03/03/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật
8 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) 1 Pr 1, 3-9
"Anh
em yêu mến Ðức Kitô, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em
cũng không thấy Ngài".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Chúc
tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ
việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng
ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy
tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của
Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết.
Lúc
đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải buồn sầu một ít lâu, giữa trăm
chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện nên quý hơn vàng được thử lửa
bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự, khi Ðức Giêsu
Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù
bây giờ anh em cũng không thấy Ngài, bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng
vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi
linh hồn.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 110, 1-2. 5-6. 9 và 10c
Ðáp: Cho tới muôn
đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại
thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi.
- Ðáp.
2)
Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ
lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu
ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân. - Ðáp.
3)
Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước muôn đời,
danh Người thực là thánh thiện và khả uý. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại đến
muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự
sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 10, 17-27
"Ngươi
hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người
và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân
lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng
giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính
cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở
nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo
rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài,
đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến
theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các
môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao".
Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các
ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước
Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước
Thiên Chúa".
Các
ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?"
Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể
được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Khôn
ngoan đích thực
Trong
truyền thống Kinh Thánh, Vua Salômôn vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn
ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật,
là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người
khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có
nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng
và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người
sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.
Ðây
cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người
thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong
truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành
của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ.
Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc
thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó
qua Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con
đường của Chúa Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống
đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
Qua
cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ
lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được cứu rỗi,
phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo
Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để
được ơn cứu rỗi; muốn được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn
toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha
nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.
Chúa
Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến
cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn
cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở
thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của
cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong
ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng
đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc
con người.
Lời
mời gọi của Chúa Giêsu: hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo
Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi tấm lòng và cuộc đời cũng
như có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ
tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp
hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa.
Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến
bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.
(Veritas Asia)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 8 TN2, Năm
Chẵn
Bài đọc: 1 Pet 1:3-9; Mk
10:17-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành với Đức
Kitô mang lại sự sống đời đời.
Trong
cuộc sống, có biết bao người vất vả cả đời để mưu cầu cho mình một kho tàng mà
họ nghĩ sẽ mang lại hạnh phúc như uy quyền, danh vọng, tiền của, sắc đẹp; nhưng
khi đến lúc được thụ hưởng mới khám phá ra những gì họ có không phải là kho
tàng nên tìm kiếm, vì nó không đem lại hạnh phúc mà họ mong muốn; nhưng hỡi ơi
đã quá muộn màng!
Các
bài đọc hôm nay tập trung trong việc hướng dẫn con người chọn đâu là kho tàng
quí giá nhất mà con người nên hướng về; đồng thời cũng hướng dẫn con người biết
cách thức hiệu quả để đạt được nó. Trong bài đọc I, tác giả xác quyết cuộc sống
đời đời mang lại do bởi Đức Kitô là kho tàng trên hết các kho tàng mà con người
nên tìm kiếm vì nó sẽ không bao giờ bị hư hoại, bị ô nhiễm, hay bị tàn phai.
Trong bài đọc II, Chúa Giêsu trả lời cho chàng thanh niên giầu có cách thức để
đạt cuộc sống đời đời là phải phân phát hết kho tàng giàu có chàng đang sở hữu
cho người nghèo. Chàng buồn rầu bỏ đi vì chàng không có khôn ngoan và can đảm
làm điều đó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Gia tài chúng ta hy vọng không phải ở đời này.
1.1/
Sự sống đời đời được thực hiện nhờ Đức Kitô:
(1)
Đức Kitô mang cho chúng ta niềm hy vọng là cuộc sống đời đời: Tác giả Thư Phêrô I
dâng lời cảm tạ lên Thiên Chúa: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận
lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại.” Trước
khi Đức Kitô tới, con người không có hy vọng được hưởng cuộc sống đời đời;
nhưng vì yêu thương, Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài chịu chết để đền tội cho
nhân loại. Nhờ cái chết và sự phục sinh, Ngài mang lại cuộc sống đời đời cho
con người.
(2)
Đặc điểm của gia tài của Đức Kitô: Tác giả nói cho chúng ta một số những chi tiết quan
trọng về kho tàng là cuộc sống đời đời:
+ Không thể hư hại: Những gì thuộc về
trái đất sẽ bị hư hại và hủy diệt; những gì thuộc thượng giới sẽ tồn tại muôn đời.
+ Không thể vẩn đục: Cuộc sống nơi trái
đất có nhiều ô nhiễm, bệnh tật; cuộc sống trên thượng giới giải phóng con người
khỏi mọi ô nhiễm của đời này.
+ Không thể tàn phai: Những gì là vật chất
sẽ có ngày phai tàn; những gì thuộc thượng giới sẽ vĩnh viễn mãi mãi.
+ Được lãnh nhận trong Ngày
sau hết: Con
người chỉ có được kho tàng này sau khi chết.
1.2/
Phải trung thành trong mọi thử thách mới hy vọng đạt sự sống đời đời: Tác giả liệt kê một
điều kiện cần thiết để đạt được kho tàng: Phải trung thành giữ vững đức tin vào
Đức Kitô. Theo Tin Mừng, con người cần tin vào Đức Kitô; nhưng đức tin này sẽ bị
thử thách vì những giá trị hào nhoáng của thế gian và của ma quỉ. Khi Đức Giêsu
Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem
lại vinh quang, danh dự cho người tin. Một điều khó cho con người là họ phải
tin và yêu Đức Kitô dù chưa thấy mặt Ngài; nhưng chính vì điều này, con người sẽ
lãnh nhận phần thưởng của mình. Tác giả viết: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn
yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan
chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức
tin, là ơn cứu độ con người.”
2/
Phúc Âm:
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?
Đây
là một cuộc đối thoại sống động và quan trọng để giúp con người nhận ra chân lý
của cuộc đời. Người thanh niên là một người giàu có và đã biết sự hiện hữu của
cuộc sống đời đời; điều anh mong mỏi là phương cách để đạt được cuộc sống đó
khi anh hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống
đời đời làm gia nghiệp?"
2.1/
Những điều kiện giúp con người đạt sự sống đời đời: Câu trả lời của
Chúa Giêsu gồm hai phần: tiêu cực và tích cực. Ngài đòi anh phải làm cả hai.
(1)
Giữ các giới răn: Những
giới răn thuộc về lãnh vực yêu tha nhân như: chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ
trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ chỉ là những
điều tiêu cực. Anh thanh niên nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi
đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
(2)
Giới luật yêu thương: Đức
Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ
thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được
một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Yêu tha nhân không chỉ dừng
lại ở chỗ không làm hại họ, mà còn phải tích cực giúp đỡ và làm mọi điều tốt
lành cho tha nhân. Ngài muốn người thanh niên hiểu của cải là do Thiên Chúa
ban, anh chỉ là quản lý để phân phát, không phải để tích trữ hay để tiêu xài xa
hoa cho mình.
2.2/
Phản ứng của chàng thanh niên và của các môn đệ:
(1)
Phản ứng của chàng thanh niên: Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta
có nhiều của cải. Đây là một ví dụ cụ thể dẫn chứng tại sao giầu có ngăn cản
con người vào Nước Thiên Chúa. Một số những lý do khác:
+
Giàu có làm lòng người dính chặt vào của cải và xa lìa Thiên Chúa: Họ tôn thờ
những gì Chúa dựng nên thay vì chính Ngài.
+
Giàu có làm con người xa lánh và khinh thường tha nhân: Họ sợ nguy hiểm bị trộm
cướp, sợ bị xin xỏ, và khinh thường người nghèo.
+
Giàu có làm con người chỉ còn biết đánh giá trị mọi sự trên lợi nhuận hay đồng
tiền.
(2)
Câu hỏi của các môn đệ: Đức
Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của
thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người
giàu vào Nước Thiên Chúa." Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với
nhau: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Truyền
thống Do-thái tin giầu có là sự chúc lành đến từ Thiên Chúa. Nếu những người được
chúc lành không thể vào, làm sao người nghèo khó có hy vọng được vào? Đức Giêsu
nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được,
nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều
có thể được." Ngài muốn nói với các ông: Vào Nước Thiên Chúa không lệ thuộc
vào sự giàu có; nhưng dành cho những ai đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Đức Kitô.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Không ai biết ý nghĩa của cuộc đời bằng chính Người đã tạo dựng nên nó. Chúng
ta hãy tin tưởng những gì Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta qua Đức Kitô.
-
Hãy mạnh dạn khước từ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đạt được cuộc sống đời
đời. Đừng dại dột như chàng thanh niên trẻ để phải hối hận đời đời.
Lm.Anthony ĐINH
MINH TIÊN, OP.
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mc
10,17-27
A.
Hạt giống...
Nhân
vật của câu chuyện này đã gây ra hai tình cảm của Chúa Giêsu đối với anh, biểu
lộ qua hai ánh mắt Ngài nhìn :
1.
Khi biết anh đã giữ trọn các điều răn, Ngài "Chăm chú nhìn anh và đem lòng
thương". Ngài còn mời gọi anh tiến cao thêm một bước nữa là đem hết tài sản
bố thí cho người nghèo rồi đi theo làm môn đệ Ngài.
2.
Khi anh tiếc của bỏ đi, Ngài cũng tiếc anh, Ngài "nhìn chung quanh"
(một cái nhìn tiếc rẽ) và thốt lên một chân lý "Những kẻ cậy dựa vào của cải
thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao"
B....
nẩy mầm.
1.
"Anh chỉ còn thiếu một điều, là anh hãy bán đi tất cả tài sản, đem bố thí
cho người nghèo…" : Câu này cũng đúng cho tôi. Hình như cái gì tôi cũng sẵn
sàng với Chúa cả, miễn là tôi không phải từ bỏ, nhất là từ bỏ tiền bạc của cải.
2.
"Chúa Giêsu chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Nhưng sau đó anh
đã làm cho Ngài thất vọng. Bây giờ Chúa cũng đang chăm chú nhìn tôi bằng cái
nhìn đậm đà yêu thương. Nhưng nếu tôi không từ bỏ, không nhất quyết đi theo
Ngài thì tôi cũng sẽ làm cho Ngài thất vọng.
3.
"Những kẻ cậy dựa vào tiền bạc thật khó vào Nước Thiên Chúa biết
bao". Đây không phải là nhận định của ai khác mà là của chính Chúa. Bởi thế,
trong Tin Mừng, biết bao lần Chúa kêu gọi các môn đệ mình phải có tinh thần
nghèo khó và từ bỏ. Không phải Chúa muốn cho môn đệ mình nghèo và khổ, mà vì
Ngài muốn cho họ một thứ quý hơn nhiều, là hạnh phúc Nước Thiên Chúa.
4.
Tại một thành phố nọ, có một người hành khất rất đặc biệt. Ông xin như sau :
-
Hãy cho tôi tiền bạc của ông bà, hãy cởi bỏ gánh nặng của tiền bạc để được tự
do.
Một
người khách qua đường thắc mắc, thì anh giải thích :
-
Tôi ngửa tay xin vì tôi muốn ích lợi cho người ta, bởi vì tiền bạc đầy túi làm
cho người ta bận tâm lo lắng.
Người
khách không tin nên rình xem người ăn xin này xử dụng tiền bạc ra sao. Chiều
hôm đó ông thấy người hành khất bước đến gần đầu cầu, đổ hết tiền bố thí vào
cái mũ cũ kỹ, chọn lấy vài đồng đủ để mua lương thực cho ngày hôm sau, số còn lại
ông đổ hết xuống sông, rồi quay về cái chòi lụp xụp ở ngoại ô thành phố để nghỉ
qua đêm. (Chờ đợi Chúa)
5.
" Đức Giêsu Đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh : Anh
chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có cho người nghèo (Mc 10,21)
Bất
kỳ ai xin vào Tu hội Nữ Tử Bác Ái của Mẹ Têrêsa đều nhận được một tờ giấy có
ghi câu hỏi này : Tại sao bạn muốn trở nên một Nữ Tử Bác Ái ? Các bạn trẻ thường
trả lời :
-
Con muốn tìm một đời sống cầu nguyện
-
Con muốn sống đời khó nghèo
-
Con muốn hiến thân phục vụ người nghèo
Nhưng
một trong các bạn trẻ viết như sau : "Thưa mẹ, đã nhiều lần con như nghe
thấy tiếng Chúa Giêsu mời gọi con tận hiến trọn đời sống cho Ngài. Con đã suy
nghĩ nhiều, tự hỏi chính mình và các vị linh hướng xem Chúa muốn con vào dòng
nào. Cuối cùng con đã quyết định chọn tu hội của Mẹ vì con muốn có cơ hội từ bỏ
mọi giầu sang trần thế. để bước vào cuộc sống nghèo khó và hy sinh."
Lạy
Chúa, xin cho con có được niềm vui hiến dâng, biết quan tâm phục vụ những người
nghèo khổ thiếu thốn. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
03/03/14 THỨ HAI TUẦN 8 TN
Mc 10,17-27
Mc 10,17-27
GIẤC MƠ KHÔNG THÀNH
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta
và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy bán
đi những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng ở trên trời, rồi
hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét và buồn sầu bỏ đi vì anh ta
có nhiều của cải.
(Mc 10,21-22)
Suy niệm: Ai cũng mơ. Có những giấc mơ chưa tròn, có
những giấc mơ không bao giờ trở thành hiện thực. Thành công ở đời thuộc về
những ai có thể biến giấc mơ của mình trở thành hiện thực. Chàng thanh niên kia
đến với Chúa Giê-su trong khi đang ôm ấp một ước mơ: được sự sống đời đời là
gia nghiệp. Anh đã tuân thủ mọi giới răn từ thuở nhỏ. Nhưng vẫn chưa hết trăn
trở. Chỉ có Chúa mới biết anh còn thiếu một điều: chiếc chìa khóa thần biến
giấc mơ của anh thành hiện thực, đó là: “Hãy bán đi tất cả những gì anh
có…” Chàng
thanh niên không đáp trả. Anh thất vọng như người tìm sai địa chỉ. Anh đã đứng
trước ngưỡng cửa, nhưng không cầm lấy chìa khóa. Tiếc thay, một giấc mơ không
thành!
Mời Bạn: Thiên
Chúa có một giấc mơ cho bạn, cho tôi. Chu toàn các giới răn chưa đủ; còn cần
phải biết cho đi một cách thật quảng đại và vô vị lợi nữa. Mời bạn lắng nghe,
đón nhận đề nghị của Chúa trong từng khoảnh khắc của cuộc đời và cộng tác với
Ngài để biến giấc mơ đó thành hiện thực.
Sống Lời Chúa: Mỗi sáng bạn hãy hỏi Chúa muốn bạn hôm nay
phải làm hoặc từ bỏ một điều gì để làm người môn đệ của Ngài cách trọn vẹn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tinh thần thì mau mắn, nhưng xác thịt thì nặng nề yếu
đuối. Xin Chúa giúp con biết hy sinh từ bỏ mỗi ngày để thánh ý Chúa có thể
thành sự nơi con.
Tôi
phải làm gì?
Ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời
gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành
cho từng người trong chúng con.
Suy niệm:
“Thưa Thầy nhân lành, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời?”
Một anh thanh niên vội vã
chạy đến, quỳ trước mặt Đức Giêsu
và hỏi Ngài như thế khi
Ngài vừa lên đường.
Rõ ràng anh đang háo hức
và thao thức
tìm kiếm một lối sống phù
hợp ở đời này,
để nhờ đó được hưởng hạnh
phúc vững bền mãi mãi.
Anh đã đến với Thầy Giêsu
tốt lành để hỏi câu hỏi này,
và anh thực sự chờ nơi
Thầy câu trả lời.
Thầy nhắc anh về những
giới răn liên quan đến tha nhân.
Đây là những điều anh đã
biết, và hơn nữa,
anh thú nhận mình đã giữ
chúng từ khi còn nhỏ (c. 20).
Thầy Giêsu như bị cuốn
hút bởi con người đạo đức của anh.
Đưa mắt nhìn anh, Thầy
đem lòng yêu mến (c. 21).
Đúng là anh đã không làm
hại gì đến tha nhân.
Nhưng anh còn thiếu một
điều quan trọng, đó là:
Đi. Bán những gì mình có.
Cho người nghèo.
Rồi đến. Và theo Thầy
Giêsu.
Thầy mời anh đi một vòng,
rồi trở lại.
Lúc trở lại với Thầy, anh
sẽ nhẹ hơn nhiều,
vì mọi của cải đã được
phân phát cho người nghèo khó.
Thầy Giêsu muốn anh trở
nên môn đệ của mình,
sau khi đã trở nên tay
trắng, không còn gì để nương tựa.
Anh thanh niên sẽ có kho
tàng trên trời,
khi anh được giải phóng
khỏi kho tàng của anh dưới đất.
Tiếc thay anh đã từ chối
lời mời của vị Thầy có lòng mến anh,
và đã chỉ cho anh điều
phải làm.
Lúc nãy anh chạy đến với
Thầy, bây giờ anh lại bỏ đi (c. 22).
Lúc nãy anh háo hức, vui
tươi, bây giờ anh sa sầm nét mặt.
Anh không ngờ Thầy lại
đòi hỏi tận căn đến thế.
Anh mong sự sống vĩnh
cửu, anh thích làm môn đệ Thầy Giêsu,
nhưng anh lại không muốn
bỏ chỗ dựa là của cải đời này.
Lòng gắn bó với của cải
đã là một trở ngại khiến anh mất tự do.
Không phải vì anh chiếm
hữu nhiều của cải,
nhưng thực ra, vì của cải
đã chiếm hữu anh.
Thầy Giêsu chắc còn buồn
hơn anh thanh niên,
vì Thầy bị mất một người
mà Thầy ưng gọi làm môn đệ.
Đến bao giờ anh thanh
niên mới nguôi ngoai nỗi buồn?
Lời mời của Thầy tốt lành
vẫn đeo đuổi tâm trí anh.
Anh vẫn suốt đời thiếu
một điều.
Khi về nhà, khi tiếp xúc
với của cải dư dật,
có khi nào anh lại thao
thức đặt câu hỏi:
Tôi phải làm gì để được
thừa hưởng sự sống đời đời?
Có khi nào anh nghĩ đến
chuyện chia sẻ cho người nghèo?
Có khi nào anh lại muốn
đến với Thầy Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu
sang, danh vọng, khoái lạc
là
những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng
trói buộc chúng con
và
không cho chúng con tự do ngước lên cao
để
sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi
sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ
cảm nghiệm được phần nào
sự
phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán
tất cả những gì chúng con có,
để
mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước
những lời mời gọi của Chúa,
không
bao giờ ngoảnh mặt
để
tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy
niệm
Thái
độ “Chạy đến, quỳ trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải
làm gì để được sự sống đời làm gia nghiệp?” (Mc 10, 17) của người thanh
niên giàu có, và câu trả lời như tát nước lạnh: “Sao anh nói tôi là
nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10, 18) của
Chúa Giêsu cho chúng ta những cái nhìn sau đây:
Người
thanh niên này đang bị tình cảm chi phối. Hành động chạy đến, quỳ dưới chân
Chúa Giêsu là một hành động vội vàng. Anh ta là một người sống theo cảm tính đến
mức chưa kịp suy nghĩ gì đã hành động.
Còn
Chúa Giêsu đã dạy cho người thanh niên đó 2 bài học.
-
Bài học thứ nhất là phải luôn biết dừng lại để suy nghĩ. Phải biết cái giá mình
sẽ trả cho một quyết định của mình. Vì vậy đừng quyết định vội vàng.
-
Bài học thứ hai là Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ của Ngài dừng lại ở sự
hấp dẫn của Ngài, nhưng muốn hướng họ đến với Thiên Chúa Cha. Người rao giảng
phải ý thức mình chỉ là “ngón tay chỉ trăng”. Vì vậy đừng bao giờ chỉ
vào chính mình, nhưng phải hướng lên trời cao. Người rao giảng chẳng những chỉ
về Thiên Chúa, mà còn phải xoay cái nhìn của người khác về Thiên Chúa khi họ tập
chú vào bản thân chúng ta.
Tiếp
đến Chúa Giêsu đưa ra những điều răn, vốn là nền tảng của đời sống đạo đức: “Chớ
giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai,
hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10, 19). Chàng thanh niên đã trả lời ngay: “Tất
cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10, 20). Nếu như vậy thì
rõ ràng anh ta đã có lòng kính trọng với chân lý của đạo Chúa, vì có kính trọng
mới tuân giữ những điều đó, mới không dám vi phạm lề luật Chúa.
Tuy
nhiên đời sống Kitô hữu không chỉ dừng lại ở lòng kính trọng để không làm những
điều sai trái, mà còn phải biết bước ra khỏi chính mình để thực thi tình bác ái
với người khác. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã đòi hỏi anh ta: “Anh chỉ
còn thiếu một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được
một kho tàng trên trờ. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10, 21). Nhưng đây lại là
cản trở cho bước đường theo Chúa của anh ta: “Anh ta sa sầm nét mặt và
buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22). Qua đó chúng
ta thấy anh ta chỉ có lòng kính trọng, chỉ có mến Chúa chứ chưa có lòng yêu người,
chưa biết thực thi tình bác ái cụ thể.
Lạy
Chúa, xin cho con đừng sống theo những hấp dẫn của hình thức bên ngoài, nhưng
phải biết con đường theo Chúa của con là một sự dấn thân đòi hỏi phải vững vàng
trong tình cảm và mạnh mẽ trong lý trí.
Xin
cho con trong khi giới thiệu Chúa cho người khác, đừng tập chú vào bản thân
mình, hoặc đừng lôi kéo người khác về phía mình, nhưng phải dẫn họ đến với
Chúa. Nhiều khi con còn phải biết xóa mình đi, hạ mình xuống để đừng nổi nang
hơn người khác.
Xin
cho con đừng chú trọng đến việc cấm làm điều này, cấm làm điều kia, mà với tất
cả tình yêu con quan tâm đến việc phải làm gì cho anh chị em mình.
Khi
con có một tình yêu đủ mạnh, con sẽ dấn bước theo Chúa mà không từ nan bất cứ
đòi hỏi nào, dù đó là lề luật cấm hay giới luật khuyên làm. Vì tất cả mọi sự
con làm đều vì tình yêu Chúa thúc bách con.
3-3
Thánh Katharine Drexel
(1858 - 1955)
N
|
ếu cha bạn là một ông
chủ ngân hàng quốc tế và bạn có xe lửa riêng, có lẽ khó để bạn bị lôi cuốn đến
những công việc tình nguyện cho người nghèo. Nhưng nếu hàng tuần mẹ bạn dành ba
ngày để tiếp đón người nghèo, và cha bạn dành nửa giờ mỗi ngày để cầu nguyện,
có lẽ không khó để bạn hy sinh cuộc đời cho người nghèo và cho đi 12 triệu đô
la. Ðó là điều mà Thánh Katharine Drexel đã thực hiện.
Ngài sinh ở
Philadelphia, Hoa Kỳ, năm 1858 và là cô con gái thứ hai của ông bà Drexel. Sau
khi chào đời được hai năm thì người mẹ ruột từ trần. Hai năm sau, cha ngài tái
hôn và họ có thêm một cô con gái nữa. Tất cả ba cô đều có một nền tảng giáo dục
vững chắc và thường đi du lịch nhiều nơi. Khi Katharine hai mươi mốt tuổi, là
con gái nhà giầu, ngài sẵn sàng có địa vị trong xã hội, nhưng khi chăm sóc
người mẹ ghẻ trong ba năm bị bệnh ung thư, ngài thấy rằng mọi tài sản của dòng
họ Drexel cũng không thể cứu được con người khỏi sự đau khổ và cái chết, từ đó
cuộc đời ngài thay đổi đáng kể.
Vào năm 1885, ông Drexel
từ trần để lại gia tài kếch sù cho ba cô con gái. Lúc bấy giờ, Katharine và hai
chị em đều gia nhập tổ chức Tông Ðồ Giáo Dân. Họ thường để ý đến hoàn cảnh khó
khăn của người da đỏ, và thường bàng hoàng khi đọc những câu truyện về người da
đỏ Mỹ Châu. Trong chuyến du lịch Âu Châu, ngài được gặp Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII
và xin Ðức Thánh Cha gửi thêm các nhà truyền giáo đến Wyoming để giúp đỡ bạn
của ngài, là Ðức Giám Mục James O'Connor. Ðức giáo hoàng trả lời, "Tại
sao chính con không trở nên nhà tryền giáo?" Câu trả lời ấy đã khích
động ngài đến độ phải nằm bệnh trong vài ngày.
Trở về Hoa Kỳ, ngài đến
thăm người da đỏ Dakota, gặp tù trưởng Red Cloud và bắt đầu giúp đỡ họ.
Việc lập gia đình đối
với Katharine thì quá dễ dàng. Nhưng sau các cuộc thảo luận với Ðức Giám Mục
O'Connor, Katharine viết trong nhật ký năm 1889, "Ngày lễ Thánh Giuse
năm ấy đã đem lại cho tôi một ơn sủng lớn lao để có thể hy sinh quãng đời còn
lại cho người da đỏ và da mầu." Vào ngày 7 tháng Mười Một 1889, ngài
mặc áo dòng và lấy tên Sơ Mary Katharine. Năm ấy, các nhật báo lớn ở Hoa Kỳ đều
chạy hàng chữ ngay trang đầu, "Dám Bỏ 7 Triệu Ðôla!"
Sau ba năm rưỡi huấn
luyện, Katharine và mười ba nữ tu đầu tiên của ngài (Sisters of the Blessed
Sacrament for Indians and Colored - Nữ Tu Thánh Thể cho Người Da Ðỏ và Da Mầu)
mở trường học ở Santa Fe. Tiếp đó các trường học nối đuôi nhau thành lập. Vào
năm 1915, ngài thành lập Ðại Học Xavier ở New Orleans, là đại học đầu tiên ở
Hoa Kỳ dành cho người da đen.
Cho đến năm 1942, ngài
đã thiết lập xong hệ thống trường Công Giáo cho người da đen trong 13 tiểu
bang, cộng thêm 40 trung tâm truyền giáo và 23 trường làng. Những người kỳ thị
chủng tộc đã quấy phá công việc của ngài, họ đốt cả một trường học của ngài ở
Pennsylvania. Tổng cộng, ngài đã thành lập 50 trung tâm truyền giáo cho người
da đỏ trong 16 tiểu bang.
Khi 77 tuổi, ngài bị
kích xúc tim nhưng vẫn tiếp tục đến các trung tâm truyền giáo để hướng dẫn các
sơ trong dòng. Vào năm 1941, ngài cử mừng lễ kim khánh thành lập dòng, và Ðức
Giáo Hoàng Piô XII đã đề cập đến thành quả của ngài như "một trang sử
huy hoàng trong biên niên sử của Giáo Hội."
Trong những năm cuối
đời, Mẹ Katharine Drexel bị liệt, ngài sống âm thầm cầu nguyện trong căn phòng
nhỏ nhìn về phía cung thánh. Nhiều mẩu giấy ghi lại các lời cầu nguyện của
ngài, cũng như những suy niệm và những nguyện vọng vô tận. Ngài từ trần khi 96
tuổi. Tổng cộng ngài đã dùng 12 triệu đô la tài sản của ngài cho công cuộc
truyền giáo cho người da đỏ và da đen ở Hoa Kỳ.
Vào tháng Mười Một 1988,
ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước. Và đầu tháng Mười
năm 2000, ngài đã được phong thánh.
Lời Bàn
Các thánh luôn luôn có
những lời khuyên giống nhau: Hãy cầu nguyện, sống khiêm tốn, chấp nhận thập
giá, hãy yêu thương và tha thứ cho tha nhân. Nhưng khi được nghe những lời ấy
từ một người, có tất cả những giầu sang của trần thế, được báo chí phỏng vấn,
được du lịch trên các toa xe lửa hạng sang, thì đó là một nhắc nhở mạnh mẽ cho
chúng ta biết, sự thánh thiện có thể thực hiện được trong thế giới hôm nay cũng
như ở Giêrusalem hoặc Rôma thuở xưa.
Lời Trích
"Sự kiên nhẫn và
khiêm tốn chịu đựng thập giá - dù bất cứ thập giá nào - là công việc cao cả
nhất mà chúng ta phải thi hành.
"Ôi, dù đã 84 tuổi mà tôi vẫn còn xa vời với hình ảnh của Ðức Giêsu trong cuộc đời thánh thiện của Ngài ở trần thế!" (Mẹ Katherine Drexel)
"Ôi, dù đã 84 tuổi mà tôi vẫn còn xa vời với hình ảnh của Ðức Giêsu trong cuộc đời thánh thiện của Ngài ở trần thế!" (Mẹ Katherine Drexel)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét