CHÚA NHẬT
08/09/2013
Chúa Nhật XXIII Mùa
Thường Niên năm C
(Phần 1)
BÀI ĐỌC I: Kn 9, 13-18
"Ai có thể suy tưởng được
sự Thiên Chúa muốn".
Trích sách Khôn
Ngoan.
Ai
trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng
được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những
dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn
ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng
tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự
trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh
ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ
trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng,
và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.
Vì,
lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự
khôn ngoan. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Đáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ
chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên
nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa
khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con
người". - Đáp.
2) Chúa khiến họ
trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ
nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Đáp.
3) Xin dạy chúng
con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa,
xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Đáp.
4) Xin cho chúng
con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống
chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự
nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay
chúng con làm ra. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Plm 9b-10. 12-17
"Con hãy tiếp nhận nó
không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến".
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con
thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Đức Giêsu Kitô, cha nài xin
con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha
trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha
cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì
Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa
con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời
gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng
thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống
chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn
hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia!
- Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo
Ta". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 14, 25-33
"Ai không từ bỏ tất cả của
cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng:
"Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống
mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta,
thì không thể làm môn đệ Ta.
"Có
ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần
thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì
mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không
hoàn thành nổi'.
"Hoặc
có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy
nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai
mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở
xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi
không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta". Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Quyết tâm từ bỏ tất cả để
vác thập giá của mình
Nếu chúng ta đã chú
ý lắng nghe Lời Chúa, chắc chắn không ai có thể yên tâm được. Lời Người đòi hỏi
rõ ràng quá! Người dạy: phàm ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình đi hết
thảy, thì không thể làm môn đệ của Ta. Ấy là chúng ta mới chỉ nhắc lại một Lời
của Người đó thôi. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói: Kẻ nào đến với
Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa, ắt
không thể làm môn đệ của Ta. Những lời này phải hiểu thế nào đây? Không lẽ hiểu
theo nghĩa đen; và như vậy thi hành thế nào được, vì kìa có ai làm như thế đâu?
Các tu sĩ khổ hạnh cùng lắm cũng chỉ từ bỏ được của cải; nhưng họ đâu có ghét
cha ghét mẹ. Ðàng khác Chúa không dạy phải thảo kính cha mẹ ư?
Do đó, Lời Chúa phải
hiểu theo cách thức nào đây? Chúng ta muốn tìm một lối giải thích. Nhưng ý tứ,
bài sách Khôn ngoan bảo chúng ta phải coi chừng.
1. Ai Nghĩ Ra Ðược Chúa Muốn Gì?
Quả thật tác giả là
người khôn. Ông sống khoảng 100 năm trước Ðức Giêsu Kitô. Thời ấy người Do Thái
tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, nổi tiếng có nền triết học thâm thúy. Chắc chắn
người Hy Lạp coi rẻ văn chương Do Thái, như dân mẫu quốc khinh khỉnh đối với
sách vở của dân thuộc địa. Và chính nhiều người Do Thái cũng đâm ra mặc cảm,
không thấy Sách Thánh của mình có giá trị tuyệt đối nữa, và xét theo nhiều
phương diện còn kém tư tưởng của các nhà triết học. Chính trong bối cảnh lịch sử
ấy nẩy sinh loại văn chương khôn ngoan trong bộ Kinh Thánh. Nhiều học giả đạo đức
trong dân Chúa đã được Chúa soi sáng và hướng dẫn để giúp anh em tín hữu biết đối
thoại với nền văn hóa mới: Suy nghĩ các đề tài nền văn hóa này chú trọng cũng
như hiểu rõ các chân lý đặc biệt của đạo Chúa. Công việc của những tác giả ấy
còn khích lệ chúng ta hiện nay, và có thể nói hơn bao giờ hết. Bởi vì chưa bao
giờ nhân loại tiến bộ như hiện nay. Các khám phá mới về khoa học và các tư tưởng
táo bạo của thời đại chúng ta bó buộc niềm tin của chúng ta phải suy nghĩ, nếu
không muốn nó bị người ngoài coi khinh và có thể khiến chúng ta tự ti mặc cảm
cách nào đó trong đời sống hằng ngày. Bài sách Khôn ngoan hôm nay vắn tắt nhưng
có thể trở thành lợi khí, nếu chúng ta biết hiểu.
Ðây là đoạn kết của
lời kinh cầu nguyện mà tác giả dâng lên Thiên Chúa. Ông xin Người ban cho mình
được sự khôn ngoan. Không phải vì ông thất học hay dốt nát. Ông mượn danh nghĩa
của Salômon để viết ra tác phẩm "Khôn ngoan" này. Và sự khôn ngoan của
Salômon đã trở thành vô địch, đến nỗi Nữ hoàng Phương Nam phải đến học khôn.
Nhưng người thông thái thật không tưởng mình đã biết hết và chỉ kẻ thiển cận mới
ba hoa tuyên bố các ngu xuẩn của mình.
Ðặc biệt, những người
khôn ngoan luôn biết định mức các kiến thức của mình. Tác giả bài sách hôm nay
là một trong những người như vậy. Ngay từ đầu, ông phân biệt rõ phạm vi ý định
của Thiên Chúa và giới hạn tư tưởng của loài người. Thế giới của Thiên Chúa
siêu việt. Khả năng của loài người bất lực trước các chân lý của Người. Ðiều
này hiển nhiên không cần bàn cãi. Nhưng còn hiển nhiên không kém, là tư tưởng của
loài người cũng yếu ớt dễ sợ ngay trong phạm vi của mình. Kiến thức của họ lỏng
chỏng chứ không bền vững. Và tác giả nói rõ lý do vì sao. "Quả thật xác hư
nát đè nặng linh hồn, lều đất làm trĩu xuống linh hồn đăm chiêu".
Chúng ta có cảm tưởng
ông muốn nói với người Hy Lạp và phê bình giá trị tư tưởng của họ. Họ tự phụ có
nền triết học cao. Nhưng đấy cũng chỉ là sản phẩm của trí tuệ và linh hồn con
người. Thế mà linh hồn cũng như trí tuệ ở trong xác mà con người Hy Lạp vẫn coi
như tù ngục và vât chất. Xác thịt lôi cuốn tinh thần xuống, đè nặng trên các tư
tưởng của con người, khiến triết học của họ yếu ớt và lỏng chỏng. Người ta ước
lượng các việc dưới đất một cách khó khăn; và nhiều điều trước mắt người ta
cũng phải vất vả mới nhìn ra được. Khổng Tử cũng không nói khác khi ông tuyên bố:
Việc đời này tôi cũng chưa rành, tại sao lại phải hỏi tôi về việc đời sau?
Phải, sự khôn ngoan
của con người có hạn. Kiến thức của họ lỏng chỏng yếu ớt. Người khôn phải có
thái độ thế nào? Salômon tự thú: Nếu Thiên Chúa không ban, tôi không thể có được
sự khôn ngoan. Nên tôi đã thưa với Chúa và cầu xin Người: Xin ban cho tôi khôn
ngoan chung ngự ngai Người và đừng loại tôi khỏi số con cái của Người.
Ước gì chúng ta được
lòng đạo đức ấy! Gặp nền văn hóa mới, gặp những tư tưởng mới, chúng ta noi
gương tác giả sách Khôn ngoan. Chúng ta xin Chúa hướng dẫn và tìm trong Mạc khải
của Người ánh sáng cứu độ cho cuộc đời trần gian. Thiên Chúa đã nói với chúng
ta, nơi Ðức Giêsu Kitô là Ngôi Lời chung ngự ngai Thiên Chúa. Ngài đang mạc khải
ý định của Ngài nơi Sách Thánh và trong Hội Thánh. Chúng ta có biết để các kiến
thức của loài người dưới chân sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mới hy vọng nhận được
ánh sáng soi dẫn cuộc đời trong chân lý. Giờ đây chúng ta cũng phải làm như thế
để đón nhận lời dạy của Ðấng Khôn ngoan đang tuyên bố con đường cứu độ trường
sinh.
2. Ai Muốn Làm Môn Ðệ Chúa
Chúa Giêsu nói với
những ai muốn làm môn đệ Người. Người nói với quần chúng đông đảo, làm chứng
Người muốn kêu gọi hết mọi người và muốn mọi người được hạnh phúc. Do đó, Lời của
Người không dành riêng cho một nhóm người nào. Ðừng bảo những lời ấy chỉ có giá
trị đối với người Do Thái đồng thời với Người. Cũng đừng nói ngày nay những lời
ấy chỉ dành cho linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta ngày hôm
nay. Người bảo: Muốn đến với Người và làm môn đệ của Người phải ghét cha mẹ, vợ
con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa. Lại phải vác khổ giá mình mà
đi sau Người. Và phải từ bỏ của cải mình đi hết thảy.
Dĩ nhiên Chúa chẳng
vô lý đòi chúng ta bỗng dưng phải bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống và của cải. Con
người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng ta đến với Chúa
và làm môn đệ của Người, thì có chi mà phải ghét bỏ? Nhưng khi mà những sự ấy
trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chua, thì hôm nay Người
bảo chúng ta phải dứt khoát lựa chọn: hoặc bỏ chúng để được Người, hoặc giữ
chúng mà mất Người. Không có lối thoát nào khác. Không phải vì Chúa quá đòi hỏi;
nhưng giữa ánh sáng và tối tăm, giữa tình yêu và hận thù, người ta phải lựa chọn.
Thế nên, tiếp theo
Chúa bảo người ta phải suy nghĩ, cân nhắc. Như người muốn xây tháp, như vua sắp
đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi, đánh trận sẽ
thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn.
Người ta phải suy
nghĩ trước khi đi theo Chúa. Và theo Chúa không như theo bất cứ một ai. Những
người Do Thái đồng thời với Ðức Giêsu còn có thể hiểu lầm được, chứ ngày nay
chúng ta đã thấy rồi, Chúa đã đi con đường thập giá, ai muốn đi sau Người, cũng
phải mang lấy thập giá.
Tôi tưởng đây là
câu chính trong bài Tin Mừng hôm nay. Kẻ muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô phải
vác thập giá đi sau Ðấng đã vác thập giá mở đường cứu độ cho muôn người. Ðối với
những thính giả ở thời Ðức Giêsu, điều này có một ý nghĩa rất cụ thể. Người ta
vẫn thấy những tên tù tội phải vác thập giá đi đến nơi chịu tử hình. Ngày nay
chúng ta đã thấy Ðức Giêsu đi như thế. Ai đi sau Người tất bị khai trừ bởi những
ai phủ nhận đường lối Người đã đi. Không chấp nhận bị khai trừ như vậy không thể
làm môn đệ của Người được. Và khi đi vào con đường thập giá như vậy, làm sao
còn có thể bám vào của cải thế gian nữa? Do đó hãy hiểu hai đòi hỏi "ghét
cha mẹ" và "từ bỏ của cải" như là điều kiện và hậu quả của việc
lựa chọn đi vào đường lối của Chúa, khi tình yêu tự nhiên và của cải thế gian
ngăn trở người ta bước đi sau Chúa để trở thành môn đệ của Người.
Có khi nào như vậy
không? Thường ra thì không như trong trường hợp của chúng ta hiện nay. Cha mẹ,
vợ con, anh chị em đâu có cản trở chúng ta đi theo đường lối của Chúa. Ngược lại,
cha mẹ thường muốn con cái giữ luật Chúa, vợ ao ước chồng giữ các giới răn của
Chúa, anh chị mong muốn các em sống đời đạo đức. Có khi vì vậy mà con cái ghét
cha mẹ, chồng khó chịu với vợ, và các em giận hờn anh chị. Những sự ghét bỏ ở
đây là tội lỗi và bất công. Nhưng hồi Ðức Giêsu giảng đạo tại thế, các môn đệ của
Người phải bỏ cha mẹ, vợ con mới đi theo Người được. Và trong lịch sử nhiều cuộc
cấm đạo, người đi theo Chúa buộc lòng phải ghét bỏ cả cha mẹ, vợ con, anh chị
em và sự sống của mình mới có thể vác thập giá theo chân Chúa Giêsu đi đến chỗ
tử đạo được, khi những người kia cản trở mình trung kiên trong đức tin.
Ðó là những trường
hợp hy hữu và điển hình để khẳng định dứt khoát chân lý sau đây: không được yêu
thích người nào, vật nào hơn Chúa; và phải kính yêu Người hơn hết thảy mọi sự,
mọi người. Ðiều không phải là người ta không thi hành chân lý này mọi nơi, mọi
lúc. Quá nhiều khi họ nghe theo cám dỗ, thích các ham muốn xác thịt hơn Luật
Chúa và vị nể người này người khác mà không dám làm theo tiếng lương tâm. Họ
không xứng đáng làm môn đệ của Chúa Giêsu, Ðấng đã vác thập giá đi trước để mở
đường cứu độ cho những ai chấp nhận vác thập giá của mình đi sau.
Thánh Phaolô trong
bài thư hôm nay cũng đặt Philêmon trước một lựa chọn. Ông có thể xử sự theo lẽ
tự nhiên hoặc thi hành tiếng gọi của Chúa? Ông sẽ lựa chọn theo sự khôn ngoan của
loài người hoặc sẽ nhờ sức mạnh Thánh Thần khôn ngoan của Thiên Chúa mà hành động?
Ông sẽ tỏ mình là môn đệ của Chúa hoặc chỉ sống như một người thế gian? Chúng
ta đọc qua đọc lại đoạn thư này để thấy Lời Tin Mừng đòi buộc áp dụng cụ thể và
chỉ những ai nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới có thể là môn đệ của
Người.
3. Bạn Sẽ Xử Sự Thế Nào?
Philêmon là một người
giàu có. Có thể chính Phaolô đã làm cho ông theo đạo. Ông có một tên nô lệ gọi
là Ônêsimô. Anh này bỏ trốn. Phaolô đã gặp anh và làm cho anh theo đạo. Nhưng
Người phải xử trí thế nào đây? Không trả Ônesimô lại cho Philêmon hoặc để anh
trốn đi nơi khác, là bao che một kẻ phạm pháp và gây ra nhiều hiểu lầm tai hại
cho Ðạo Thánh. Phaolô một mặt khuyên Ônêsimô trở về và mặt khác viết một thư để
anh cầm theo mang đến cho Philêmon.
Lá thư vắn tắt
nhưng thống thiết, chan chứa tình người và nhất là hối thúc đức ái siêu nhiên.
Phaolô nại đến tuổi già của mình và hoàn cảnh đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô.
Những lý do này khiến Người có thể đòi hỏi Philêmon bất cứ điều gì. Nhưng Người
không muốn áp đặt mà chỉ muốn chính Philêmon phải lựa chọn. Ônêsimô trước đây
khi trốn đi là tên nô lệ; nhưng bây giờ khi trở lại, anh đã trở thành con Chúa
và là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, anh đã được
sinh ra trong tuổi già và xiềng xích của Phaolô. Philêmon sẽ đón nhận anh như một
chủ thế gian gặp lại tên nô lệ đã trốn đi; hoặc ông sẽ cư xử như một môn đệ của
Chúa, đón nhận anh như một đồng đạo, và do đó như một người anh em và bạn hữu?
Chúng ta không được biết Philêmon xử trí như thế nào. Nhưng một bức thư thống
thiết, đầy tình nghĩa và lý tưởng cao như vậy, chắc chắn đã có hiệu quả tốt đẹp.
Philêmon bỏ lòng giận dữ, khước từ quyền lợi thế gian và xã hội cho phép mình
đón nhận lời Phaolô như sự khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, để cư xử
như một người môn đệ tốt của Chúa Giêsu Kitô, xứng đáng lưu tên tuổi lại trong
bộ Kinh Thánh, trở thành gương mẫu cho chúng ta khi nghe tiếng Chúa kêu gọi
trong những trường hợp rất cụ thể thuộc đời sống trần gian. Chúng ta ghi nhớ
bài thư hôm nay để thấy rõ Lời Chúa rất cụ thể. Người kêu gọi chúng ta luôn biết
từ bỏ thế gian xác thịt để trở thành môn đệ của Người. Và chúng ta chỉ làm được
như vậy khi thâm tín Lời Chúa và lệnh truyền của Chúa là sự khôn ngoan Thánh Thần
vượt xa mọi luận lý phàm nhân của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu
xin được thêm lòng xác tín mọi lệnh truyền của Chúa, được nhiều ơn Thánh Thần
hơn để mạnh mẽ khước từ và ghét bỏ các cám dỗ, hầu sống xứng đáng là môn đệ của
Chúa. Thánh lễ này muốn mang đến tất cả những ơn đó.
Ðặc biệt nơi bàn thờ
sẽ nhắc nhở và thực hiện mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô không những vác thập giá
mà còn chết trên thập giá để cống hiến Thịt Máu Người cho chúng ta được sống.
Chúng ta không thể
đón nhận một tình yêu như vậy mà không quyết tâm từ bỏ tất cả để vác thập giá của
mình và đi theo Người. Xin Người đến hộ sức cho chúng ta.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 23 Thường
Niên, Năm C
Bài đọc: Wis 9:13-18; Plm
1:9b-10, 12-17; Lk 14:25-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần có Đức Khôn Ngoan
của Thiên Chúa.
Khôn ngoan là một tĩnh từ mang nhiều hiểu lầm
vì tính áp dụng quá rộng của nó: Thiên Chúa khôn ngoan, nhà khoa học khôn
ngoan, người thợ kim hoàn khôn ngoan vì làm đồ giả như đồ thật, tên trộm khôn
ngoan vì đánh lừa được chủ nhà. Đâu là sự khác biệt mà tĩnh từ khôn ngoan được
áp dụng cho các thành phần này?
Trước hết, chúng ta
cần phân biệt Đức Khôn Ngoan với sự hiểu biết: Đức Khôn Ngoan chỉ áp dụng cho
Thiên Chúa và những sự thuộc về Ngài; trong khi hiểu biết nên áp dụng cho những
sự thuộc về loài người. Hiểu biết cũng có nhiều loại: hiểu biết chung cho tất cả
phạm vi của loài người được gọi là kiến thức (knowledge), hay cho những phạm vi
chuyên môn gọi là khoa học (science)
Các bài đọc hôm nay
chú trọng đặc biệt đến Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và sự cần thiết của Đức
Khôn Ngoan trong cuộc đời con người, để họ biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên
Chúa và đạt được mục đích của cuộc đời. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn
Ngoan phân tích sự khác biệt giữa Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và những hiểu
biết của con người, và những lợi ích do Đức Khôn Ngoan mang lại. Trong bài đọc
II, thánh Phaolô muốn cho Philemon nhận ra sự khác biệt to lớn khi một người biết
sống theo sự dạy dỗ khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ có thể biến một người vô tích
sự thành một người hữu ích cho tha nhân. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đòi con người
phải có Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa thì mới có thể đáp ứng những đòi hỏi để
trở thành môn đệ của Ngài được. Nếu một người chỉ sống theo những hiểu biết của
thế gian, họ sẽ không bao giờ có thể trở thành môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức khôn
ngoan của Thiên Chúa và trí khôn của con người
1.1/ Đức Khôn Ngoan của
Thiên Chúa và sự hiểu biết của con người
Trước tiên, tác giả
Sách Khôn Ngoan xác tín: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa?
Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” Có nhiều lý do cho sự không hiểu
biết của con người: Thứ nhất, trí khôn con người có giới hạn, vì con người “là loài
phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững.” Linh hồn con người bị chi
phối bởi thân xác, mà thân xác bị chi phối bởi khí hậu, ăn uống, hoàn cảnh, và
nhất là những đòi hỏi về các ham muốn, lo âu và dục vọng. Thứ hai, con người chỉ
có thể hiểu biết những gì thuộc thế giới hữu hình, chứ không hiểu biết được thế
giới vô hình. Tác giả thú nhận: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà
hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì
những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng?” Sự thật của cuộc đời
là thế, người tài giỏi lắm cũng chỉ biết những gì thuộc phạm vi của mình; ví dụ,
trong nghành y khoa còn phải chia ra các phân khoa như: tim, phổi, thần kinh,
xương, da...; trong ngành kỹ sư cũng chia ra các phân khoa như: điện đường, điện
tử, cơ khí, cầu cống... Làm sao có thời giờ để quán thông mọi sự trong trời đất?
1.2/ Con người cần được
Thiên Chúa ban cho Đức Khôn Ngoan.
(1) Theo tác giả, Đức
Khôn Ngoan là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người trong khi sự hiểu biết
là do cố gắng hay kinh nghiệm mà con người đạt được.
Đức Khôn Ngoan của
Thiên Chúa không lệ thuộc vào trí khôn của con người, vì có người rất hiểu biết
nhưng lại không có Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa; trong khi có người ít hiểu biết
nhưng lại có Đức Khôn Ngoan của Ngài; dĩ nhiên cũng có những người hiểu biết
nhiều và sở hữu Đức Khôn Ngoan. Chính Đức Kitô đã nêu lên sự kiện này khi cầu
nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì
Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha
tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha;
cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc
khải cho” (Mt 11:25; Lk 10:21). Thực ra, Thiên Chúa ban tặng Đức Khôn Ngoan cho
mọi người, sở dĩ có những người không có là vì họ quá kiêu ngạo, họ không nghĩ
họ cần Đức Khôn Ngoan là những mặc khải và giáo huấn của Thiên Chúa.
(2) Những lợi ích
mà Đức Khôn Ngoan mang lại cho con người: Tác
giả liệt kê 3 lợi ích mà Đức Khôn Ngoan mang lại cho con người: thứ nhất, họ được
đẹp lòng Thiên Chúa; thứ hai họ biết sống theo trật tự của Thiên Chúa quan
phòng nên họ được thành công và có sự bình an; sau cùng, họ đạt được ơn cứu độ
là sự sống đời đời.
2/ Bài đọc II: Kẻ xưa
kia là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi.
2.1/ Phaolô huấn luyện
Onesimus theo đường lối và cách thức của Thiên Chúa.
Onesimus là một người
nô lệ của Philemon, sống tại Colossae. Vì một lý do nào đó, ông đã bỏ trốn chủ
qua Rôma và đã gặp lại Phaolô đang lúc ngài bị giam tù lỏng. Sau một thời gian ở
với Phaolô và được huấn luyện, ông đã thay đổi hoàn toàn và được chịu phép Rửa
bởi Phaolô. Luật Rôma rất nghiêm nhặt đối với người nô lệ bỏ chủ chạy trốn, ông
có thể bị tử hình. Phaolô tuy rất muốn giữ Onesimus ở với mình trong khi tù đày
và già yếu; nhưng ông không muốn làm gì mà không có sự đồng ý của Philemon, chủ
của Onesimus.
Phaolô coi Onesimus
như người con ruột của mình, “đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích.”
Phaolô xin Philemon nhận lại Onesimus, không phải như nhận lại một người nô lệ;
nhưng như một người ruột thịt của ông, và như một người anh em trong Đức Kitô.
Có thể nói Phaolô đã làm một cuộc cách mạng khi xin tha chết cho Onesimus, và
xin Philemon đối xử với ông không như một người nô lệ.
2.2/ Thay vì một người
nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến.
Phaolô muốn
Philemon hoàn toàn tự do trong việc nhận lại Onesimus, và nếu Philemon đồng ý,
gởi Onesimus lại để ở với Phaolô: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với
tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng.”
Chỉ trong thời gian
ngắn, Phaolô đã cảm hóa được Onesimus, đến nỗi có thể nói với Philemon “không
phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người
anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến
hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa.” Điều này là
một chứng minh cho thấy cách giáo dục con người hay nhất là giáo dục theo đường
lối và cách thức khôn ngoan của Chúa Giêsu là yêu thương hết mình và sống theo
sự thật. Con người sẽ đáp trả khi họ được yêu thương thành thật và được tôn trọng
phẩm giá như một con người.
3/ Phúc Âm: Ai không
vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
3.1/ Những điều kiện để
làm môn đệ của Đức Kitô:
Trình thuật cho biết
có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Có lẽ những người này cũng muốn
theo Người làm môn đệ, nên Người quay lại bảo họ: "Ai đến với tôi mà không
dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể
làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể
làm môn đệ tôi được.”
Có ba điều kiện
Chúa Giêsu đòi nơi người môn đệ:
(1) Bỏ cha mẹ và những
người thân thuộc: Làm môn đệ của Đức
Kitô là lãnh sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nếu người môn đệ nào quá lo lắng
cho cha mẹ và gia đình, ông sẽ không còn thời gian để chu toàn sứ vụ được trao;
vì thế, đòi hỏi của Chúa Giêsu là điều hợp lý. Tuy nhiên, việc từ bỏ đây không
có nghĩa phải chấm dứt các mối liên hệ gia đình, nhưng phải dám hy sinh cho một
sứ vụ, nhất là khi có xung đột.
(2) Bỏ chính mình: có lẽ đây là điều khó khăn hơn
cả, vì người môn đệ bị đòi phải bỏ ý riêng và như thế toàn thể con người mình,
để sống hoàn toàn theo ý Thiên Chúa. Nếu người môn đệ hiểu Đức Khôn Ngoan của
Thiên Chúa sẽ mang lại những lợi ích và nhất là ơn cứu độ, việc bỏ ý riêng mình
là điều cần thiết và nên làm.
(3) Vác thập giá mà
theo Chúa: con người thường có
khuynh hướng chạy trốn đau khổ để tìm những sự an nhàn và dễ dãi. Người môn đệ
bị đòi để sống theo Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa để vào Nước Trời qua cửa hẹp,
vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới sự diệt vong.
3.2/ Hai ví dụ của
khôn ngoan: Để
dẫn chứng sự hợp lý của những đòi hỏi trên, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ.
(1) Người xây tháp
canh: Đây là một dự án
đòi nhiều vật lực và nhân lực; vì thế, người xây phải ngồi xuống tính toán phí
tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả
năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: "Anh
ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.”
(2) Vua giao chiến:
Ngày nay cũng như ngày xưa, thăng
bằng lực lượng là điều cần thiết phải làm trước khi giao chiến. Nhà lãnh đạo
tài giỏi sẽ thăm dò mọi cách để biết lực lượng của đối phương: nếu cán cân lực
lượng quá nghiêng về đối phương, ông sẽ phải hạ mình xuống để sai sứ giả cầu
hòa để tránh tử vong cho mình, cho binh lính, và cho dân chúng; nếu biết lực lượng
của mình mạnh hơn địch, ông sẽ an tâm giao chiến và nắm chắc phần thắng.
Trên con đường làm
môn đệ của Đức Kitô cũng vậy, người môn đệ bị đòi phải gạt những hiểu biết theo
tính toán con người của mình qua một bên để sống theo Đức Khôn Ngoan của Thiên
Chúa. Nếu ngoan cố cứ sống theo cách riêng của mình, người môn đệ sẽ bỏ Đức Kitô
nửa đường và không theo Ngài tới cùng được. Chúa Giêsu kết luận: “Ai trong anh
em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Kiến thức có được
do trí khôn con người không đủ giúp con người đạt tới ơn cứu độ. Chúng ta cần cầu
xin cho có được Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Để có được, chúng ta cần khiêm
nhường nhìn nhận những giới hạn của mình.
- Hãy giáo dục
chính mình, con cái, và tha nhân theo đường lối và cách thức của Thiên Chúa: đó
là yêu thương hết mình và luôn sống theo sự thật.
- Chúng ta phải dẹp
bỏ mọi khôn ngoan tính toán theo cách thức con người và chấp nhận những điều kiện
Chúa Giêsu đòi hỏi thì mới có thể trở thành môn đệ của Ngài được.
- Chúng ta cần
tránh thái độ “ếch ngồi đáy giếng,” chỉ biết những gì trong giếng và bầu trời bằng
miệng giếng, để rồi chối từ tất cả những gì ngoài cái giếng nó ở!
Lm.An-tôn ĐINH MINH
TIÊN, OP.
Ngày 8-9-2013: NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ
BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU (Luca 14,25-33 – CN XXIII - C)
Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một
cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là một cuộc bước theo.
Lm FX Vũ Phan Long,
ofm
1.- Ngữ cảnh
Được đặt vào trong
bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, cuộc nói chuyện của Đức Giêsu
trong bữa ăn tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu (Lc 14,1) nay đã đến lúc kết
thúc. Tác giả Tin Mừng III lại giúp độc giả để ý đến bước tiến của Đức Giêsu
lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Người. Tác giả cho thấy Đức
Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Khi tìm
lại văn cảnh trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường,
dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho
ta” (c. 23). Nay Đức Giêsu thêm một nhận định mới: điều kiện phải giữ để được
làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện
riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn
14,15-24. Nếu đặt vào trong ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành
trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Đức Giêsu, bước
đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, … cung cấp cho tác
giả những chi tiết để ngài phác ra đời môn đệ của Đức Kitô.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Mở đầu (14,25);
2) Điều kiện để đi
theo Đức Giêsu (14,26-27);
3) Hai dụ ngôn
(14,28-32):
a) Dụ ngôn Người
xây tháp (cc. 28-30),
b) Dụ ngôn Vị vua
ra trận (cc. 31-32);
4) Kết (14,33).
3.- Vài điểm chú giải
- dứt bỏ (26): dịch
sát là “ghét” (miseô), ngược lại với agapaô, “yêu thương”. Động từ miseô đã được
dùng ở Lc 6,22.27 để mô tả thái độ của những người ở ngoài đối với các môn đệ Đức
Giêsu. Bây giờ động từ này lại được dùng để nói về tình yêu ưu tiên người ta phải
dành cho Đức Giêsu.
- môn đệ tôi (27):
Các môn đệ Đức Giêsu đã được nhắc đến ở Lc 5,30; 6,1.13.17.20; 8,9.22;
9,14.16.18.40.43b.54; 10,23;12,1.22. Sau đó họ lại được nhắc đến ở 16,1;
17,1.22; 18,15; 19,29.37.39; 20,45; 22,11.39.45. Trong sách Cv, từ ngữ mathêtai,
“các môn đệ”, trở thành từ quen thuộc để gọi các Kitô hữu (6,1.2.7;
9,1.10.19.26.38; 11,26.29; 13,52; 14,20.22.28; 15,10; 16,1; 18,23.27;
19,1.9.30; 20,1.30; 21,4.26 (2x).
- một cây tháp
(28): Đây là một tháp canh để bảo vê một ngôi nhà, một mảnh đất, một vườn nho.
- từ bỏ (33): Động
từ Hy Lạp apotassomai, như ở 9,61, có nghĩa là “kiếu từ, từ giã” (say good-bye,
say farewell). Lời khuyên này làm vọng lại lời khuyên ở 12,33, và sẽ được nhắc
lại ở 18,22.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu (25)
Điểm nổi bật nơi Đức
Giêsu là sự cương quyết chấp nhận số phận bằng cách nhất định tiến về
Giêrusalem. Trên đường đi, có rất nhiều người đi theo Người. Họ muốn ở với Người.
Họ tưởng rằng Người có điều gì đó chắc chắn mà nói với họ và có điều gì đó bền
vững mà ban cho họ. Họ bị Người thu hút. Đức Giêsu không xua đuổi họ. Nhưng Người
cũng không muốn họ đi theo Người với những nỗi niềm chờ mong sai lạc. Người nói
với họ rõ ràng.
Chúng ta thấy Đức
Giêsu đã ba lần nêu lên những yêu cầu cho những ai muốn đi theo Người, và mỗi lần
Người đều kết luận như nhau, “… thì không thể làm môn đệ tôi được” (cc.
26.27.33). Người khiến chúng ta có ấn tượng là Người muốn họ bỏ Người thay vì
lôi kéo họ đến với Người.
* Điều kiện để đi theo Đức Giêsu
(26-27)
Ai gắn bó với Đức
Giêsu, thì cần biết mình phải đáp ứng những yêu cầu nào. Các điều kiện Người
nêu ra không chỉ được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất
cả những ai đang đi với Người.
Trước tiên, Người
yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu
thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người
ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ?
Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha
yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì
không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải
yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình
nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu
yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét”
đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để
có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều
hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Tuy nhiên, dường
như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà
là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với chính mình. Cả cái tôi và sự sống
của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu. Ai muốn đi theo Đức
Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường
thập giá. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích.
Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng
điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa.
* Hai dụ ngôn (28-32)
Rất có thể Đức
Giêsu nhận thấy rằng nhiều thính giả bắt đầu nghĩ rằng Người phóng đại. Để giúp
họ hiểu Người muốn nói gì, Người kể cho họ nghe hai dụ ngôn ngắn, đơn giản. Dụ
ngôn thứ nhất nói về một người muốn bảo vệ hoa mầu khỏi trộm cướp và dã thú phá
phách. Ông đã quyết định xây một cái tháp trong cánh đồng của mình. Trước khi bắt
đầu công việc, ông đã tính toán phí tổn, để xem ông có đủ tiền mà thực hiện
chăng (cc. 28-30). Dụ ngôn thứ hai nói về một vị vua quyết định ra trận. Tuy
nhiên, ngay lúc đầu, ông phải lượng định về sức mạnh của đoàn quân của ông (cc.
31-32). Vào thời của Đức Giêsu, có một câu tục ngữ: “Nếu bạn muốn săn sư tử,
hãy phóng cái lao của bạn xuống đất. Nếu bạn không thể phóng cái lao thật sâu,
thì đừng đi săn sư tử!”. Bài học rất rõ: đừng tự lừa dối chính mình; bạn không
phải là môn đệ Đức Giêsu chỉ nhờ nghe Tin Mừng của Người và cảm thấy hứng thú đối
với Tin Mừng ấy. Bạn phải xem bạn có thể làm chăng những điều Người yêu cầu bạn.
Qua hai dụ ngôn, Đức
Giêsu khuyên những người đang đi theo Người đừng quyết định làm môn đệ, nếu trước
đó không cân nhắc kỹ càng trước. Người ta phải cứu xét đến không những các đòi
hỏi phải thực hiện, nhưng cả những hậu quả của chuyện mới bắt đầu thì đã bỏ dở
dang vì không có sức đi tới cùng. Các môn đệ phải xem lại là mình có những sức
mạnh và tài nguyên nào.
Sau hai dụ ngôn, Đức
Giêsu nêu ra điều kiện thứ ba: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những
gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). Vấn đề không chỉ là bỏ
ra một ít tiền để làm việc bác ái, mà là phải bỏ hết mọi sự.
* Kết (33)
Sau hai điều kiện
(cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba (c. 33), một đòi hỏi triệt để. Đức
Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ
Người.
Có những người đã
giải quyết khó khăn này bằng cách chia các Kitô hữu thành “những người hoàn thiện”
(linh mục, tu sĩ) một bên, còn bên kia là tất cả các Kitô hữu còn lại, những
người có thể giữ tất cả những gì họ có và chấp nhận làm “Kitô hữu bất toàn”.
Cách làm này đã chia họ các môn đệ Đức Giêsu thành hai, đánh mất sự hợp nhất
thiêng liêng của họ. Nhưng lệnh đó được ban cho tất cả những ai muốn nên “xứng
đáng” với Đức Giêsu. Để không một ai hiểu sai ý Người, Đức Giêsu đã nhắc lại
giáo huấn này nhiều lần (Lc 12,33; 18,22; x. 5,11.28).
+ Kết luận
Ai muốn đi theo Đức
Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì
trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh
bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất
mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với
chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể
bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì
phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Đức Giêsu không nói
rằng nếu ai muốn đi theo Người mà không từ bỏ những người than, mạng sống và mọi
của cải, thì không thuận lợi bao nhiêu, mà nói là hoàn toàn vô ích, như muối
không còn vị mặn nữa (x. Lc 14,34-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ai muốn làm môn
đệ Đức Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề
ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường
rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Đức Giêsu muốn người ta đi theo Người cách
ý thức và có cân nhắc. Các điều kiện được nêu ra không chỉ có giá trị cho một
thiểu số ưu tuyển, nhưng cho mọi người. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tuyệt đối
không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo dây liên
kết chúng ta với Đức Giêsu.
2. Dây liên kết người
ta với Đức Giêsu phải có quyền ưu tiên hơn mọi liên hệ khác. Tình yêu đối với
Người không loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại là đàng khác. Đức
Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi
chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được
qui định bởi tương quan với Đức Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương
quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và một người gần gũi với ta, ta phải
chọn Đức Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân
cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Đức Giêsu. Tiêu chuẩn tối
hậu của đời sống chúng ta không phải là nguyện vọng hoặc ý muốn của người thân
cận, hoặc sở thích của người ấy, hay là sự hòa hợp với người ấy, nhưng là ý muốn
của Đức Giêsu và con đường trên đó Người đang đi mà dẫn dắt chúng ta. Người
Kitô hữu không được tìm cách sống hài hòa với người thân cận ngược lại với ý muốn
của Đức Giêsu, nhưng là với và trong sự lệ thuộc ý muốn đó.
3. Bước theo Đức
Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là một cuộc bước
theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức
Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người
ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập
giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối
với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với
Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
4. Cộng đoàn
Giêrusalem đã góp mọi sự lại, nên không còn có ai bị nghèo túng ở giữa họ (Cv
2,44-45; 4,32-35). Hẳn là các Kitô hữu hôm nay cũng có thể thứ những nẻo đường
mới. Chắc chắn nếu chúng ta chọn bước theo Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi thái
độ của chúng ta đối với của cải của thế gian này.
Từ
bỏ hết
Suy Niệm
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc…
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống…
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét