Thứ Năm Ngày 27/06/2013
Thứ Năm Tuần XII Thường
Niên – Năm C
St 16,12 |
BÀI ĐỌC I: St 16, 1-12. 15-16
"Agar đã sinh cho
Abraham một con trai và ông gọi nó là Ismael".
Trích sách Sáng Thế.
Bà
Sarai vợ ông Abram không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là
Agar, bà đã nói cùng ông rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy
ăn ở với nữ tỳ của tôi, may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe
theo lời bà Sarai. Đã mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai
chọn Agar, người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở
với nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng
Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào
tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa
tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền
bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng
trốn đi.
Thiên
thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong
hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu
đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi".
Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục
bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều
không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ
sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự
khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người
và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar
đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi
Agar sinh Ismael. Đó là lời Chúa.
Hoặc
bài ngắn này:
St 16, 6-12.
15-16
Abram
trả lời Sarai rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với
nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần
Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong
hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu
đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi".
Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục
bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không
thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh
một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn
khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi
người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã
sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi
Agar sinh Ismael. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5
Đáp: Hãy ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
1)
Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai
nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi
khen Người? - Đáp.
2)
Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công
chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Đáp.
3)
Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc
những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh
diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước
Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 7, 21-29
"Nhà xây trên nền
đá và nhà xây trên cát".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói
với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực
hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều
người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân
danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm
nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề
biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'.
"Vậy
ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn
ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có
thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá.
Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như
người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào
nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi
Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì
Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của
họ. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Thực thi ý Chúa
Mẹ
Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười
rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ
chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm
việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các
chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi
rồi".
Mẹ
Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả
quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là
công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống
bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi,
hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin
Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.
Tin
Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng,
đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai
ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể
làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không
chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên
cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực
hành.
Tin
Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý
không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi
miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng
là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên
Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành
con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm
nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao
giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón
nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người
không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập
Thể của Ngài.
Không
thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ
Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng
những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên
hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn
là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm
một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ
bằng cuộc sống trung thực mà thôi.
Nguyện
xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng
trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho
đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng
ta là môn đệ đích thực của Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 12 TN1, Năm lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải
thực hành Lời Chúa.
Con
người hay bội hứa, quên thề; Thiên Chúa luôn trung tín. Con người hay thay đổi;
Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Con người nghĩ để sống sót, họ cần phải tiêu
diệt đối phương. Thiên Chúa chứng minh, Ngài có quyền năng làm cho tất cả hiện
hữu chung: Do-thái Giáo, Kitô Giáo, và Hồi Giáo, đều đã được Thiên Chúa chúc
lành và có thể sống chung với nhau. Để Lời Chúa có thể sinh ích, con người
không chỉ cần lắng nghe, mà còn phải thực hành Lời Chúa dạy. Nếu con người chỉ
biết trên lý thuyết mà không chịu thực hành trong đời sống, Lời Chúa có ích chi
cho con người đâu!
Các
Bài Đọc hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con
người; giữa cách cư xử của Thiên Chúa và cách cư xử của con người. Trong Bài
Đọc I, bà Sarai, khi thấy mình không được Đức Chúa cho sinh con, đã hiến người
hầu, Hagar, cho Abram để ông có con nối giòng. Khi Hagar có con với Abram, nàng
lại coi thường và khinh khi bà chủ. Bà Sarai tức giận và đối xử nhẫn tâm với
Hagar đến nỗi nàng phải trốn đi; nhưng sứ thần Thiên Chúa đã hiện ra và loan
báo cho nàng biết: Thiên Chúa cũng sẽ chúc lành cho giòng dõi của Ismael, con
nàng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Nước Trời chỉ dành cho ai nghe và giữ
Lời Chúa.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Ta sẽ làm cho giòng dõi ngươi sinh sôi thật nhiều đến mức không thể
đếm được.
1.1/
Con người hay thay đổi: Truyền thống Do-thái và hầu hết truyền thống Á-đông đều có thái
độ coi thường người phụ nữ có chồng mà không sinh cho chồng được người con để
nối dõi tông đường (I Sam 1:5-6). Trong trường hợp như thế, người vợ thường sẽ
hy sinh để chồng ăn ở với vợ lẽ hay nàng hầu để có con nối dõi cho chồng.
(1)
Phản ứng của bà Sarai: Trình thuật hôm nay liệt kê một trường hợp điển hình: "Bà
Sarai, vợ ông Abram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một
người nữ tỳ Ai-cập, tên là Hagar. Bà Sarai nói với ông Abram: "Ông coi:
Đức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi;
may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Abram nghe lời bà Sarai, ông ăn ở với
nàng hầu, Hagar, và nàng đã mang thai. Bà Sarai tức giận với nàng hầu có thể vì
hai lý do: (1) Khi ông Abram tỏ cử chỉ yêu thương với Hagar. Điều này có thể
hiểu được vì không ai muốn san sẻ tình yêu vợ chồng cho người khác; và (2) Nàng
Hagar có những cử chỉ khinh thường bà. Dù sao chăng nữa, bà Sarai cũng có lỗi,
vì bà phải biết những chuyện này không thể không xảy ra.
(2)
Phản ứng của nàng hầu Hagar: Phản ứng này có thể hiểu được, vì là phản ứng của đa số
con người: khinh thường những người có chồng mà không có con. Hơn nữa, nàng
đang ở địa vị của nữ tỳ, bỗng nhiên trở nên bà chủ và được Abram thương mến, vì
làm cho ông có con nối dõi tông đường, nên nàng càng có thái độ khinh thường và
xỉ nhục chủ mình. Nàng Hagar khôn nhưng không ngoan; nếu nàng biết nhận ra tình
thương của ông Abram và bà chủ Sarai, và khiêm nhường đáp lại, nàng đã không bị
Bà đuổi ra khỏi nhà.
(3)
Phản ứng của ông Abram: Ông nhận ra sự quan tâm của vợ và thái độ khinh thường vợ mình
của Hagar; nhưng ông bị kẹt vào thế ở giữa, bênh bên nào cũng không được. Khi
nghe Bà Sarai than thở, ông Abram nói với bà Sarai: "Nữ tỳ của bà ở trong
tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Thế là Bà Sarai
hành hạ Hagar đến nỗi nàng phải trốn khỏi Bà.
1.2/
Lời hứa của Thiên Chúa luôn vững bền: Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác với
cách đối xử của con người. Ngài có thể chúc lành cho cả bà Sarai lẫn nàng hầu
Sarai, cho giòng dõi của Sarai và của Hagar. Vì thế, Thiên Chúa sai sứ thần của
Ngài đến gặp Hagar, và khuyên nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ
bà ấy... Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được
vì quá đông."
Lời
hứa về giòng dõi của Hagar: Sứ thần của Đức Chúa nói với nàng: "Này đây
ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai và sẽ đặt tên là Ismael, vì Đức Chúa
đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi. Con người đó đúng là một con lừa hoang, nó giơ
tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả
anh em nó." Lời hứa này cho chúng ta thấy cả Hồi Giáo và Do-thái Giáo đều
nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Ismael là tổ phụ của những người Hồi
Giáo và cũng được Thiên Chúa chúc lành. Isaac, đứa con Thiên Chúa ban cho Abram
sau này, là tổ phụ của những người Do-thái và được Thiên Chúa chúc lành qua tổ
phụ Abram. Lời sấm của sứ thần vẫn đang ứng nghiệm: giòng dõi của tổ phụ
Abraham (Do-thái, Hồi Giáo, và Kitô Giáo) chiếm quá nửa dân số trên địa cầu; và
mối thù truyền kiếp giữa Do-thái và Hồi Giáo vẫn đang xảy ra.
2/
Phúc Âm: Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi.
2.1/
Nước Trời không dành cho những ai chỉ biết nói yêu mến Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố
rõ ràng tình yêu phải được biểu tỏ bằng việc làm: "Không phải bất cứ ai
thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào
mà thôi.'' Một người ngây thơ có thể tin vào những lời đường mật của người dẻo
miệng lưỡi ca tụng; nhưng không ai có thể đánh lừa Thiên Chúa bằng những lời
tán tụng ngoài miệng, vì Ngài thấu suốt mọi ý hướng của con người.
2.2/
Nước Trời chỉ dành cho những ai thực hành Lời Chúa dạy: Để dẫn chứng tầm quan
trọng của việc thi hành Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ mà mọi người đều
hiểu.
(1)
Xây nhà trên đá: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì
ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập
vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.'' Nhà xây trên nền đá,
tuy khó làm lúc đầu, nhưng sẽ chịu đựng được mọi thay đổi của thời tiết sau
này.
(2)
Xây nhà trên cát: ''Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực
hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay
bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành." Nhà xây trên cát rất
dễ làm lúc đầu, nhưng không chịu đựng nổi những đe dọa của thời tiết; chỉ cần
một cơn sóng gió nhỏ cũng đủ cuốn trôi nhà ấy.
Cuộc
đời con người cũng thế: Nếu họ chịu xây dựng cuộc đời của họ trên nền tảng của
Lời Chúa, tuy khó khăn lúc đầu, nhưng sẽ giúp họ đứng vững trước bất kỳ cơn
phong ba bão táp nào của cuộc đời. Nhưng nếu họ không chịu xây dựng cuộc đời
trên nền tảng Lời Chúa, họ sẽ bị cuốn hút, và không thể nào thắng vượt được
những cơn lốc của thế gian, và bẫy giăng của ma quỉ.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải luôn biết lấy tình thương Thiên Chúa để đối xử với nhau trong mọi
hoàn cảnh: khi thịnh vượng cũng như lúc nghèo khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc
yếu đau, khi vinh quang cũng như lúc đau khổ; vì đó là lệnh truyền của Thiên
Chúa.
-
Tri hành đồng nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nếu chúng ta không thực
hành những gì Thiên Chúa dạy, lời khôn ngoan cách mấy cũng chẳng giúp được gì
cho chúng ta; nhưng nếu chúng ta kiên nhẫn mang Lời Chúa ra áp dụng vào cuộc
sống, Lời Chúa sẽ sinh rất nhiều lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 12 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu
mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Thứ Năm :
Mt 7,21-29
A. Hạt giống...
Từ Thứ Hai tuần 9 đến hôm nay, chúng ta lần
lượt đọc Bài giảng trên núi trong đó Chúa Giêsu công bố hiến chương Nước Trời,
rồi dạy cho những người muốn làm công dân Nước Trời biết cần phải có những đức
tính và những điều kiện nào. Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết của Bài giảng
trên núi ấy. Trong đoạn nay, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng cơ bản :
phải đem ra thực hành những điều đã nghe :
- "Không phải những người nói ‘Lạy
Chúa lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha
Thầy trên trời mới được vào Nước Trời".
- Kẻ nghe và thực hành thì giống như người
xây nhà trên nền đá vững chắc, kẻ chỉ nghe nhưng không thực hành giống như
người xây nhà trên cát.
B.... nẩy mầm.
1. "Lạy Chúa, lạy Chúa", đó là
công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa Giêsu khẳng định rằng ngay cả việc đọc
kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để đưa tôi vào Nước Trời ; có một việc quan trọng
hơn, thậm chí quan trọng nhất, đó là thực hành ý Chúa Cha.
- Hằng ngày tôi lấy làm thoả mãn khi đã
tham dự đầy đủ các giờ đọc kinh cầu nguyện.
- Ngay trong lúc đọc kinh cầu nguyện, tôi
cũng không quan tâm tìm hiểu xem ý Chúa muốn tôi làm gì.
2. Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm
để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy
và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ cười cười
không đáp. Sau cùng ông nhân danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói
thật như sau :
- Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện
buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông
hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông
còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa, tôi khó mà cám
dỗ ông được (Góp nhặt).
3. Người đã đọc kinh cầu nguyện nhiều nhưng
không quen làm theo ý Chúa thì cũng như xây nhà trên cát. Khi gặp hoàn cảnh thử
thách khó khăn, tòa nhà đạo đức của người đó sẽ sụp đổ tan tành.
4. "Ai nghe những lời Thầy nói đây mà
đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá" (Mt
7,24)
Bầu khí ồn ào của nhà bên cạnh làm
tôi chú ý.
"Mẹ nói hoài sao con không nghe, bây
giờ phải ráng chịu. Thật đúng là "cá không ăn muối cá
ươn".
Lát sau, tôi mới hiểu cô bé nhà bên mới thi
rớt. vì ham chơi, đua đòi với chúng bạn nên cô đã không nghe lời cha mẹ khuyên
bảo, hoặc có nghe nhưng rồi đâu cũng vào đấy, chừng nào tật ấy
Cũng như cô bé này, tôi nghe lời Chúa mỗi
ngày nhưng tôi chẳng có để tâm thi hành.
Xin Thánh Thần Chúa xuống trên con, dạy con
biết lắng nghe lời Chúa, nhận ra Thánh ý Ngài và cố gắng thi hành trong đời
con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp.Cần Thơ
27/06/13 THỨ
NĂM TUẦN 12 TN
Th. Syrilô, giám mục Alêxanri, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 7,21-29
Th. Syrilô, giám mục Alêxanri, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 7,21-29
LÀM ĐIỀU TỐT CHÚA MUỐN
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được
vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự
trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21)
Suy niệm: Một nhà tu đức vạch ra một
trong âm mưu của ma quỷ không phải là cám dỗ ta làm điều xấu mà là cám dỗ ta
làm điều tốt, nhưng không phải là điều tốt Chúa muốn. Lời Chúa hôm nay cảnh báo
cho ta điều đó. Nếu chỉ siêng năng “đọc kinh, xem lễ”, tham dự những lễ nghi
long trọng mà thiếu việc “thi hành ý của Cha Thầy, Đấng
ngự trên trời” thì chưa đủ để vào Nước Trời,
mà trái lại còn đáng bị Chúa gọi là“phường gian ác” và bị đuổi đi “khuất mắt Chúa.” Thi hành ý Chúa Cha không phải
là cứ làm bất kỳ điều gì mình cho là tốt mà là làm điều tốt Chúa Cha muốn. Chúa Giêsu nêu gương cho
chúng ta khi Ngài từ khước ý riêng mình để chọn con đường cứu độ bằng thập giá
như ý Chúa Cha muốn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin
cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý
Cha” (Mt 26,40).
Mời Bạn: Chúng ta phải luôn cảnh giác
trước những cám dỗ êm dịu là pha mình vào nhiều hoạt động xét khách quan không
xấu, thậm chí còn rất tốt nữa. Thế nhưng đó có thể là những điều tốt giả bởi vì
không phải là điều tốt Chúa muốn. Trong tình huống có nhiều chọn
lựa mà chọn lựa nào xem ra cũng tốt, thì điều gì giúp chúng ta giống với Chúa
Kitô vác thập giá nhất đó chính là điều tốt mà Chúa muốn chúng ta thực hiện.
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm mỗi ngày: Hôm nay tôi
có làm điều tốt giả nào không? Động lực nào khiến tôi làm thế?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con
được bắt chước Chúa luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Amen.
Xây
trên nền đá
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận bằng cách sống trọn
vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Suy niệm:
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng
quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép
lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ
đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh
thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những
điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc
chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay
chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để
biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy
Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan
trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng
ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những
lời Thầy nói đây” (c. 24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn
đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của
Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi
không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những
người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những
điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ
nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh
phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi.
Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục
Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của
Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung
kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con
thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn
không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều,
nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước
dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền
cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng
vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi
nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn
phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá
cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng
ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường
dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ
biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại
không dám đem ra thực hành.
Chính vì
thế
Lời Chúa
chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời
hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để
nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt
giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây
trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời
Chúa,
Lời chi
phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con biết
Chúa là Đấng “thấu suốt mọi bí ẩn”, Ngài cần nội dung bên trong chứ
không phải những hình thức bên ngoài; là dịp để con xem lại những hành động của
con có xuất phát từ lòng yêu mến Chúa hay chỉ là những việc làm vô hồn, hay
thậm chí là việc phô trương công đức nữa.
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với
Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy
Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà
trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lại đó sao”(Mt 7,22). Nhưng Chúa
lại cho đó là những “điều gian ác”. Tại sao việc nói tiên tri, việc trừ
quỷ, việc làm phép lạ lại là “điều gian ác”? Thưa gian ác không phải bởi
những việc đó, nhưng bởi những con người làm việc đó một cách gian ác.
Có những hành động xem ra là đạo đức, nhưng
lại xuất phát bởi ý đồ xấu xa. Ví dụ như Chúa đã từng lên án những kinh sư và
những người Pharisêu giả hình: “Các
ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu
giờ” (Mt 23,14). Việc đọc kinh cầu nguyện là tốt, nhưng những biệt phái và
Pharisêu đã sử dụng để “nuốt
hết tài sản của các bà góa” khiến
Chúa phải kinh tởm. Việc tham gia vào các hội đoàn trong họ đạo là tốt, nhưng
có người tham gia để được lợi lộc riêng cho mình, hoặc có người nói thẳng: tôi
vào đó để phá cho tan tành. Việc học giáo lý để vào đạo là tốt, nhưng có người
học đạo để được cưới vợ lấy chồng, để rồi sau đó tuyên bố thẳng thừng: “Con
tin có Chúa Ba Ngôi, con cưới được vợ con thôi nhà thờ”… Vì vậy điều chính
yếu không phải là những việc con làm, mà là động lực, là cách thức con làm.
Trong một cuộc lễ, có người nằm trong ban
tổ chức, có người ban tiếp tân, có người ban phụng vụ… nhưng cũng có người âm
thầm đi dọn dẹp vệ sinh ở những Toilet. Có người đứng ở nơi công cộng để chỉ
cho người khác biết nhà vệ sinh ở đâu, phòng y tế chỗ nào… Những việc đó xem ra
tầm thường đấy chứ, nhưng nếu họ làm với tất cả tình yêu thì cũng có giá trị
ngang hàng với những việc lớn lao khác; thậm chí giá trị hơn vì đó là những
việc không ai để y tới. Điều đẹp lòng Chúa là trong tất cả mọi việc con làm như
thể thánh ý Chúa.
Khi con làm mọi việc trong tình yêu thì
giống như con đang xây nhà trên đá. Còn nếu con làm vì bất cứ động lực nào khác
mà không bởi tình yêu Chúa thì cũng như con xây nhà trên cát, có hoành tráng,
có đẹp đẽ đến mức nào thì cũng sẽ sụp đổ khi phong ba bão táp ập vào.
Lạy Chúa, một ngày sống với biết bao công
việc. Có những việc bổn phần con phải làm. Có những việc đột xuất con phải giải
quyết . Có những tình huống xảy ra con can thiệp cũng được, con đứng nhìn cũng
chẳng sao. Tất cả những việc đó sẽ chẳng có giá trị gì thậm chí còn là hình
phạt cho con nếu con làm theo những thúc đẩy tầm thường của trần gian, hoặc như
dịp để con khoe khoang công trạng, thậm chí tìm lợi ích cho riêng mình. Nhưng
nếu con làm với một động lực hết sức đơn giản là vì Chúa muốn tôi làm vậy thì
sẽ là những việc phi thường và đem đến ơn cứu độ cho con. Phi thường không phải
vì công việc, nhưng vì động lực và cách con làm.
Xin cho con được lòng mến yêu chân thành.
Amen.
Lm. Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Sáu
27 THÁNG
SÁU
Trong Sự Chăm Sóc Ân
Cần Của Cha
Ngay từ
thuở ban đầu, sự quan phòng của Thiên Chúa được xem như một chân lý nền tảng
của đức tin. Huấn quyền của Giáo Hội luôn luôn khẳng định điều ấy, tuy rằng mãi
đến Công Đồng Vatican
I chân lý này mới được tuyên bố chính thức về mặt tín lý. Công Đồng nói về sự
quan phòng của Thiên Chúa nơi tạo vật: “Mọi sự mà Thiên Chúa đã sáng tạo, Ngài
gìn giữ và dẫn dắt bằng sự quan phòng của Ngài – sự quan phòng ấy bao trùm từ
chân trời này tới chân trời kia và cai quản tất cả một cách tốt đẹp” (Kn 8,1),
“Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài (Dt 4,13), kể cả những gì sẽ
xảy ra do sáng kiến tự do của các thụ tạo” (DS 3003).
Bản văn của
Vatican
I nhằm đáp ứng cho những nhu cầu cụ thể của các tín hữu Công Giáo sống trong
thế kỷ 19. Trước hết, Công Đồng muốn xác nhận giáo huấn vốn sẵn có của Giáo Hội
về sự quan phòng, một giáo huấn bất biến có liên kết chặt chẽ với toàn bộ sứ
điệp Thánh Kinh. Chúng ta nhận ra điều này trong những bản văn Cựu Ước và Tân
Ước đã được trích dẫn trong bản văn của Công Đồng.
Qua việc
xác nhận giáo thuyết này, Công Đồng chống lại những sai lạc của thuyết duy vật
và thuyết tự nhiên thần giáo (deism) của thế kỷ 19. Thuyết duy vật phủ nhận sự
hiện hữu của Thiên Chúa. Thuyết tự nhiên thần giáo tuy nhìn nhận sự hiện hữu
của Thiên Chúa và sự sáng tạo thế giới song lại chủ trương rằng Thiên Chúa
không hoạt động trong thế giới mà Ngài đã sáng tạo. Vì thế, có thể nói rằng
thuyết này (deism) trực tiếp chống lại chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
27-6
Thánh
Cyrillô Alexandris, tiến sĩ Hội Thánh
St
16,1-12.15-16; Mt 7, 21-29
LỜI SUY NIỆM: “Vậy ai
nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây
nhà trên đá” (Mt7,24)
Trong
cuộc sống của mỗi con người, đều đã gặp nhiều chủ thuyết, nhiều giáo thuyết
muốn hướng dẫn, muốn lôi kéo con người theo. Nhưng tất cả đó chỉ là do con
người nghĩ ra, hay là do óc suy diễn của con người mà có. Còn Giáo Huấn của
Chúa Giêsu phát xuất từ Thiên Chúa, từ tình yêu cứu độ của Ngài. Nên Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta khi nghe lời của Ngài, thì phải đem ra thực hành. Cuộc đời của
người Ki-Tô hữu phải xây dựng trên một nền tảng đó là Lời Chúa. Muốn xây dựng
trên nền tảng này, chúng ta phải luôn học hỏi Lời Chúa với một lòng chân thành,
tin, vâng phục và cầu nguyện. Nếu chúng ta không xây dựng trên nền tảng học
hỏi, tin và vâng phục Lời Chúa. Thì khi biến cố đến, đời sống của chúng ta sẽ
bị sụp đổ, và sụp đổ tan tành.
Mạnh
Phương
Gương Thánh nhân
Ngày
27-06
Thánh
CYRILLÔ ALEXANDRINÔ
Giám
Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (+444)
Năm
412 thánh Cyrillô kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria . Khi ấy Ngài đã vào khoảng trung
tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp, Ngài
có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã có
thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn chương
Hy Lạp.
Vào
thế kỷ V, các giáo phụ Alexandria
đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc. Trở thành
Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc của
mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng kế
nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.
Suốt
15 năm đầu làm giám mục, thánh Cyrillo đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà
đổi tiền Do thái ở Alexandria .
Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh hoạn cũng như lòng
thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn kèm theo một chút
cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhiệt
tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài sẵn sàng dùng đến
mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần chúng và lực lượng
các thầy dòng.
Điều
này giúp chúng ta hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một
vai trò lớn lao đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.
Năm
438, thày dòng Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople .
Dường như ông ta đã làm giám mục tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào
hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc
thuyết. Đàng khác, không chắc rằng ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế
kỷ V, các thần học gia đền nhận rằng: đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con
người. Dầu vậy chưa có định tín về mối tương quan giữa Thiên tính và nhân tính
của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ trương rằng: cả hai bản tính kết hợp
mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà
thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.
Thánh
Cyrillo liên kết với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ
và cử làm Vị đại diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án
Nestôriô là lạc giáo tại một hội nghị ở Alexandria .
Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng chung ở Ephesô. Nestôriô
không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức trinh Nữ được tuyên xưng là
Mẹ Thiên Chúa.
Công
đồng Ephêsô được Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận
vì thánh Cyrillo đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp.
Thánh Cyrillo bị bắt ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia
và các người dưới quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập
và năm 433 kết hợp lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp
nhận các sắc lệnh của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi
Ngài qua đời vào năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận
Kitô học này cho đến chết.
Không
có nhà thần học Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và
nhận định có thể so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị
phê bình tàn khốc như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như
Ngài. Cả những người ghen ghét cũng không thề chất vấn về sự cao cả của Ngài.
Bên dưới sự hăng hái của Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với
niềm tin mãnh liệt vào lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng
tụng Ngài là đấng bảo vệ Giáo hội và Đức tin".
(daminhvn.net)
27 Tháng Sáu
Con Chim
Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể câu
chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng
trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải
đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám người
đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến. Nghe
tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng
kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. anh đặt
câu hỏi như sau: 'Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc
thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm
trong tay sống hay chết?".
Nhà hiền triết biết đây
là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con
chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở
bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh
ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng,
trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau:
"Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu
ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó
chết".
Ai
trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được
cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo
của hạnh phúc hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng
ta. Hạnh phúc đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong
lòng tay. Con chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được
hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh
phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên
Chúa. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa
lấp đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm
thấy an bình, hạnh phúc.
Ý
thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư,
lấy Chúa làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.
(Lẽ Sống)
Thứ Năm 27-6
Thánh Cyril ở Alexandria
(376?-444)
T
|
hánh Cyril sinh ở Alexandria , Ai Cập.
Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria . Sau khi học xong kinh điển và
thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức
Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức
Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của
mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi
lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các
nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành
động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của
Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức
Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ
theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục
được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án
Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria .
Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất
phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai
trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo
thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và
bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy
mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế
Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả
tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định
của công đồng.
Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn
hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius.
Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết
về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius
và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria . Văn bút của
ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén.
Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ
Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét