24/01/2014
Thứ Sáu Tuần II Mùa
Thường Niên Năm chẵn
Thánh Phanxicô
Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
BÀI
ĐỌC I: 1 Sm 24, 3-21
"Tôi sẽ không ra tay sát hại người, vì người là Đấng xức dầu của
Chúa".
Trích
sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, Saolê đem ba ngàn người được tuyển chọn trong toàn dân Israel và
đi tìm Đavít và các người theo ông, cho đến những mỏm đá cao dốc rất hẻo lánh,
nơi chỉ có những con dê rừng lui tới. Ông đến các chuồng chiên ở vệ đường. Nơi
đây có một cái hang, Saolê vào đó đi việc cần. Đavít và những người theo ông
đang núp phía trong hang.
Các
người đầy tớ nói với Đavít rằng: "Đây là ngày Chúa phán cùng ông: Ta trao
thù địch của ngươi cho ngươi, để ngươi đối xử với hắn thế nào tuỳ ý
ngươi". Vậy Đavít đứng lên, lén cắt một mảnh chiến bào của Saolê. Sau đó
Đavít hối hận, vì đã cắt áo chiến bào của Saolê. Ông nói với các người theo ông
rằng: "Xin Chúa thương tôi, đừng để tôi làm việc này cho chủ tôi, đấng
Chúa xức dầu, là ra tay sát hại vua, vì vua là đấng xức dầu của Chúa".
Đavít ngăm đe những người theo ông không được phép xông vào Saolê. Saolê đứng
lên ra khỏi hang và tiếp tục cuộc hành trình. Đavít cũng đứng dậy đi theo Saolê
ra khỏi hang và gọi giật sau lưng vua rằng: "Tâu đức vua". Saolê nhìn
lại đàng sau, Đavít sấp mình kính lạy và nói cùng Saolê rằng:
"Tại
sao bệ hạ lại nghe những lời người ta đồn thổi rằng: Đavít toan làm hại bệ hạ.
Đây hôm nay chính mắt bệ hạ thấy rằng: trong hang, Chúa đã trao bệ hạ vào tay
tôi. Tôi đã tưởng giết bệ hạ, nhưng tôi thương hại bệ hạ, vì tôi đã nói: Tôi
không ra tay sát hại chủ tôi, vì người là đấng xức dầu của Chúa. Hơn thế nữa,
cha ôi, hãy nhìn xem mảnh chiến bào của bệ hạ trong tay tôi, vì khi xén vạt chiến
bào của bệ hạ, tôi không muốn ra tay sát hại bệ hạ. Xin bệ hạ hãy nhận biết rằng
tay tôi không làm điều ác và bất công, tôi không phạm đến bệ hạ, nhưng bệ hạ cứ
âm mưu hãm hại mạng sống tôi. Xin Thiên Chúa xét xử cho bệ hạ và tôi, và xin
Chúa báo thù cho tôi. Nhưng tay tôi sẽ không phạm đến thân bệ hạ. Như ngạn ngữ
xưa có nói "Ác giả ác báo", nhưng tay tôi cũng sẽ không phạm đến bệ hạ.
Hỡi vua Israel, bệ hạ bắt bớ ai? Bệ hạ bắt một con chó chết, một con bọ chét
sao? Xin Chúa làm quan án và xét xử cho tôi và bệ hạ, xin Chúa nhìn xem và xét
xử vụ này mà giải thoát tôi khỏi tay bệ hạ".
Đavít
vừa dứt lời, Saolê liền nói: "Hỡi Đavít con ta, có phải tiếng đó là tiếng
của con không?" Saolê cất tiếng khóc và nói cùng Đavít rằng: "Con
công chính hơn cha, con làm ơn cho cha mà cha trả oán cho con. Hôm nay con vạch
rõ, con đối xử nhân đạo với cha, vì mặc dầu Chúa đã trao cha vào tay con mà con
cũng không giết cha. Nào có ai gặp kẻ thù mà để nó đi yên lành không? Vậy xin
Chúa báo đáp lại cho con về ân huệ mà con đã làm cho cha trong ngày hôm nay.
Nay cha biết chắc rằng con sẽ làm vua, và con sẽ nắm mãi mãi trong tay con
vương quốc Israel". Đó là lời Chúa.
ĐÁP
CA: Tv 56, 2. 3-4. 6 và 11
Đáp:
Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con (c. 2a).
1)
Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con, vì linh hồn con tìm đến
nương tựa Ngài. Con nương nhờ bóng cánh của Ngài, cho tới khi cơn hoạn nạn qua
đi. - Đáp.
2)
Con kêu lên Thiên Chúa Tối Cao, Thiên Chúa thực hiện cho con điều lành. Nguyện
Chúa tự trời thi ân và cứu độ con, làm cho những người bách hại con phải nhục
nhã, nguyện Chúa tỏ ra ân sủng và lòng trung tín của Ngài. - Đáp.
3)
Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài ra trên
toàn cõi đất, vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm
ngàn mây. - Đáp.
ALLELUIA:
Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và
chúng theo Ta". - Alleluia.
PHÚC
ÂM: Mc 3, 13-19
"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người.
Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các
ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê
con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là
Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô,
Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô
là kẻ nộp Người. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu
thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay
vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay
vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để
công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu
suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều
cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó
là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội
vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ
chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền
hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội
thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn
mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là
thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói
này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin
Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội.
Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi
rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng:
chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và
chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa
Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả
năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa.
Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành
mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận
thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua,
Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo
Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao
giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt
đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể,
là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội
và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng
Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về
Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả
khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội
cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng
năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần
lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy
cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một
như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã
sai Con".
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 8:6-13; I Sam
24:3-21; Mk 3:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khi cái hoàn hảo tới,
cái bất toàn phải qua đi.
Con
người thường có khuynh hướng tiếc nuối những huy hoàng của quá khứ và từ chối
không tiếp nhận những thay đổi trong cuộc sống hiện tại. Họ quên đi nhân loại
càng ngày càng phải phát triển để tiến bộ hơn, trong đời sống xã hội cũng như
tôn giáo. Tục ngữ Việt-nam có rất nhiều câu khuyên mọi người phải bỏ thái độ thủ
cựu, nắm giữ quyền hành: "Tre già, măng mọc" hay "Con hơn cha,
nhà có phúc." Trong Kế Hoạch Cứu Độ cũng thế, Thiên Chúa không dựng nên
con người toàn hảo hay mặc khải mọi sự cho con người ngay từ đầu; nhưng muốn
con người từ từ tiến đến chỗ hoàn hảo và càng ngày càng thấu hiểu về Thiên Chúa
và Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài. Vì thế, con người cần có sự khôn ngoan và tâm hồn
cởi mở để đón nhận những thay đổi trong cuộc sống; chứ không ích kỷ nắm giữ quá
khứ.
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự tiệm tiến của những gì Thiên Chúa đã làm cho con
người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái so sánh hai giao ước cũ và
mới mà Thiên Chúa thiết lập với dân: vì giao ước cũ bất toàn nên mới có giao ước
mới; giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ vì đặt căn bản trên những lời hứa tốt
đẹp hơn của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul phải công nhận
David là người công chính và xứng đáng làm vua của Israel hơn ông; vì trong khi
Vua luôn tìm cơ hội để thủ tiêu David, còn David luôn tìm dịp để giúp đỡ và tha
chết cho Vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với
Ngài và được huấn luyện, trước khi Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và tiếp
tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I (năm chẵn):
Saul thú nhận với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha,
còn cha thì xử ác với con.''
1.1/
Phản ứng của David: Ông
biết Saul muốn tìm dịp hại ông vì ghen tị, không muốn ông làm Vua Israel. Dịp
may để hạ sát vua Saul đã tới tại En-Gedi, cạnh Biển Chết, khi Saul vào trong một
hang đá để làm việc cần cá nhân. Lúc đó David và người của ông đang ngồi ở cuối
hang. Người của ông David nói với ông: "Đây là ngày Đức Chúa phán với ông:
"Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế
nào tùy ý.""
David
có thể triệt hạ Saul lúc đó để khỏi phải lo chạy trốn mãi; nhưng ông sợ động tới
người Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong. Ông cũng ngăn cấm người của ông không được
đụng tới vua Saul; ông chỉ nhẹ nhàng đi tới chỗ Saul treo áo choàng và cắt vạt
áo của vua Saul. Hành động cắt vạt áo choàng có lẽ là một biểu tượng để nhắc lại
chuyện vua Saul đã vô ý giật rách áo choàng của ngôn-sứ Samuel trong trình thuật
15:27-28.
Sau
đó, David ra khỏi hang và kêu lớn tiếng đằng sau vua Saul rằng: "Thưa đức
vua là chúa thượng con!" rồi sấp mặt sát đất mà lạy. David nói với vua
Saul: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng David đang tìm cách hại
cha? Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Đức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay,
trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và
nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Đức Chúa
đã xức dầu tấn phong. Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng
của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì
xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã
không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con.'' David cầu
xin Thiên Chúa phân xử mối liên hệ giữa ông và Saul: trong khi David luôn đối xử
tốt lành với Saul, thì Saul lại luôn tìm cách hãm hại David vì ghen tị. David
tin Đức Chúa sẽ giải quyết xung đột giữa hai người; chứ ông không dám ra tay hại
người Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.
1.2/
Phản ứng của Saul: Khi
ông David nói những lời đó xong, thì vua Saul Saul oà lên khóc. Vua nói với
David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với
con. Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Đức Chúa đã nộp cha
vào tay con mà con đã không giết cha. Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi
yên lành không?" Công chính là tiếp tục sống đúng mối liên hệ của mình,
cho dù tha nhân đã không sống đúng mối liên hệ đó.
Vua
Saul cũng nhận ra David là người xứng đáng lãnh nhận vương quyền để cai trị
Israel, ông cầu chúc cho David: "Xin Đức Chúa thưởng con vì điều tốt con
làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn
con sẽ làm vua và vương quyền Israel sẽ vững mãi trong tay con.''
2/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai.
2.1/
Sứ vụ của Nhóm Mười Hai: “Rồi
Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người.
Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao
giảng, với quyền trừ quỷ.” Tại sao phải lập Nhóm Mười Hai?
(1)
Để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu biết rõ những gì sẽ
xảy đến cho Ngài trong tương lai, vì thế Ngài cần những người tiếp tục công việc
của Ngài. Người lãnh đạo giỏi là người biết nhìn đến tương lai, và biết huấn
luyện những người có khả năng để thay thế mình sau này; vì nếu không huấn luyện
người để thay thế, tất cả những cố gắng của mình, cho dù hay đến đâu chăng nữa,
cũng sẽ rơi vào quên lãng.
(2)
Để Tin Mừng đựơc loan báo sâu rộng và nhiều người được chữa lành hơn: Phương tiện truyền
thông duy nhất thời đó là loan báo bằng miệng, và phương tiện di chuyển thịnh
hành nhất là đi bộ. Chúa Giêsu băn khoăn làm sao để Tin Mừng có thể đạt tới mọi
người, và không còn cách nào hiệu quả hơn là mời gọi nhiều người cộng tác để huấn
luyện, và rồi sai họ đi thi hành sứ vụ. Đó là lý do tại sao Ngài không chỉ huấn
luyện một, mà 12 Tông-đồ; bên cạnh đó, Ngài còn huấn luyện rất nhiều các môn đệ
đi theo Ngài. Điều này dạy chúng ta, để Tin Mừng có thể lan tràn đến mọi người,
chúng ta cần sự cố gắng và cộng tác của rất nhiều người, chứ không giới hạn
trong một thiểu số có tài năng hay kiến thức mà thôi.
(3)
Chúa Giêsu gọi các ông để ở với Ngài: Cách huấn luyện hiệu quả nhất của người thời xưa là
cho ở với Thầy; mục đích không những là để cho các trò học tất cả những gì nơi
Thầy: sự khôn ngoan cũng như cách cư xử, nhưng còn là cơ hội cho Thầy quan sát
các trò của mình và sửa sai những tính xấu cho họ.
2.2/
Thành phần của Nhóm Mười Hai: “Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Simon là Phêrô, rồi
có ông Giacôbê con ông Zebedee, và ông Gioan em ông Giacôbê - Người đặt tên cho
hai ông là Boarneghese, nghĩa là con của thiên lôi - rồi đến các ông Anrê,
Philípphê, Barthôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Tađêô, Simon thuộc
nhóm Quá Khích, và Giuđa Iscariot là chính kẻ nộp Người.” Nhìn qua danh sách của
12 Tông-đồ, một người có những nhận xét như sau:
(1)
Không có ai nổi bật: về
danh giá, quyền thế, cũng như về kiến thức. Ngược lại, đa số là những ngư phủ
thất học tầm thường. Các ông có thành công và trung thành với sứ vụ hay không
là do cách Chúa Giêsu huấn luyện.
(2)
Là những con người yếu đuối, tội lỗi: Matthew là người thu thuế, và được xem là tội lỗi
thường xuyên và công khai. Judah Iscarioth là người sẽ nộp Chúa. Hai con ông
Zebedee, Gioan và Giacôbê, là người nhắm địa vị “ngồi bên tả và bên hữu” Chúa
Giêsu trong vương quốc của Ngài. Phêrô chối Chúa 3 lần, và hầu hết các Tông-đồ
đều bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy việc huấn
luyện con người không dễ.
(3)
Tính khí rất khác nhau: Simon,
người thuộc Nhóm Quá Khích, có khuynh hướng bảo vệ quốc gia Do-Thái, rất ghét
những người cấu kết với ngọai bang để bóc lột dân như Matthew, người thu thuế.
Thế mà Chúa Giêsu chọn hai ông để sống chung với nhau, dẹp bỏ sự khác biệt, và
cùng chung lo một sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phêrô rất nhanh nhẩu đến nỗi làm mà
không chịu suy nghĩ, để ở với Gioan, người luôn thâm trầm và cẩn thận suy nghĩ
trước khi làm. Nói tóm, sự huấn luyện của Chúa Giêsu và cuộc sống chung đã làm
các ông phải dẹp bỏ những khác biệt cá nhân để cùng hy sinh cho sứ vụ rao giảng
Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Trong sự quan phòng và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không dựng nên mọi
sự hoàn hảo và tốt đẹp ngay từ đầu; nhưng một cách tiệm tiến, mọi sự dần dần trở
nên hoàn thiện. Ngài muốn chúng ta đừng tiếc nuối và níu kéo quá khứ; nhưng biết
dùng trí khôn và mở lòng để đón nhận những mặc khải mới, và cố gắng để càng
ngày càng trở nên tốt hơn.
-
Sự ghen tị là lý do ngăn cản đà tiến của nhân loại, chúng ta đừng để nó làm mờ
mắt đến nỗi chúng ta không nhận ra thánh ý của Thiên Chúa; nhất là làm chúng ta
mù quáng đến độ muốn tiêu diệt sự thật và giết hại những người lành.
-
Chúng ta hãy tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu, vì Ngài là trung gian của một
giao ước hoàn hảo. Ngài luôn yêu thương và lo lắng mọi sự cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc
3,13-19
A.
Hạt giống...
Chúa
Giêsu lập Nhóm 12. Có vài chi tiết đáng để ý :
-
Việc này xảy ra "trên núi" : Theo truyền thống Thánh Kinh,
"núi" là nơi thiêng thánh : nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người (x 1V
19,8 : Thiên Chúa gặp Êlia), nơi lập Giao ước (Xh 19,3), nơi mặc khải... Vậy
Chúa Giêsu lập nhóm 12 trên núi vì việc này có tính cách quan trọng và thiêng
thánh.
-
Ngài "gọi đến với Ngài những kẻ Ngài muốn" : ơn gọi xuất phát từ sáng
kiến và ơn ban của Chúa, chứ không phải do công đức của con người.
-
12 người này được chọn "để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi".
Đây là 2 nét quan trọng trong căn tính của người tông đồ.
-
Trong số những người được chọn có cả một người sẽ phản nộp Ngài.
B....
nẩy mầm.
1.
Chúa không đích thân đi rao giảng Tin Mừng, mặc dù cách này hữu hiệu hơn, nhưng
lại chọn một số người làm việc ấy. Lý do : a/ Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng
của Ngài ; b/ Chúa chia sẻ cho con người vinh dự Chúa Cha trao cho Ngài...
2....
Nhưng, để không phụ lòng tin tưởng của Chúa, những người được chọn để sai đi ấy
trước hết phải "ở với" Ngài. Kẻ được sai phải "ở với" Đấng
sai phái để thấm nhuần tinh thần của Ngài, và có như thế họ mới là sứ giả đích
thực của Ngài và làm việc đúng như ý Ngài muốn.
3.
Thế chiến thứ II kết thúc, một số binh sĩ Hoa Kỳ vẫn còn ở lại một số miền được
giải phóng ở Đức. Họ giúp dân chúng thu dọn và sửa chữa những ngôi nhà đổ nát.
Công tác quan trọng là xây dựng lại những nhà thờ bị hư hại vì bom đạn... Sau
khi thu dọn, sửa chữa, sắp đặt, các binh sĩ khựng lại trước một bức tượng Đức
Kitô bị đổ nát trên bàn thờ. Bức tượng này xem ra được tân trang, chỉ trừ đôi
tay là biến mất, và cho dù cố gắng đến mấy cũng không thể nhặt được những mảnh
vụn của đôi tay. Bất lực đứng nhìn pho tượng không tay của Đức Kitô, các binh
sĩ Hoa kỳ đành phải lấy sơn viết vào tấm bảng và đặt dưới chân Ngài với hàng chữ
"Ta không có đôi tay nào khác hơn là đôi tay của các ngươi" (Trích
"Mỗi ngày một tin vui")
4.
"Chúa Giêsu lập nhóm 12 để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi
rao giảng" (Mc 3,14)
Chúa
Giêsu chọn 12 người :
Gioan
và Giacôbê, những người trẻ nóng tính
Mát
thêu, một người thu thuế cho đế quốc
Simon,
một thành viên của nhóm cuồng tín
Phêrô,
anh dân chài thất học…
Những
con người quá đỗi bình thường ấy có thể làm được gì lớn lao cho Chúa và cho đời
?
Chúa
Giêsu chọn họ để họ ở với Người và Người ở với họ, để từ một nhóm người bé nhỏ,
tội lỗi, tình yêu của Thiên Chúa được rao giảng, con người tìm được hạnh phúc
thật.
Chúa
ơi, cho con ở với Chúa thật sâu, để con có sức mạnh mà thành người hữu ích cho
đời. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
24/01/14 THỨ SÁU TUẦN 2 TN
Th. Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 3,13-19
Th. Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 3,13-19
Ở VỚI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC SAI ĐI
Người lập Nhóm Mười Hai , để
các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc 3,14)
Suy niệm: Cuộc
sống người môn đệ Đức Giêsu bao hàm hai nhịp liên hoàn: ở với Người và được
Người sai đi.
- Trước tiên, phải sống thân mật với Chúa đã,
để có kinh nghiệm về Người và để thấm đượm tinh thần của Người. Muốn biết Chúa
bằng cái đầu, có thể qua sách vở, chữ nghĩa, qua nghiên cứu; song để biết Chúa
bằng trái tim, nhất thiết phải sống với Người ...
- Sau đó mới có thể ra đi làm chứng nhân cho
Người, rao giảng về Người bằng tất cảnhiệt tình và xác tín – là điều kiện để có được lời chứng thuyết
phục, nhất là đối với con người thời đại hôm nay...
Mời Bạn cải
thiện đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích của mình bằng việc lắng nghe và
suy niệm Lời Chúa. Một khi bạn thực sự yêu Chúa, thì cả cuộc sống bạn là một
lời chứng sáng tỏ, hùng hồn, đầy mãnh lực cuốn hút người ta. Bạn sẽ không phải
quá băn khoăn về việc nói gì và nói cách nào để rao giảng về Chúa ...
Sống Lời Chúa: -
Đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày; - kết hợp với Chúa thường xuyên bằng những
lời nguyện tắt trước khi bắt đầu một công việc hay một cuộc tiếp xúc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong công cuộc xây dựng Nước Trời, Chúa đã cần
đến sự cộng tác của các môn đệ. Chúa đã mời gọi các môn đệ đến ở với Chúa trước
khi sai các ông đi rao giảng. Ngày nay, Chúa cũng chờ đợi sự cộng tác của chúng
con. Xin cho chúng con biết trân trọng đời sống cầu nguyện, biết gặp gỡ Chúa
thực sự qua phụng vụ và bí tích – để được Chúa biến đổi. Và chúng con sẽ thành
muối men âm thầm thấm đượm vào thế giới này. Amen.
Đến với Người, ở với Người
Kitô hữu là người được gọi, để ở với Chúa Giêsu
và được ngài sai đi. Cuộc sống xao động hôm nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa và
rơi vào tình trạng nghiện việc.
Suy niệm:
Thông thường ở xã hội
Do-thái, người môn đệ đi tầm sư học đạo.
Còn Thầy Giêsu lại đi
“gọi” học trò.
Thầy muốn lập một nhóm
học trò ruột, hết sức gần gũi với mình.
Những người Thầy muốn,
Thầy đã gọi họ lại.
Và họ đã đáp lời mà đến
với vị Thầy đang ở trên núi.
Như thế sáng kiến thì bắt
nguồn từ Thầy,
còn đáp lại là điều con
người cần thực hiện.
Thầy Giêsu muốn lập một
nhóm mười hai môn đệ.
Có thể vì Thầy nhớ đến
mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Mục đích của nhóm Mười
Hai này là ở với Thầy và được Thầy sai đi.
Ở với là chuyện ưu tiên,
và cũng là chuyện dễ bị xao lãng.
Ở với là có tương quan
thân thiết và thường xuyên với Thầy.
Ở với là chia sẻ cuộc
sống ăn ở, đói no, thành công, thất bại.
Khi ở với Thầy Giêsu,
người môn đệ hiểu Thầy sâu xa và gắn bó với Thầy.
Khi các môn đệ đến với và
ở với Thầy Giêsu,
họ như được tách ra khỏi
đám đông.
Sau này, khi tìm người
thay thế Giuđa phản bội,
Phêrô đòi đó phải là
người đã sống với Thầy Giêsu ngay từ đầu (x.Cv 1, 22).
Ở với nằm trong định
nghĩa về người môn đệ của Thầy Giêsu.
Nhưng đó không phải là
điểm dừng.
Ở lại với Chúa là để được
sai đến với con người.
Được tách ra khỏi đám
đông chính là để được sai đến với đám đông,
trong tư cách của người
đã được mắt thấy tai nghe Thầy Giêsu.
Người môn đệ được sai sẽ
được phép làm những việc y hệt như Thầy :
rao giảng Tin Mừng và trừ
quỷ nhằm phục vụ cho con người.
Chẳng những họ làm
việc như Thầy, họ còn làm việc của Thầy và với Thầy.
Không ở với thì cũng
chẳng được sai đi, và cũng không đủ sức để được sai.
Nhưng ở với là để có ngày
được sai đi, mà sai đi thì vẫn luôn ở với.
Kitô hữu là người được
gọi, để ở với Chúa Giêsu và được ngài sai đi.
Cuộc sống xao động hôm
nay có vẻ làm ta quên ở với Chúa
và rơi vào tình trạng
nghiện việc.
Chính vì thế công việc ta
làm không đem lại hiệu quả thực sự và lâu bền.
Hãy ở với Giêsu mỗi ngày
15 phút, bạn sẽ thấy mọi sự thay đổi.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn
tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được
những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm
công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng
những lúc
được an nghỉ trước nhan
Chúa.
Khi bị xao động bởi những
bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh
thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê
dục vọng,
xin cho con thoát được
lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ
của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu
nguyện
thấm nhuần vào cả đời
con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con
người thật của con
và khuôn mặt thật của
Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
SUY NIỆM : Chúng ta là những người được Thiên Chúa chọn gọi qua Bí tích rửa
tội. Ơn gọi của các Tông đồ cũng là ơn gọi của chúng ta. Nền tảng căn bản của
mọi ơn gọi xuất phát từ Thiên Chúa: “Ngài gọi những kẻ Ngài muốn” (Mc
3, 13a). Và thái độ đẹp nhất của những kẻ được gọi là “Các ông
đến với Người” (Mc 3, 13b).
Ơn gọi Kitô hữu là “Ở
với Người, và để Người sai đi rao giảng” (Mc 3, 14). Các Tông đồ được
chọn gọi để từ bỏ hết tất cả mọi sự, bước theo Thầy Giêsu. Để với những gì các
ông đã từng nghe, từng thấy và từng cảm nghiệm được, các ông phải chia sẻ cho
người khác.
Qua việc Chúa Giêsu chọn
gọi 12 Tông đồ hôm nay, tôi nhìn lại ơn gọi làm Kitô hữu của tôi. Không phải là
một chuyện tình cờ, may rủi mà tôi trở thành con cái Chúa, nhưng nói theo lời
của Đức Thánh Cha Phanxicô hôm 08.01.2014 vừa qua tại quảng trường thánh
Phêrô: “Như vậy, bí tích Rửa Tội không phải là một hình thức! Nó là một
hành động đụng chạm tới trong sâu thẳm cuộc sống chúng ta. Một đứa bé được rửa
tội và một đứa bé không được rửa tội không như nhau. Một người được rửa tội và
một người không được rửa tội không giống nhau. Với bí tích Rửa Tội chúng ta
được dìm trong suối nguồn bất tận của sự sống là cái chết của Chúa Giêsu, hành
động tình yêu vĩ đại nhất của toàn lịch sử; và nhờ tình yêu đó chúng ta có thể
sống một cuộc đời mới, không ở trong quyền lực của sự dữ, tội lỗi và cái chết
nữa, nhưng sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và các anh em khác”. Tôi
cám ơn Chúa vì tôi được Chúa cho tôi được làm con cái Chúa, được tham dự vào sự
sống của Ngài.
Qua việc Chúa lập nhóm 12
hôm nay, tôi nhìn đến sứ mạng của tôi. Nhóm 12 được sai đi khi các ông đã từng
ở với Chúa Giêsu. Nghĩa là các ông phải có kinh nghiệm về Thầy mình. Vì vậy, sứ
mạng của tôi cũng phải là chia sẻ kinh nghiệm của mình về Chúa Giêsu. Để có thể
kinh nghiệm về Chúa Giêsu, tôi không thể tìm hiểu, nghiên cứu như một môn học,
mà nói theo lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng,
tôi phải có cuộc “gặp gỡ cá vị với Đức Giêusu Kitô”. Nghĩa là mối tương quan
riêng biệt với Ngài. Để thiết lập mối tương quan riêng biệt với Ngài, tôi phải
gặp gỡ Ngài trong cầu nguyện và các Bí tích.
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
cho con được làm người, và hơn thế nữa, làm con cái Chúa, làm Kitô hữu. Xin cho
con biết sống tốt tư cách của một người con, luôn hiếu thảo với cha mẹ mình,
luôn làm cho cha mẹ mình được nở mày nở mặt.
Xin cho con có mối tương
quan thân tình với Đức Giêsu trong cầu nguyện, trong thánh lễ và các Bí tích,
để có thể nói về Ngài bằng chính kinh nghiệm của con.
Và cuối cùng, lạy Chúa,
xin cho Nước Chúa trị đến.
Lm.Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24
THÁNG GIÊNG
Sống Để Làm Việc -
Hay Làm Việc Để Sống?
Con
người được mời gọi trân trọng phẩm giá của mình trong công việc mình làm.
Đáng
tiếc, rất nhiều hiện trạng lao động dường như đang phản nghịch lại mục tiêu
quan trọng ấy. Tình trạng làm việc quá nặng, quá căng thẳng, quá chú trọng đến
tính ganh đua hay sức sản xuất của người công nhân, và rất nhiều những khía cạnh
cơ giới hóa khác … đều đang nhất tề ‘thọc gậy bánh xe’! Nhiều khi chúng đi đến
mức biến công việc thành chủ của con người chứ không phải con người làm chủ
công việc.
Nhiều
người bắt đầu cảm thấy rằng dường như mình sống để làm việc chứ không phải là
làm việc để sống.
Có
người đã đặt câu hỏi với tôi: Phải đối phó thế nào với tình hình như vậy? Rõ
ràng vấn đề có liên hệ đến người lao động, đến gia đình của họ và điều kiện làm
việc của họ. Tôi tin rằng – một cách căn bản – tôi có thể chỉ ra câu trả lời
cho vấn đề. Đó chính là một tuyên bố rất hàm súc của Công Đồng Vatican II: “Điều
quan trọng hệ tại ở chỗ con người là gì chứ không phải ở chỗ con người có gì”
(MV 35). Một châm ngôn đệ nhất!
Người
ta phải không ngừng tự tra xét mình để hiểu sự thực mình là ai. Mỗi người phải
lặn sâu xuống đáy lòng mình để khám phá sự thực về hướng đích của mình trong
lao động. Phải nhận ra những giới hạn của mình và cố vượt qua chúng càng nhiều
càng tốt. Phải nhận ra những khả năng của mình và làm cho chúng sinh hoa trái
phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Càng nhận hiểu sự thực về mình, chúng ta sẽ
càng hiểu hơn mình phải làm gì để quân bình và hòa điệu các quyền và các bổn phận
của chúng ta trong tư cách là những con người .
Làm
người – đó phải là nền tảng để đánh giá cả những gì mình làm lẫn những gì mình
có. Đó là điểm qui chiếu mà mọi hoạt động của chúng ta phải hướng về. Đó là cơ
sở để bảo đảm mối thống nhất trong chính con người chúng ta. Mọi khía cạnh của
con người phải hòa hợp chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, những trách nhiệm mà người
công nhân đảm nhận ở sở làm phải giúp cho người ấy trưởng thành hơn trong đời sống
gia đình cũng như trong sự đóng góp của đương sự đối với cộng đồng.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 24-01
THÁNH PHANXICÔ SALÊSIÔ, GIÁM
MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH
1Sm 24, 3-12; Mc 3, 13-19.
LỜI SUY NIỆM: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ”
Nhóm Mười Hai, gồm những người
không giống nhau từ đời sống, nghề nghiệp và quan niệm chính trị… Nhưng các ông
đã được ở với Chúa, chính nhờ sống với Chúa mà các ông đã nên một trong cùng một
sứ vụ. Nhìn vào Nhóm Mười Hai, chúng ta liên tưởng đến các cộng đoàn tu sĩ nam
nữ. Họ cũng vậy. Chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho họ được tràn đầy ơn Chúa.
Ngày càng thánh thiện, để đem Tin Mừng đến khắp mọi nơi.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con luôn được sống gần Chúa qua các phép Bí
tích, và luôn nhớ cầu nguyện cho các tu sĩ nam nữ đang sống trong các cộng
đoàn.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
24-01: Thánh PHANXICÔ SALÊ
Giám
Mục Tiến Sĩ (1567-1622)
Một
đứa trẻ giận dữ nhất cũng phải nói rằng: thánh Phanxicô Salêciô là vị thánh hiền
hoà nhất thế giới, Ngài đã biết cách để sửa mình và do đó đưa ra phương thức tốt
đẹp để nên thánh: "Tôi chỉ nghĩ tới sự dịu hiền, dĩ nhiên, không phải chỉ
có điều đó mà thôi. Sau này các bạn hữu Ngài đã ngạc nhiên vì sự im lặng thánh
nhân giữ được trước những lăng nhục.
Ngài
nói: - "Gì vậy, bạn muốn tôi bỏ mất trong giây lát một chút dịu dàng mà
tôi đã mất 20 năm để thu thập sao ?"
Sự
dịu dàng Ngài đã thực hiện với bao nghị lực, bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa,
Ngài đã có thể nói với bạn bè sau một cảnh thô tục mà một lãnh Chúa đã làm cho
Ngài rằng: - Tôi giận sôi người lên, nhưng tôi thích chết đi còn hơn là nói lên
một điều nhỏ nào có thể làm buồn lòng Thiên Chúa.
Thật
khó hiểu nổi cách thế mà trong Ngài, một lòng nhân hậu dịu dàng như vậy đã thay
thế cho bạo lực. Đối với người dọa nạt, Ngài trả lời: - Thưa ông, nếu ông có một
con mắt, tôi sẽ nhìn ông bằng con mắt kia với lòng trìu mến.
Cả
thánh Vincentê Phaolô cũng nói: - Khi muốn chiêm ngưỡng sự dịu hiền của Thiên
Chúa, tôi nhìn về giám mục thành Ghênêva.
Chào
đời ngày 21 tháng tám năm 1567 ở lâu đài Sales, Phanxicô từ trong nôi đã gặp được
đức tin và đức ái. Ngài học được từ người mẹ đã từng dẫn Ngài đi thăm các người
nghèo khó, để yêu thương và giúp đỡ họ. Năm 1582, Ngài theo học khoa hùng biện
và ôn triết tại Paris. Vào tuổi 17 một cơn dằn vặt thiêng liêng kinh khủng ám ảnh
Ngài: người tưởng rằng: mình không còn sống trong tình trạng ơn thánh nữa, hoả
ngục dành cho Ngài và nơi khủng khiếp này không còn tình yêu Chúa nữa.
Phanxicô
cầu khần: - Lạy Chúa ít ra cuộc sống vắn vỏi này con biết dành để yêu mến Chúa.
Kiệt
sức, Ngài chạy đến xin đức Trinh nữ gìn giữ mình được trinh trong và cứu thoát
cho khỏi cơn thử thách gay go này. Ngài đọc kinh "hãy nhớ" và sau
cùng tìm lại được bình an.
Từ
năm 1586 -1591, Ngài theo học luật tại Padua và đậu bằng tiến sĩ. Trở lại gia
đình gia đình, Ngài được đón tiếp trong niềm hân hoan phấn khởi. Cha mẹ Ngài
vui sướng về đám cưới của Ngài. Nhưng Ngài đã từ khước mọi dự định của gia
đình. Hạnh phúc và danh vọng trần thế không đáng kể gì đối với Phanxicô, con
người đã được tình yêu tuyệt đối chiếm đoạt, Ngài muốn trở thành linh mục. Được
phong chức vào ngày 31 thắng 5 năm 1593, Ngài trở thành linh mục hoàn hảo, luôn
có Chúa Giêsu ngự trong mình, Ngài sống gần dân làng như một người cha hiền, có
mặt trong mọi sự. Gặp cơn dịch hạch lan tràn, ngày đêm người ta thấy Ngài đi từ
bệnh nhân này tới bệnh nhân khác, chú ý tới những thể xác lẫn tinh thần đau khổ.
Một
sứ mệnh lớn lao kêu gọi tới Phanxicô. Những người theo phái thệ phản thêm nhiều
trong xứ sở, phá hủy nhiều nhà thờ và tu viện, lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới
với đức Cha Granier, giám mục Ghênêva, Ngài được phép hiến mình thực hịên một nỗ
lực dường như không thể được, là đưa dân chúng Chablais trở lại khỏi ảnh hưởng
phái ở Calvinnô. Không có đe dọa hay bạo lực nào bắt Người ngừng giảng được.
Nơi nào không thể đến rao gảing, Ngài phân phát truyền đơn. Suốt ba năm dưới ảnh
hưởng của thánh nhân, 72 ngàn người theo thệ phản đã hoán cải.
Năm
1602, vua Henri IV đã muốn thánh Phanxicô làm giám mục thành Paris nhưng Ngài
đã từ khước danh dự này và nói: - Thưa Ngài, tôi đã đính hôn với một bà Chúa
nghèo, tôi không thể từ giã bà để theo một bà khác giàu có hơn.
Nhà
vua rất thán phục sự độc lập của Ngài và tuyên bố rằng: Phanxicô vĩ đại hơn ông
là kẻ làm vua nhiều. Dầu vậy tháng 6 năm 1602, Ngài Ngài đã phải nhận tòa giám
mục Annecy - Gheneva.
Các
bài giảng thuyết của Ngài sớm lừng danh, đến độ những thành phố lớn đòi được
nghe tiếng Ngài. Nhưng giám mục người Xa-voa (Savoie) thích giảng cho dân nghèo
hơn. Ngài còn cho họ cả tới áo mặc của mình. Người ta thấy Ngài không giữ lại
gì cho mình. Ngài chỉ thánh giá và nói: - Người ta có thể từ chối điều gì được,
đối với một Thiên Chúa đã tự đặt mình vào trạng huống này vì chúng ta ?
Đối
với các tội nhân, Ngài thân tình đón tiếp họ: - Các con hãy đến đây để cha ôm ẵm
và đặt các con vào lòng cha. Cha chỉ đòi các con một điều là không được thất vọng,
phần còn lại cha lãnh tất cả.
Đi
tìm kiếm một linh hồn, nếu cần Ngài vượt qua rừng trong đêm tối, bất chấp bọn
cướp giật hay thú rừng độc dữ, chân Ngài thường rớm máu vì băng giá. Một lần bọn
sát nhân nhào tới, Ngài âu yếm bảo họ: - Các bạn không cần đòi mạng tôi làm
chi, bởi vì tôi đã hiến mạng sống tôi để bảo tồn sự sống của các bạn.
Người
ta có thể thấy rõ là Ngài đã nói thực. Bao người sát nhân đã làm như bao người
khác: họ trở thành bạn hữu của Phanxicô. Và làm sao yêu Ngài, mà lại không yêu
tôn giáo đã làm cho Ngài hiến thân trọn vẹn cho mỗi tâm hồn như vậy. Ngài nói:
- Một linh hồn là một giáo phận rộng đủ cho một giám mục rồi.
Phanxicô
không ngừng rao giảng, ngồi tòa, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người cùng khổ.
Giữa những công việc bề bộn, Ngài còn viết nhiều tác phẩm được nhiều Kitô hữu mến
chuộng như quyển: "Đường trọn lành", quyển "Dẫn vào đời sống nhiệt
thành" (cuốn này đã được chuyển sang Việt ngữ với tựa đề: sống thánh giữa
đời), chứng tỏ rằng: đời nhiệm hiệp và các nhân đức cao cả nhất, đều có thể nảy
nở, ngay trong cuộc sống từ cung điện, lẫn "trong binh đội và trong các xưởng
máy", Ngài truyền "dệt nên những sợi dây nhân đức nhỏ bé". Cuốn
"khảo luận về tình yêu Thiên Chúa" của Ngài đáng cho Ngài được vinh
quang như ở giữa bầu lửa, trong khi chuẩn bị viết về tình yêu của Ngôi Lời vĩnh
cửu.
Thánh
Phanxicô đã lập nhiều tu viện và tiếp tục hứơng dẫn các tu viện ấy. Hai ngàn bức
thư của Ngài vẫn còn, Ngài trao dòng "Thăm viếng" cho thánh nữ
Chantal, Đấng mà Ngài hiệp nhất bằng một tình yêu trắng hơn tuyết, trong sáng
hơn ánh mặt rời.
Thánh
nhân kiệt sức khi Ngài nhận giảng dạy tại Lyon dịp lễ Giáng sinh. Ngài ngã bệnh
lúc lên đường. Vừa tới nơi Ngài biết mình sắp chết. Người ta chỉ còn nghe thấy
Ngài nói: - Lạy Chúa là tất cả của con.
Với
các bạn bè đang khóc lóc Ngài nói: - Các bạn lại không muốn ý Chúa được thực hiện
sao ?
Trọn
đời thánh Phanxicô yêu mến hoàn thành thánh ý Chúa. Bí quyết đời thánh thiện của
Ngài diễn tả như sau: - Với giá vĩnh cửu, cái gì chấm đứt với thời gian lại có
thể ảnh hưởng trên chúng ta được ? Phải ước muốn một mình Thiên Chúa thôi, một
cách tuyệt đối không thay đổi và bất khả xâm phạm.
Ngài
qua đời ngày 28 tháng 12 năm 1622 và được Đức Gáio hoàng Alexandre VII tôn
phong hiển thánh năm 1665.
(daminhvn.net)
24
Tháng Giêng
Hãy Triệt Hạ Thập
Giá
Gibert
Keith Chesterton, một văn sĩ Công giáo người Anh, qua đời năm 1936, đã mô tả thảm
họa của vua thần trong một quyển tiểu thuyết mang tựa đề: "Bầu trời và Thập
Giá". Một giáo sư vô thần tên là Lucifer được ông cho ngồi bên cạnh một tu
sĩ tên là Michel trên một chuyến máy bay xuyên qua Anh quốc.
Khi
máy bay đi qua London, giáo sư Lucifer bỗng nhìn thấy thập giá trên tháp chuông
nhà thờ chánh tòa. Không tự chế được, ông đã thốt lên lời sỉ vả đối với Kitô
Giáo. Vị tu sĩ mới xin phép kể câu chuyện như sau: "Tôi cũng biết có một
người thù ghét thập giá như ông. Bất cứ nơi nào có thập giá, ông ta cũng tìm đủ
mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập
giá ông đều xé nát. Ngay cả chiếc thập giá bằng vàng trên cổ người vợ, ông cũng
tìm cách giành giật để kéo ra khỏi người bà. Oâng nói rằng thập giá là một biểu
trưng của sự độc ác dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày
nọ, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp
chuông nhà thờ của giáo sứ, tháo gỡ thập giá và ném xuống đất. Sự thù hận đối với
thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn… Một buổi chiều mùa hè nóng bức
nọ, ông đứng tựa vào một balcon gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy
nguyên chiếc balcon gỗ biến thành một đạo binh thánh giá. Rồi trước mặt, đằng
sau lưng ông, nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm chiếc gậy trên
tay để đánh đổ tát cả những cây thập giá. Vào trong nhà, bất cứ những gì làm bằng
gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù của thập giá. Không còn dùng gậy để đạp
đổ nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới may ra tiêu diệt được thập
giá. Ngọn lửa bốc cháy thiêu chụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác
của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà.
Câu
kết luận mà văn sĩ đã đặt trên môi miệng vị tu sĩ là: "Nếu bạn bắt đầu bẻ
gãy thập giá, bạn sẽ không chóng thì chày phá hủy chính cái thế giới có thể sống
được này". Với cái chết của Ðức Kitô, thập giá trở thành biểu trưng của một
sự chiến thắng: đó là chiến thắng của Tình yeu trên hận thù. Nơi nào có thập
giá, nơi đó có người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Ðạp đổ thành giá có nghĩa
là nâng cao hận thù chết chóc lên cao và chối bỏ tình yêu. Một thế giới không
có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Bất cứ một con người có lý luận bình
thường nào cũng có thể thấy được điều đó.
Ngày
nay, con người vẫn còn tiếp tục chối bỏ và chà đạp thập giá. Không cần phải leo
lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá; hình thù của thập giá, dấu
chỉ của Tình Yêu, đã được vẽ trên mỗi một con người. Xúc phạm đến con người cách
này hay cách khác cũng đã là một triệt hạ thập giá rồi.
(Lẽ
Sống)
Thứ Sáu 24-1
Thánh Phanxicô Sales
(1567 - 1622)
C
|
ha của Phanxicô dự định
cho chàng là một luật sư để có thể thế chỗ ông trong nghị viện tỉnh Savoy nước
Pháp. Vì lý do đó Phanxicô được gửi đến Padua để học luật. Sau khi đậu bằng
tiến sĩ, chàng trở về nhà, và đúng lúc ấy, chàng ngỏ ý muốn đi tu làm linh mục.
Dĩ nhiên, cha mẹ chàng chống đối kịch liệt, và phải mất một thời gian khá lâu
sau khi Phanxicô kiên trì thuyết phục thì ông bà mới đồng ý. Sau khi được thụ
phong linh mục, Cha Phanxicô được bầu làm giáo trưởng của Ðịa Phận Geneva, sau
này nơi đó là trung tâm phát xuất tà thuyết Calvin. Ngài được sai đi để hoán
cải những người theo tà thuyết này, nhất là ở quận lỵ Chablais. Qua lời giảng
và qua việc phân phát những tài liệu nhỏ do ngài viết để giải thích giáo lý
thật của Công Giáo, ngài rất thành công.
Khi 35 tuổi, ngài là
Giám Mục của Geneva. Trong khi điều hành giáo phận, ngài tiếp tục rao giảng,
nghe xưng tội và dạy giáo lý cho trẻ em. Sự nhân từ của ngài đã đưa được nhiều
linh hồn về với Chúa. Ngài thực hành câu châm ngôn của chính ngài là, "Một
muỗng mật ong thì thu hút nhiều ruồi hơn một thùng dấm."
Ngoài hai tác phẩm nổi
tiếng của ngài là "Khởi Ðầu Ðời Sống Ðạo Ðức" và "Luận
Án về Tình Yêu Thiên Chúa", ngài còn viết nhiều cuốn sách nhỏ và rất
nhiều bài báo. Vì những văn bản này mà ngài được đặt làm quan thầy của báo giới
Công Giáo. Văn bản của ngài, đầy dẫy những nét nhân hậu, nhắm đến người giáo
dân. Ngài muốn họ hiểu là họ cũng được mời gọi để trở nên thánh. Như ngài viết
trong cuốn "Khởi Ðầu Ðời Sống Ðạo Ðức": "Ðó là điều
sai lầm, hoặc đúng hơn là một tà thuyết, khi nói rằng việc đạo đức không thích
hợp với đời sống của một binh sĩ, một thương gia, một thái tử hay một phụ nữ có
chồng... Ðã có nhiều người mất sự trọn lành trong cái khô khan của thế gian."
Mặc dù sự bận rộn và
cuộc đời ngắn ngủi của ngài, Cha Phanxicô đã cộng tác với một vị thánh khác,
Jane Frances de Chantal, trong việc thành lập tu hội Nữ Tu Dòng Thăm Viếng. Các
nữ tu này thi hành nhân đức mà Ðức Maria đã làm gương khi đến thăm người chị họ
là bà Êligiabét: khiêm tốn, đạo đức và giúp đỡ lẫn nhau. Lúc đầu các nữ tu tiếp
tay một cách giới hạn trong công việc bác ái đối với người nghèo và bệnh nhân.
Ngày nay, trong khi một số nữ tu điều hành các trường học, một số nữ tu khác
dành trọn cuộc đời để chiêm niệm.
Lời Bàn
Thánh Phanxicô de Sales
đã coi trọng lời Ðức Kitô: "Hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm
nhường thật." Như chính thánh nhân thú nhận, ngài phải mất 20 năm mới
chiến thắng được tính tình nóng nẩy của ngài, nhưng không ai cho rằng ngài có
tính xấu đó mà chỉ thấy trong lối đối xử của ngài tràn ngập sự ân cần và bản
chất tốt lành của ngài. Vì bản tính hiền lành và vui vẻ ấy mà ngài được gọi là
"Thánh Lịch Thiệp."
Lời Trích
Thánh Phanxicô dặn dò
chúng ta: "Người có đức hiền lành Kitô Giáo thì thương yêu và dịu dàng
với người khác: Họ có khuynh hướng tha thứ lỗi lầm của người khác; sự thiện hảo
của tâm hồn họ được bộc lộ trong sự hoà nhã dịu dàng có ảnh hưởng đến lời nói
cũng như hành động của họ, giúp họ nhìn bất cứ vấn đề gì trong đường hướng bác
ái và đem lại sự thoải mái."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét