách tin tưởng vững vàng. Vâng,
chúng ta hãy bước đi vững vàng trong sự trông cậy tuyệt đối vào Thiên Chúa và
trong niềm hy vọng vào sự che chở của „Ba Ngôi ở trần gianQuốc Tế. “
Giêsu,
Maria và Giuse, xin cứu giúp chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm
tử. Amen
_______________
1. Einen Überblick über die Verehrer des
hl. Josef finden wir u.a. bei: H.Rondet, „Joseph von Nazareth“, Freiburg 1956,
trong: „St Josef – Zeugnisse der Kirche über ihren Schutzpatron“, Verlag St.
Josef, Kleinhain 2004 và nơi tác giả C.Carrillo Ojeda, „El patronato de San
José sobre México“, Centro de investigación y estudio sobre de San José, Mexico
2004.
2. Gioan Phaolô II, Thông điệp „Redemptoris
custos“, công bố ngày 15.8.1989, số 21.
3. Augustinus, Sermon 51, 10,16; PL 38,
342; xem tiếp “De nuptiis et concupiscentiae I”, 11,12; PL 44, 42; “De consensu
evangelistarum II”, 1,2; PL 34,107 và “contra Faustum III”,2; PL 42,214.
4. Thông điệp “Redemptoris custos”, số 21.
5. Xem G. Kaster trong: “Lexikon der
christlichen Ikonographie”, Band 7: Josef von Nazareth ,
Col. 210-215, Freiburg 1994.
6. P. Miklia de Dotega, „Ikonen und
Mysterium – Die geistliche Botschaft der Bilder“, St. Pantaleon – Köln 1996,
trang 70.
7. Xem Miklia de Dotega, o.z.: „Handbuch
der Ikonenkunst“, Slavisches Institut München, trang 200 và 203, München 1966;
H. Skrobucher, „Ikonen aus der Tschechoslowakei“, Bild 19, Prague 1971; D.
Wild, „Ikonen“, Tafel V, Stuttgart 1974; J.E.Tavlakin, theological commtary von
N.C.Lavrietis, „The nativity of Christ in Athonite Art“, Thessaloniki 2000,
trang 134..
8. Xem B.G.Kaster, trong: „Lexikon der
christlichen Ikonographie“, Band 2, o.z., Col. 86/12 và 129.
9. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số
2427.
10. Thông diệp „Redemptoris custos“, số 27.
11. Đức Bênêđíctô XVI, Tự Sắc “Porta fidei”,
ngày 11.10.2012, số 9.
12. Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp
“Redemptoris hominis”, số 3/17-19. Trích từ G. Rovira, “Der hl. Josef – Vater
und Ehemann“, Fe-Medienverlag, Kisslegg 2005, trang 66.
13. Johannes XXIII, Ansprache am 8.12.1962:
AAS 55 (1963) 41.
14. Pius IX., AAS 6 (1870-71) 194.
15. Leo XIII, Thông điệp „Quamquam pluries
von 8.12.1884“, AAS 22(1889/90).
16. Tự Sắc „Porta fidei“, số 13.
(Ngày
Lao Động Quốc Tế - Thánh Giuse Thợ, 01.05.2013)
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét