Trang

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

06-01-2014 : THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH

06/01/2014
Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 - 4, 6
"Hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 2, 7-8. 10-11
Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).
Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". - Ðáp.
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Mt 4,17
Alleluia, alleluia! - Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 4, 12-17. 23-25
"Nước trời đã đến gần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
"Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.


Thứ Hai sau Chúa nhật Lễ Chúa hiển linh
Mt 4,12-17.23-25
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa yêu trần gian nên đã mang lấy thân phận con người. Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất, để phục hồi những gì đã bị thương tổn bởi tội của Adam. Chúa đến để mời gọi chúng con quay trở về với Chúa. Chúa giúp chúng con trở về với tình trạng ban đầu là tình trạng ân sủng, không bị thương tổn do tội lỗi gây ra.
Tình thương của Chúa dành cho chúng con như người mục tử tìm kiếm con chiên lạc. Chúa yêu quý chúng con hơn mọi loài đến nỗi có thể đánh đổi tất cả như người phụ nữ đã vui mừng tìm được đồng bạc đã mất. Vì Chúa đến không phải để kêu gọi người công chính mà là vì người tội lỗi. Chúa không muốn ai phải hư vong. Chúa muốn mọi người đều được hưởng sự sống bất diệt bên Chúa.
Chúng con xin cảm tạ tình thương Chúa. Xin cho chúng con biết trở về với Chúa qua hành vi sám hối. Sám hối để dừng lại những lối đường tội lỗi mà chúng con đã mở ra vì đam mê xác thịt, vì tham lam danh vọng. Sám hối để chúng con sửa chữa lại những rạn nứt của tình người mà chúng con đã gây ra. Xin giúp chúng con biết thực lòng quay trở về với Chúa. Xin cho chúng con được ơn hoán cải để thay đổi cách sống cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn sống đời đời. Xin giúp chúng con đừng vì những đam mê thấp hèn mà xa lìa sự sống đời đời là chính Chúa. Amen.
(Veritas Asia)
Suy Niệm: LÊN ĐƯỜNG
Tôi cảm thấy rằng đoạn Tin mừng này Chúa Giêsu bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của Ngài, đó là giai đoạn thực hiện sứ vụ rao giảng Nước Trời. Trước hết, Ngài rời bỏ quê hương với tất cả những người và những cảnh vật đã gần gũi và gắn bó rất thân thiết với Ngài tại Nadaret. Từ bỏ để rồi Chúa Giêsu lên đường đi đến với những người và những nơi đang cần Ngài.

Tôi là một người tin Chúa, một người theo Chúa và là một người môn đệ của Chúa. Sự từ bỏ và ra đi của Chúa Giêsu là một tấm gương cho tôi. Cuộc đời của tôi cũng có những giai đoạn. Có những vui buồn, những lúc thăng trầm thử thách. Lên đường theo Chúa mỗi ngày là tôi cũng cần bỏ đi con người cũ của tôi với những thói hư tật xấu và tội lỗi đã cản trở tôi đến với Chúa. Lên đường theo Chúa còn là bỏ đi những ích kỷ hẹp hòi, ganh ghét hận thù, chia rẽ bất hòa…để tôi đến với anh em. Lên đường theo Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện tại chính là tôi sống tốt lành thánh thiện, dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân trong việc bổn phận mỗi ngày…

Lạy Chúa, xin cho con ơn can đảm và quyết tâm bỏ đi những nết hư tính xấu và những gì cản trở con đến với Chúa.. Xin cho con hăng say đem Chúa đến cho những người con gặp gỡ bằng đời sống bác yêu thương. Amen.  
(Gp.Cần Thơ)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 3:22-4:6; Mt 4:12-17, 23-25.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật!
Chúng ta đang sống trong thế giới vàng thau lẫn lộn: sự thiện và sự ác, sự thật và sự giả trá điêu ngoa. Một người bình thường rất khó nhận ra sự thật từ biết bao nhiêu sự gian dối, người thành thật từ những người giả trá điêu ngoa. Làm sao để nhận ra sự thật và người thành thật?
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta 2 tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: (1) Người nói sự thật là những người tin vào Đức Kitô; và (2), người nói sự thật sẽ bị thế gian ghét bỏ. Trong Phúc Âm, Thánh Matthêu tường thuật bước đường đầu trong sứ vụ rao giảng của Đức Kitô: Ngài không những mang ánh sáng xua tan những vùng tăm tối sự chết của Dân Ngọai, mà còn cả cho những người Do-Thái đang mong chờ Đấng Cứu Thế ra đời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải ở lại trong Thiên Chúa để nhận ra sự thật.
1.1/ Làm thế nào để ở lại trong Thiên Chúa? Theo Gioan, để ở lại trong Thiên Chúa, các tín hữu phải giữ các giới răn: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” Theo truyền thống Do-Thái, biết Thiên Chúa không phải chỉ là họat động của tri thức, nhưng phải ảnh hưởng đến đời sống của người tin; nói cách khác, biết Thiên Chúa là phải giữ các giới răn của Ngài. Theo Gioan, hai giới răn quan trọng nhất là:
(1) Phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người: Theo Gioan, đây là điều kiện để trở thành tín hữu, thành con Thiên Chúa. Sở dĩ Gioan nhắc lại điều này, là có những bè rối xuất thân từ cộng đòan tín hữu, từ chối nhân tính hay thiên tính của Đức Kitô.
(2) Phải yêu thương nhau: Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Khi một người có Thiên Chúa, là có cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngược lại, ai ghét anh em mình, kẻ ấy sẽ không có Thiên Chúa.
1.2/ Làm thế nào để nhận ra sự thật? Phải cân nhắc để nhận ra sự thật: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” Hai tiêu chuẩn cần dựa vào để nhận ra sự thật:
(1) Người nói sự thật là người nhìn nhận Đức Kitô đến từ Thiên Chúa: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên Phản-Kitô.” Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. Thời Thánh Gioan, có ít nhất 2 bè rối chống nhân tính của Đức Kitô là Phái Thuần Tri Thức và Bè rối Docetism; trong khi Nhóm Do-Thái bảo thủ từ chối không tiếp nhận thiên tính của Chúa Giêsu.
(2) Người nói sự thật không được thế gian chấp nhận: Đối với Gioan, chỉ có trắng hay đen, chứ không có vùng xám ở giữa; chỉ có sự thật của những người tin theo Đức Kitô hay sự gian trá của những người không tin Đức Kitô. Người Kitô hữu là những người tin Đức Kitô. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ nói sự thật và thế gian không tin họ. Kẻ Phản-Kitô là những người từ chối không tin Đức Kitô. Họ thuộc về thế gian. Họ nói những điều giả trá và thế gian tin họ. Tuy nhiên, Gioan củng cố niềm tin của các tín hữu: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa, và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu tỏ mình cho tất cả mọi người.
2.1/ Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ giảng dạy cho Dân Ngọai tại miền Bắc của Galilee:
Galilee là vùng đất phì nhiêu, rất đông dân, nhưng bao quanh bởi các Dân Ngọai: Phía Tây Bắc là người Phoenicia, phía Đông Bắc là người Syria, và phía Nam là người Samaria; vì thế, Galilee chịu nhiều ảnh hưởng của Dân Ngọai hơn bất cứ vùng nào của người Do-Thái. Hơn nữa, Galilee còn là trục lộ giao thông của miền Trung Đông: Con Đường Ven Biển nối từ Damascus, Syria, tới Ai-Cập, rồi qua Phi Châu phải băng ngang qua Galilee; Con Đường tới phía Đông cũng phải qua Galilee. Vì thế, có thể nói: giao thông của thế giới phải ngang qua Galilee. Trong khi đó, Judah ở một vị trí tách biệt, không tiện lợi cho việc giao thông tới các nơi trên thế giới. Có người nhận xét về sự khác biệt giữa hai miền như sau: “Galilee là đường dắt tới mọi nơi, trong khi Judah không dắt tới đâu cả.” Điều này cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu rất tinh tế trong việc lựa chọn địa danh để rao giảng. Ngài chọn Galilee là chỗ đông dân cư, và là chỗ qua lại của nhiều nền văn minh thế giới; để nhiều người có cơ hội nghe Tin Mừng Ngài rao giảng.
Trình thuật hôm nay cũng đề cập tới việc Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời Tiên-tri Isaiah khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng tại vùng này: “Này đất Zebulun, và đất Naphtali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của Dân Ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
2.2/ Từ Zebulun và Naphtali, Tin Mừng của Chúa Giêsu được lan rộng ra khắp nơi:
(1) Trước hết, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng trong khắp miền Galilee; sau đó đến các vùng: Thập Tỉnh, Thành Jerusalem, miền Judah, và vùng bên kia sông Jordan. Dân chúng các nơi lũ lượt kéo đến đi theo Người.
(2) Họat động truyền gíao của Chúa Giêsu: Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Ngài giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa lành họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra nhu cầu học hỏi Lời Chúa để biết và sống theo sự thật.
- Chỉ có một cách duy nhất để nhận ra sự thật từ bao nhiêu sự gian dối là dựa vào Lời của Thiên Chúa.
- Hai tiêu chuẩn căn bản để nhận ra sự thật: chúng ta phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa và phải giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh


Mt 4,12-17.23-25
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng :
- Địa bàn hoạt động được Ngài chọn là miền Galilê, một miền được coi là lãnh địa của dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã nói “Galilê, miền đất của dân ngoại”. Nhưng Isaia đã tiên báo rằng dân ở đó sẽ “thấy một ánh sáng huy hoàng”.
- Hoạt động của Ngài gồm giảng dạy và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền.
- Sứ điệp của Ngài là “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”.

B.... nẩy mầm.
1. Khi nào cần tóm lược một cách vừa gọn nhất mà cũng vừa đầy đủ nhất lời rao giảng của Gioan Tiền hô và của Chúa Giêsu, Tin Mừng dùng câu “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3,2). Sám hối là điều kiện tiên quyết để được cứu độ, bởi vì sám hối là ý thức mình đang đi lệch đường và quyết tâm quay về đường chính. Có quay về như thế thì mới được vào Nước Trời. Cũng vì ý thức sự cần thiết của sám hối nên Giáo Hội luôn kêu gọi sám hối trước mỗi Thánh lễ.
2. “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Câu này cũng có nghĩa vì Nước Trời đã đến gần nên con người phải sám hối ; nó cũng có nghĩa hãy sám hối để mình có thể vào Nước Trời ; và cũng có nghĩa hãy sám hối để Nước Trời có thể đến giữa mọi người.
3. Người Hồi giáo có chuyện sau đây : Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo : “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
 Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói : “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
 Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích : “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói : “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích "Món quà giáng sinh")
4. Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện. Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận và nói lớn tiếng : “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao ? Ta nói thật với ngươi : cây gậy ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng. Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực để rút lên nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người tội lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ kiêu hãnh” ("Mỗi ngày một tin vui")

Lm.CaroloHỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

06/02/14 THỨ HAI SAU LỄ HIỂN LINH
Mt 4,12-17.23-25

CHÚA ĐẾN CỨU MỌI NGƯỜI
“Khi ấy Đức Giêsu nghe tin ông Gioan bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Capharnaum, một thành ven biển hồ Galilê.”
(Mt 4,12-13)
Suy niệm: Các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Giêsu lúc Ngài mới sinh ra, nói lên một giai đoạn mới của ơn cứu độ đã khai mạc: ơn cứu độ được ban phát phổ quát chứ không giới hạn ở một địa dư nào. Trong cuộc đời rao giảng của mình, Đức Giêsu luôn trung thành với sứ mệnh cứu độ phổ quát này. Ngài không chọn Giêrusalem làm khởi điểm để truyền giáo, mặc dù nó có vị trí đặc biệt trong đời sống tôn giáo của Israen, nơi có Đền thờ, có tư tế. Nhưng Ngài chọn Galilê, là nơi đời sống xã hội khá phức tạp với đủ loại khách thập phương, và rất nhiều lương dân thuộc nhiều thứ tôn giáo khác nhau. Chúa Giêsu chọn nơi này để rao giảng Nước Trời, kêu gọi sám hối, chọn các môn đệ vì đây là mảnh đất lành để đón nhận Tin Mừng. Ngài ưa thích hiện diện giữa người tội lỗi để tha thứ, chữa lành.
Mời Bạn: Phải chăng chúng ta thường có cái nhìn thiếu cảm thông, tha thứ, ngược hẳn với thái độ của Chúa? Phải chăng có khi ánh mắt và cách hành xử của ta trở nên như một thứ rào cản vô hình vừa che khuất họ không nhận ra lòng Chúa thương xót, vừa đẩy họ xa Chúa, thay vì lôi kéo họ đến với Chúa?
Chia sẻ: Chúng ta đang có những rào cản nào khiến anh chị em lương dân khó đến với Đức Kitô (cách sống đạo xa lạ với văn hoá dân tộc, đời sống nguội lạnh, tội lỗi…)?
Sống Lời Chúa: Bạn hãy đến với một người đang sống gần bạn nhưng lại xa Chúa để đưa họ xích lại gần Chúa hơn.
Cầu nguyện: Đọc kinh “Chúa muốn mượn” (x. trang 64).

 Ánh sáng và sự sống 
Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.


Suy nim:
Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa,
Giáo Hội cho chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình.
Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của Người.
Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên
tại Galilê, vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống.
Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn chuyên đánh cá gần hồ Galilê,
tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Như thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối,
Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm.
Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc:
dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân.
Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể coi là một,
nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh.
Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều
đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17),
và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi
qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt.
Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người.
Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa.
Con người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra.
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt
tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu,
để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG GIÊNG
Tiếng Gọi Của Lễ Hiển Linh
“Mầu nhiệm này tôi đã được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Hiển Linh (Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu của Giáo Hội. Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này, ân sủng dẫn con người đến với đức tin.
Vâng, mầu nhiệm Đức Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt lõi của ngày Lễ Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải vào tâm khảm của kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho Sao-lô người Tarsus trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng nhân đặc biệt nhờ cuộc trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “… anh em nghe nói đến ân huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của anh em” (Ep 3,2).
Thánh tông đồ muốn làm chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời của Thánh tông đồ, vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những ai được Đức Kitô kêu gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh với chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại – vì chúng ta là những người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa đến cho các dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 06-01
1Ga 3, 22-4,6; Mt 4, 12-17.23-25.
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anhem hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.

Muốn đón nhận Tin Mừng tình thương của Thiên Chúa. Muốn được Ngài cứu độ. Điều tiên quyết là phải sám hối; bởi vì con người đang chìm đắm trong sự cao ngạo của mình, không nhận biết mình đang là tội nhận. Cần phải biết sám hối, muốn sám hối con người phải biết khiêm nhường nhận mình là tội nhân, cần được tha thứ. Quyền Tha thứ tội lỗi cho con người, chỉ có một mình Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi người trong gia đình chúng con, luôn biết nhận ra mình là tội nhân trước mặt Chúa, trước mọi người và với nhau. Xin cho chúng con luôn biết sám hối để sống trong yêu thương và tha thứ cho nhau, để nhận sự tha thứ và yêu thương của Chúa.
Mạnh Phương



06 tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.
Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.
(Lẽ Sống)

Thứ Hai 6-1
Thánh André Bessette

(1845 - 1937)
T
hầy André đã sống đức tin của một vị thánh bằng một cuộc đời sùng kính Thánh Giuse.
Bệnh hoạn và sự yếu ớt dai dẳng theo đuổi Thầy André ngay từ khi mới sinh. Thầy là người thứ tám trong gia đình mười hai người con của đôi vợ chồng người Gia Nã Đại sống gần Montreal. Khi mồ côi cả hai cha mẹ, thầy được nhận làm con nuôi lúc 12 tuổi và trở nên một nông gia.Sau đó là nhiều loại nghề nghiệp khác: thợ đóng giầy, thợ làm bánh, thợ rèn -- tất cả đều thất bại. Thầy là một công nhân xưởng thợ ở Hoa Kỳ trong thời gian Nội Chiến.
Khi 25 tuổi, André xin vào Tu Hội Thánh Giá. Sau một năm đệ tử, thầy không được nhận vì sức khoẻ yếu kém. Nhưng nhờ sự can thiệp và khích lệ của Đức Giám Mục Bourget, sau cùng thầy đã được chấp nhận. Thầy được giao cho công việc khiêm tốn là gác cổng trường học Notre Dame ở Montreal, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Andre khôi hài rằng, "Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm."
Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Royal, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời, "Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Royal!"
Khi biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lạnh bắt đầu lan tràn.
Khi bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Andre đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Cha bề trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các bác sĩ gọi ngài là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Ðâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse đó." Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư ký để trả lời 80,000 lá thư ngài nhận được hàng năm.
Ðã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Royal nhưng không thành công. Thầy Andre và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Andre quyên góp được $200 để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi bệnh, có người không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để minh chứng cho sức mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.
Nguyện đường cũng cần được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ kinh tế đại suy thoái. "Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái che trên đầu thì ngài sẽ giúp cho." Sau cùng, Vương Cung Thánh Ðường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Royal đã hoàn thành sau 50 năm xây cất. Nhưng Thầy Andre đã không được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần năm 1937 khi thầy 92 tuổi.
Thầy được chôn cất ngay tại Vương Cung Thánh Đường và được phong chân phước vào năm 1982. Trong nghi thức tuyên thánh vào tháng Mười 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđích XVI nói rằng Thánh André "đã sống nhân đức của một tâm hồn thanh khiết."
Lời Bàn
Thoa lên vết thương với dầu và ảnh tượng? Ðặt một ảnh tượng để mua được miếng đất? Ðó có phải dị đoan không? Ðó có phải là những gì chúng ta muốn quên đi không?
Người dị đoan chỉ trông nhờ vào "yêu thuật" của lời nói hay hành động. Dầu và ảnh tượng của Thầy Andre là những dấu tích đích thực của một đức tin đơn sơ, trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha là Ðấng đã giúp vị thánh của thầy chữa lành cho các con cái của Thiên Chúa.
Lời Trích
"Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ," lời của Thánh André Bessette.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét