13/04/2014
Chúa Nhật Lễ Lá Năm A
(phần I)
Kiệu
Lá:
Bài
Phúc Âm: Mt 21, 1-11
"Chúc
tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa
Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia,
sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về
đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến
chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời
tiên tri đã phán:
"Các
ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi
trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các
môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa
con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng
trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì
đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng
nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi
Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người
đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu,
xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".
Ðó
là lời Chúa.
Thánh
Lễ:
Bài
Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi
đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải
hổ thẹn".
(Bài
ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Chúa
đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ
kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời
Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng
thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã
không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.
Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá,
tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên
Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng:
1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy
Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2)
Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con
chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3)
Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn
tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi
Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4)
Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi
khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể
miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống
Israel!" - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người
đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa
Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được
ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân
phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một
người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập
giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt
trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong
địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô
là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó
là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa
Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế,
Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu.
Bài
Thương Khó: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài
dài)
"Sự
Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người
đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói
với họ:
S. "Các ông cho tôi bao
nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?"
C. Họ liền ấn định cho ba
mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần
lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
J. "Thầy muốn chúng con
sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Các con hãy vào
thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ
Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".
C. Các môn đệ làm như Chúa
Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai
môn đệ.
Và
khi các ông đang ăn, Người nói:
J. "Thầy nói thật với
các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".
C. Môn đệ rất buồn rầu và từng
người bắt đầu hỏi Người:
S. "Thưa Thầy, có phải
con không?"
C. Người trả lời rằng:
J. "Kẻ giơ tay cùng chấm
vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã
chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra
thì hơn!"
C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng
thưa Người rằng:
S. "Thưa Thầy, có phải
con chăng?"
C. Chúa đáp:
J. "Ðúng như con
nói".
C. Vậy khi mọi người còn
đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn
đệ mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy
mà ăn, vì này là Mình Ta".
C. Ðoạn Người cầm lấy chén,
tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Tất cả các con hãy
uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha
tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến
ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".
C. Sau khi hát thánh vịnh,
Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Tất cả các con sẽ vấp
phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ
chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy
sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô liền thưa:
S. "Dù tất cả vấp phạm
vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Thầy bảo thật con,
chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".
C. Phêrô lại thưa:
S. "Dù có phải chết
cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả các môn đệ cùng
nói như vậy.
Rồi
Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các
môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi
đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và
hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não.
Lúc ấy, Người bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn
sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy".
C. Tiến xa hơn một chút, Người
sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:
J. "Lạy Cha, nếu được,
xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".
C. Người trở lại cùng các
môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:
J. "Chẳng lẽ các con
không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi
lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người lại đi cầu nguyện
lần thứ hai mà rằng:
J. "Lạy Cha, nếu chén
này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha".
C. Ðoạn Người trở lại và thấy
các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện
lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và
bảo:
J. "Bây giờ các con hãy
ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội
lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C. Người còn đang nói, thì
đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy
gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ
ám hiệu này:
S. "Hễ tôi hôn người
nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy".
C. Tức khắc Giuđa tới gần
Chúa Giêsu và nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Nhưng
Chúa Giêsu bảo:
J. "Hỡi bạn, bạn đến
đây làm chi?"
C. Lúc đó chúng xông tới,
tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu,
giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền
bảo:
J. "Con hãy xỏ ngay
gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng
Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh
thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải
như vậy?"
C. Lúc đó Chúa Giêsu nói
cùng đám đông rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm
giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa
các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm
lời các tiên tri đã chép".
C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người
và chạy trốn hết.
Những
kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ
và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi
ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng
tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và
họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai
người làm chứng gian đến khai rằng:
S. "Người này đã nói:
Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày".
C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng
lên nói:
S. "Ông không trả lời
gì về các điều những người này đã cáo ông ư?"
C. Nhưng Chúa Giêsu làm
thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. "Nhân danh Thiên
Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng
Kitô, Con Thiên Chúa không?"
C. Chúa Giêsu trả lời:
J. "Ông đã nói đúng.
Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu
Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".
C. Bấy giờ thầy thượng tế xé
áo mình ra và nói:
S. "Nó đã nói lộng
ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng
ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C. Họ đáp lại:
S. "Nó đáng chết!"
C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt
Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:
S. "Hỡi Kitô, hãy bói
xem, ai đánh ông đó?"
C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài
sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. "Ông nữa, ông cũng
đã theo Giêsu người xứ Galilêa".
C. Nhưng ông chối trước mặt
mọi người mà rằng:
S. "Tôi không hiểu chị
muốn nói gì?"
C. Khi ông lui ra đến cổng,
một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:
S. "Ông này cũng theo
Giêsu người Nadarét".
C. Ông thề mà chối rằng:
S. "Tôi không biết người
ấy".
C. Một lúc sau, mấy người đứng
đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng rồi, ngươi
cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng:
ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã
nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc
lóc thảm thiết.
Trời
vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ
trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp
Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các
thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S. "Tôi đã phạm tội vì
nộp máu người công chính".
C. Nhưng họ trả lời:
S. "Can chi đến chúng
tôi! Mặc kệ anh!"
C. Anh ta ném những đồng bạc
đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S. "Không nên để bạc
này vào kho vì là giá máu".
C. Sau khi bàn bạc, họ lấy
tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều.
Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu.
Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng
bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền
đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi".
Vậy
Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua
dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế
và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy
tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp
lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào
mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù
tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói
với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta
phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen
ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói
cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can
thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi
đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ
lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó
các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi
là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã
làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất
công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu
người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ
trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích
Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh
vào thập giá.
Bấy
giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội
lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi
quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ
quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân
Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người
và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng
đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc
đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh
giá cho Người.
Họ
đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với
mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên
thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng:
"Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi
họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người
này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm
cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những
người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ
phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên
Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế cùng luật
sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ
khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống
khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài
thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên
Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng
đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ
thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu
kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema
sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy
Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe
vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri
Elia".
C. Lập tức một người trong bọn
chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa
lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có
đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu
lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng
nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra.
Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau
khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người.
Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động
và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Ðúng người này là
Con Thiên Chúa".
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ
đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số
đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của
Giêbêđê.
Tới
chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ
Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền
giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong
mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra
về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.
Hôm
sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh
Philatô trình rằng:
S. "Thưa ngài, chúng
tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại".
Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm
xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế,
sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước".
C. Philatô trả lời:
S. Các ông đã có lính canh
thì cứ đi mà canh như ý.
C. Họ liền đi và đóng ấn
niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
Hoặc
đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua
dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế
và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy
tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp
lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào
mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù
tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói
với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta
phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen
ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói
cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can
thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi
đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ
lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó
các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi
là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã
làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó
đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất
công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu
người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ
trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích
Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh
vào thập giá.
Bấy
giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội
lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi
quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ
quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân
Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người
và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng
đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc
đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh
giá cho Người.
Họ
đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với
mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên
thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng:
"Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi
họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người
này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm
cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những
người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ
phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên
Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế cùng luật
sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ
khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống
khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài
thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên
Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng
đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ
thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu
kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy
Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe
vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri
Elia".
C. Lập tức một người trong bọn
chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa
lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có
đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu
lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng
nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra.
Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau
khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người.
Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động
và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Ðúng người này là
Con Thiên Chúa".
Suy
Niệm:
Tưởng niệm mầu nhiệm
Chúa chịu chết
Không
tuần lễ nào nhiều lễ nghi bằng tuần Thương khó này. Giáo hội cử hành mầu nhiệm
trọng nhất, nên tuần lễ này đáng gọi là Tuần Lễ Thánh. Và để chúng ta dễ tham dự
các mầu nhiệm cử hành, Phụng vụ tuần này đầy những biểu thị cụ thể, lọt vào mắt
và rót vào tai. Chúng ta sẽ cố gắng tham dự hết.
Mở
đầu, Phụng vụ mời gọi chúng ta cử hành việc Chúa long trọng vào thành
Yêrusalem. Phụng vụ muốn chúng ta như diễn lại chính sự kiện ấy. Thế nên chúng
ta làm phép lá ở chỗ này, để rồi rước vào nhà thờ, như Ðức Kitô ngày trước đã đến
đứng ở Núi Cây Dầu rồi mới khởi hành vào Yêrusalem.
Như
chúng ta ngày nay chọn chỗ này là chỗ thuận tiện nhất trong hoàn cảnh hiện đại
để khởi sự cuộc kiệu, thì ngày trước Ðức Kitô cũng đã chọn nơi ý nghĩa nhất để
đi vào thành. Yacaria ngày trước đã loan báo (14,4), khi đến cứu Dân, Chúa sẽ dừng
chân trên Núi Cây Dầu, Núi ở trước mặt Yêrusalem về phía Ðông. Người Dothái tin
ở lời tiên tri ấy. Khi một nhân vật nọ muốn xưng mình là Cứu Thế, ông đã hô hào
dân chúng cùng ông lên Núi Cây Dầu để xem ông ta hóa phép giải cứu Yêrusalem
như thế nào. Ông ta chỉ ngụy biện thôi, chứ có làm được gì. Tuy nhiên đối với
dân chúng, lời tiên tri Yacaria không vì vậy mà mất giá trị. Hôm nay mô tả Ðức
Kitô khởi hành vào Yêrusalem từ Núi Cây Dầu, các tác giả thánh muốn tuyên xưng
Người là Cứu Thế và Người vào thành để cứu độ chúng ta.
Matthêô
còn thêm chi tiết hai con lừa. Ông trích dẫn Yacaria (9,9) để làm chứng thêm Ðấng
vào Yêrusalem hôm nay là Vị Cứu tinh hiền hòa. Chỉ có điều ông đọc lời tiên tri
hơi méo mó một tí. Ông cắt bớt mấy câu trước quá hân hoan khải hoàn để cuộc vào
thành của Ðức Kitô có vẻ khiêm tốn hơn. Và nhất là thay vì đọc "một lừa
con, con của lừa mẹ" ông muốn có cả hai lừa mẹ cùng lừa con. Ông vẫn có
thói quen tính gấp đôi như thế trong tác phẩm. Ông là người "khôn ngoan
trong Nước Trời biết rút tự trong kho điều mới và điều cũ" (13,52).
Yacaria chỉ nói đến "lừa con, con của lừa mẹ", là cốt nhấn mạnh tính
cách mới mẻ, chưa ai động tới, chưa ai cỡi của con vật để Ðấng Cứu Thế dùng.
Matthêô không bỏ điều ấy, nhưng cũng không muốn thấy Ðức Kitô cỡi nguyên trên một
lừa con yếu ớt. Ông muốn có cả lừa mẹ, để nhấn mạnh thêm tính cách chắc chắn của
việc Chúa sắp làm; và như vậy cả mới cả cũ, cả con lẫn mẹ đều được sử dụng. Tuy
nhiên ý tưởng chính vẫn là việc Ðức Kitô cỡi lừa vào thành hôm nay thể hiện rõ
rệt lời sách Yacaria và làm chứng Người là Cứu Thế vào thành để cứu độ trong
thái độ dịu hiền, khiêm tốn.
Người
được đón tiếp như một Hoàng đế theo kiểu Ðông phương: dân chúng tấp nập, kẻ trước
người sau, trải áo trên đường, rắc lá cho sang, reo hò inh ỏi. Những tiếng
"Hosanna, Con Vua Ðavít Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa" nói lên niềm
tin Ðức Yêsu là Thiên Sai, Cứu Thế.
Nhưng
đó chỉ là ý kiến của quần chúng, của những kẻ đơn sơ khó nghèo. Vào tới thành,
chỗ ở của những người giàu sang, Ðấng Thiên Sai hiền từ khiêm nhu không được
đón tiếp như vậy nữa. Và nếu chúng ta còn nhớ: thánh Matthêô hay có những suy
nghĩ về Giáo hội khi viết tác phẩm của người; và Nagiarét xứ Galilê đối với người
là biểu tượng về dân ngoại, thì câu kết bài Tin Mừng vừa nghe đọc có nghĩa là:
Ðức Yêsu, vị Tiên Tri thành Nagiarét xứ Galilê, Vị Thủ Lãnh của Giáo hội gồm đa
số các tín hữu từ dân ngoại, đang ở giữa Yêrusalem cũ, đối nghịch và không muốn
chấp nhận Tin Mừng.
Như
vậy, khi thuật lại việc Chúa vào thành hôm nay, Matthêô không những chỉ muốn giới
thiệu Người là Ðấng Thiên sai cứu thế hiền từ và khiêm nhu, đến để chịu nạn;
nhưng tác giả còn muốn nhắc nhở chúng ta về thân phận của Hội Thánh, của mọi cộng
đoàn Dân Chúa, của mọi tín hữu hết thảy đã đến từ dân ngoại: tất cả chỉ là hiện
thân của Vị Tiên tri thành Nagiarét xứ Galilê đang đi vào đời và ở trong đời với
lý tưởng cứu thế mà vẫn bị hất hủi. Thế thì chúng ta phải xin Người cho chúng
ta được những tâm tình của Người để làm công việc vào Ðền Thờ hôm nay, để rồi
vào đời cứu thế như Người. Chúng ta hết thảy hãy tiến lên với những tâm tình ấy.
Thánh
Lễ Chúa Nhật Lễ Lá:
Ys
50,4-7; Ph 2,6-11; Mt 26,14-27,66 hoặc 27,11-54
Bản
văn đã dài. Chúng ta không muốn nghe ai nói gì khác nữa. Có lẽ chúng ta còn muốn
được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này
sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài
mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc.
Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải
nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm
nay.
A.
Bài Tường Thuật Việc Chúa Chịu Chết
Cả
bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc Chúa chịu chết. Ðó là điều hơi lạ.
Trước hết việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi
các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", thế mà
lại dài dòng tỉ mỉ về việc Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn cả khi các ông
giảng về việc Chúa phục sinh nữa. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định:
không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới
nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Mà như thế là vì việc Chúa
chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa
chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà
thôi. Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn
qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh
hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải
như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc
phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn
cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ
về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách
của mình. Ðạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên
giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả
bốn sách Tin Mừng đều dụng công thuật lại việc này. Và điều lạ thứ hai: cả bốn
sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do
đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã
trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của
mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý
trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường
thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết
của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để
mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị
sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm
nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Yuđa mặc
cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Ðức Kitô cho họ.
Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn
thỉu. Và bẩn thỉu thật, cái hôn nộp thầy của tên môn đồ phản phúc!
Còn
thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh
chống lại sức mạnh. Nhưng Ðức Yêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn
không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của
những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu
được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời
Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải
là hết...
Hai
chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi
bẩn thỉu của bọn Yuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Yuđa đem trả
30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa
ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Ðức Yêsu
chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng
như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở
đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn
ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo
này muốn tha Ðức Yêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công
chính này. Ðang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen
biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Ðó là hình ảnh về Giáo hội gồm
đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ
lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục
và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên
của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Ðích thực, Ông này là Con Thiên
Chúa" (27,54).
Tuy
nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc
ấy màn phân nơi cực thánh xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào.
Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo
cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Ðức Yêsu đã
cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người
đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại,
hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính
gác mồ một cách vô ích.
Như
vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi
người đã đến Yêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn
ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Ðức Yêsu đã phục sinh và đã tập
họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi
nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật
dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện
tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như
sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ
đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người
Dothái phải trở lại; và để như Lời Ðức Yêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các
ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ
lúc Ðức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và
Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người
làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu
chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ
các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử
thách đớn đau.
B.
Bài Học Chúa Ðể Lại Cho Chúng Ta
Thánh
Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng
bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta
có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu
nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó
không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói,
các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống
nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Ðọc các bài tường
thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Ðức Kitô nói
lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh
em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến
chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc
chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu
nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên
thánh và cứu thế.
Isaia
ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức
là về thân phận Ðức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa
phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung
thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ
lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục
nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...".
Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Ðức Kitô. Mọi lời của ông được
bài tường thuật của Matthêô làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy
nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Ðức Kitô. Phụng vụ
hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành
trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Ðức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình
vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống,
tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Ðức Kitô, xứng đáng với danh hiệu
Con Thiên Chúa.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
13/04/14 CHÚA NHẬT LỄ LÁ – A
Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Mt 21,1-11
Bài Thương Khó: Mt 26,14-27-66
Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Mt 21,1-11
Bài Thương Khó: Mt 26,14-27-66
ÁNH SÁNG LÒNG THƯƠNG XÓT
Các môn đệ dắt lừa mẹ và lừa
con về, trải áo choàng của mình lên lưng chúng, và Đức Giêsu cởi lên… Đám đông
reo hò vang dậy:” Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan hô trên các
tầng trời.” (Mt 21,7.9)
Suy niệm: Ngày Lễ Lá khởi đầu bằng một niềm vui, niềm
vui rước Chúa vào thành như một vị vua, và kết thúc bằng một nỗi buồn, nỗi buồn
Chúa chịu khổ nạn. Bài Thương Khó ngày Lễ Lá còn đem đến cho ta bao điều tương
phản khác: môn đệ hèn nhát chạy trốn, Phi-la-tô hèn nhát rửa tay, Thầy can đảm
bình thản đón nhận; tương phản với lửa hận thù hừng hực, Đức Giê-su luôn tỏa
ánh sáng dịu dàng của lòng thương xót: thương xót Phê-rô, thương xót người trộm
hối cải, thương xót tha thứ cho quân lính độc ác, và cho cả người Do-thái đang
nhạo cười; đối diện với những bạo tàn đến cực độ của con người, Đức Giê-su lại
bày tỏ lòng yêu mến cho đến tận cùng của mình.
Mời Bạn cảm
nhận được lòng thương xót của Chúa dành cho bạn. Bạn đừng sống tuần thánh,
những ngày khổ nạn của Chúa, như một khách qua đường, như đang xem một cuộn
phim, mà hãy sống với cả tâm tình yêu mến của mình.
Chia sẻ: Trong
Tuần Thánh này, tôi, gia đình tôi, nhóm của tôi sẽ làm gì để chia sẻ đau khổ
của Chúa nơi những anh chị em chung quanh?
Sống Lời Chúa: Dành thời gian đọc cả bài hoặc một phần bài
Thương khó, để nhận ra và cảm nếm tình thương của Chúa qua từng hoạt cảnh ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã luôn bày tỏ lòng thương
xót yêu thương trong cuộc Khổ nạn. Xin cho chúng con cũng biết sống lòng thương
xót ấy với mọi người.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Lễ Lá A, Năm A
Bài đọc: (Làm phép lá: Lk 19:28-40); Isa
50:4-7; Phi 2:5-11; Mt 26:14-27:66.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Qua đau khổ tới vinh quang
Con
người không thích kỷ luật, kiêng cữ, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng
huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế,
con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử
thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên
Chúa. Thánh Phêrô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn
khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện
tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của
Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người
Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi
những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu
phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang, và Thiên
Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong
Phúc Âm, Matthew tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để
Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người
Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/
Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ;
nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào
hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của
Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người
Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người
ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc
phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Với một
niềm xác tín vào Thiên Chúa như thế, Người Tôi Trung có can đảm đương đầu với mọi
đau khổ, vì biết mình sẽ chiến thắng.
1.2/
Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy
chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo như: sức
khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường, các nhân đức… Người Tôi Trung của Thiên Chúa
cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn biết nâng đỡ những
ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói
năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng
sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người
môn đệ.”
2/
Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải
qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/
Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh
Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu
Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức
Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài
là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này
làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi
thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm
trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền
tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con
đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
Kiêu ngạo tiêu hủy cả người kiêu ngạo lẫn tha nhân; nhưng khiêm nhường xây dựng
người khiêm nhường và mang lại lợi ích cho tha nhân.
2.2/
Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì
không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một
hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn
ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa
Giêsu và thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu:
“Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người”
(Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng
vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/
Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của
Chúa Giêsu theo thánh Matthew
Vì
bài Thương Khó rất dài, những ai muốn đọc chú giải có thể theo Cuộc Thương Khó
theo Marcô, năm B, vì trình thuật về Cuộc Thương Khó của Matthew theo rất sát với
trình thuật của Marcô. Chỉ có hai phần đặc biệt tập trung trong con người của
Judas Iscariot, chúng ta sẽ chú giải chi tiết hai phần này trong sự phản bội của
Judah. Thay vào đó, chúng ta sẽ chú trọng đặc biệt đến phản ứng của Chúa Giêsu
khi Ngài đối diện với Cuộc Thương Khó, và các phản ứng của con người, đại diện
bằng bốn thành phần: Simon Phêrô, Judas Iscarriot, Philatô, và những người
trong Thượng Hội Đồng.
3.1/
Thái độ của Chúa Giêsu: Bốn
thái độ của Chúa Giêsu chúng ta học được qua Cuộc Thương Khó.
(1) Ngài rất can đảm và sẵn
sàng chấp nhận đau khổ: vì
Ngài biết đau khổ chỉ tạm thời, và phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Trước
khi bước vào Cuộc Thương Khó, Ngài biết đau khổ chỉ kéo dài trong 3 ngày (Thứ
Năm, Sáu, và Bảy Tuần Thánh), sau đó là vinh quang Phục Sinh như lời Ngài đã
báo trước cho các tông-đồ. Chính niềm tin vững mạnh nơi Chúa Cha sẽ cho Ngài
chiến thắng khải hoàn đã giúp Ngài vượt qua tất cả đau khổ. Chúng ta có thể dẫn
chứng thái độ tự tin này bằng những biến cố xảy ra trong Cuộc Thương Khó.
-
Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em
sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy." Chúa Giêsu có thể chỉ
rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các
tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố
cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để
làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã
chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì
hơn!”
-
Sau bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cùng hát thánh vịnh tạ ơn Thiên Chúa với các môn đệ
để ca tụng sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dẫu Ngài sắp phải đương
đầu với quyền lực của thế gian. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu rất tin tưởng vào
kế hoạch của Thiên Chúa và không sợ hãi hay buồn sầu.
(2) Ngài luôn vâng lời làm
theo thánh ý Chúa Cha:
Hai biến cố chứng tỏ sự vâng phục, luôn tìm làm theo thánh ý Chúa Cha của Ngài.
-
Thứ nhất, Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Ghetsemane. Người nói với các ông:
"Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các
ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến.
Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây
mà canh thức." Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu
muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không
nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng
như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như
tất cả đều bỏ mình. Tuy vậy, Ngài vẫn can đảm cầu nguyện: "Abba, Cha ơi,
Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những
gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên
Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên
Chúa hơn ý riêng mình. Sau khi cầu nguyện lần thứ ba, Người trở lại và bảo các
ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con
Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
-
Thứ hai, là giờ hấp hối của Chúa Giêsu trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối
bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn
tiếng: "Eli, Eli, lema sabacthani," nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy
Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó
liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng
bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói:
"Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không." Còn những người khác
lại bảo: "Khoan đã, để xem ông Elijah có đến cứu hắn không!" Đức
Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Ngay lúc đó, bức màn trướng
trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung,
và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.
Những
người đứng đó chỉ nghe hai chữ đầu, nên họ tưởng Chúa Giêsu đang gọi ngôn sứ
Elijah. Sự kiện bức màn phân biệt chỗ cực thánh trong Đền Thờ khỏi tầm mắt của
dân chúng được các học giả phân tích là kể từ nay, con người không cần đợi đến
Ngày Xá Tội để được thầy Thượng Tế xin tha tội, nhưng con người có thể đến trực
tiếp với Thiên Chúa để xin tha thứ. Sự kiện này cũng báo trước sự xụp đổ của Đền
Thờ Jerusalem (70 AD), con người không cần phải vào đó để dâng lễ vật để được
tha tội nữa.
(3) Ngài luôn thành tín
(nói sự thật) khi đương đầu với đau khổ và phản bội.
-
Thứ nhất, Chúa Giêsu đối xử với Judah rất tốt đẹp. Ngài biết rõ Judah phản bội,
nhưng vẫn không chửi mắng và cũng không tố cáo tội của ông cho các môn đệ khác
biết; vì nếu họ biết, Judah sẽ khó giữ được tính mạng của mình. Nhưng Ngài phải
nói cho Judah biết, với hy vọng nhờ cách đối xử nhẹ nhàng, Judah sẽ ăn năn trở
lại. Chúa Giêsu muốn phân biệt hai điều ở đây: theo kế hoạch của Thiên Chúa,
Chúa Giêsu phải chết; tuy nhiên, con người vẫn có tự do cộng tác hay phá hủy kế
hoạch của Thiên Chúa. Nếu Judah không phản bội, vẫn có những Judah khác sẽ phản
bội. Hơn nữa, sau khi phản bội, con người phải biết ăn năn.
-
Thứ hai, Chúa Giêsu không sợ nói sự thật, dẫu biết khi nói sự thật, có thể mang
lại cho Ngài án tử thình: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái
sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố
cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì
sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu không
trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. Câu trả lời của Chúa Giêsu
không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng "Đúng như ngài nói đó."
Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người
Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của
Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này ... ” (Jn
18:36). Ngài không trả lời cho các thượng tế và người Do-thái, vì có trả lời
cho họ, cũng chẳng có ích chi!
(4) Ngài luôn yêu thương và
tha thứ: Đang khi sắp phải
đương đầu với cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu vẫn nhớ tới những người còn ở
lại, nhất là các thế hệ tương lai. Đó là lý do Ngài thiết lập bí-tích Thánh Thể
để tiếp tục ở lại và nuôi dưỡng linh hồn con người.
-
Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa
Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói:
"Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng
lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các
ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật
anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy
uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Mỗi khi cử hành bí-tích Thánh Thể,
con người được nhắc nhở hướng về tương lai, sẽ có ngày họ sẽ cùng được uống thứ
rượu mới trong Nước Chúa với Đức Kitô.
-
Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những
gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho
mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ
ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha
tội. Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8).
Theo Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía
người Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm
Giao-ước cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với
dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để
chuộc tội cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc
của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản
trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
-
Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết,
nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá,
nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài
cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
-
Dù biết trước tất cả tông đồ đều phản bội, Chúa sẵn sàng tha thứ, hòa giải, và
cung cấp hy vọng cho các ông khi Ngài nói: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì
Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác.
Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em.”
3.2/
Tính ích kỷ, gian dối, và phản bội của con người.
(1) Của Simon Phêrô và của
các môn đệ khác: Khi Chúa Giêsu tiên
đoán một người trong các ông sẽ phản bội, các môn đệ buồn rầu, và lần lượt hỏi
Người: "Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là
ai trong trình thuật của Matthew, và cũng không ngờ người phản bội là Judah.
Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ,
biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy
của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn
sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
-
Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có
vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông:
"Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì
chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết
hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả
các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy
ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình.
Vì thế, con người phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay
chính mình nói.
-
Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được
nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với
tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình. Đúng
như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Khi
các binh lính bắt và trói Chúa Giêsu, bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn
hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và phải chịu thiệt thân.
-
Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo
Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với
đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn
cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh. Chối
lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới;
thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác
cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối:
"Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền
sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng
làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi. Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt
đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy."
Nhưng ông Phêrô lại chối. Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại
nói với ông: "Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người
Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng:
"Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy
lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp
gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu
Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông kia
không dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của
mình, và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và
làm chứng cho Chúa Giêsu. Phêrô trở thành nhân chứng cho niềm tin Chúa Giêsu phục
sinh trước THĐ.
(2) Của Judah Iscariot: Trước bữa tiệc Vượt Qua, một
người trong Nhóm Mười Hai tên là Judah Iscariot, đi gặp các thượng tế mà nói:
"Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu." Họ
quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp
Đức Giêsu.
-
Hầu hết các môn đệ đều là người Galilee, chỉ có Judah là người thuộc làng
Iscariot, trong xứ Judah. Tất cả các Tin Mừng đều không nói gì tới việc Chúa
Giêsu gọi Judah. Hầu như tất cả các nơi trong Tin Mừng mà Judah được đề cập tới,
đều có bên cạnh tên Judah danh xưng kẻ phản bội, người bán Chúa hay nộp Chúa.
-
Giá cả 30 đồng mà người ta ấn định cho Judah là một giá rẻ mạt, chỉ bằng tiền
chuộc của một nô lệ rẻ tiền. Để hiểu rõ giá, chúng ta có thể so sánh với giá hiện
kim bây giờ: một đồng Mỹ trị giá khoảng 4 shekels, 30 shekels chỉ tương đương
khoảng 8 dollars. Dĩ nhiên, chúng ta phải so sánh với giá cả của thời đó. Một đồng
của Rôma (denarius) thời đó tương xứng với tiền trả của một ngày làm công, 30
denarii bằng lương tháng của một người. Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao
Judah bán Chúa với một giá rẻ như thế? Lọ dầu cam tùng nguyên chất mà Maria đổ
trên đầu và chân Chúa trị giá 300 đồng! Có nhiều nguồn gốc trong Kinh Thánh ám
chỉ việc buôn bán này, gần nhất là Zech (11:11-13), sau đó đến Jer (32:6-15,
18:23, 19:1), và xa nhất là việc các anh em bán ông Giuse với giá 20 đồng bạc
(Gen 37:28).
-
Các học giả tranh luận để hiểu lý do tại sao Judah bán Chúa Giêsu: Có hai lý do
chính: (1) Theo Tin Mừng Gioan (12:6) và một số đông học giả, lý do chính là
lòng tham tiền. (2) Có một số học giả cho Judah biết Chúa Giêsu có uy quyền,
nên việc bán Chúa chỉ là nguyên cớ làm cho Chúa Giêsu phải ra tay uy quyền của
Đấng Messiah để tiêu diệt những kẻ phản nghịch. Sau này, khi Judah thấy sự suy
luận của mình không đúng, nên đem tiền trả lại; và khi các thượng tế không nhận,
Judah ném tiền vào Đền Thờ. Có lẽ ý kiến thứ nhất đúng hơn, vì nói lên được bản
chất và phù hợp với chức quản lý của Judah.
-
Có một hiện tượng lạ trong Tin Mừng Matthew: Các môn đệ khác đều gọi Chúa Giêsu
là Thầy (Lord), chỉ riêng có Judah gọi Chúa là Rabbi (hai lần). Danh xưng Rabbi
rất xa lạ, chỉ dùng cho các Pharisees và scribes, và bị Chúa Giêsu cấm các môn
đệ: đừng để ai gọi mình là Rabbi.
-
Judah biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa
Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì
chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại
gần Người và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người.
Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có
thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy
mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của
Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah!
Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
-
Judah đi thắt cổ: Bấy giờ, Judah, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối
hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói:
"Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." Nhưng
họ đáp: "Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!" Judah ném số bạc vào Đền
Thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: "Không được
phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu." Sau khi bàn định với nhau, họ
dùng tiền đó tậu "Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm" để làm nơi chôn cất khách
ngoại kiều. Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là "Ruộng Máu" (Haceldama)
cho đến ngày nay. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Jeremiah: "Họ đã lượm lấy
ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Israel đã đặt khi đánh giá
Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua "Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm," theo những
điều Đức Chúa đã truyền cho tôi."
-
Có ba sự khác biệt giữa trình thuật của Matthew và Công Vụ Tông Đồ (Cv
1:18-19). Thứ nhất, cách Judah chết: thắt cổ trong Matthew và té lòi ruột trong
CVTĐ. Thứ hai, các thượng tế dùng tiền để mua thửa ruộng; trong khi chính Judah
dùng tiền mua thửa ruộng. Thứ ba, giá máu là máu của Chúa Giêsu trong Matthew;
trong khi máu là của Judah trong CVTĐ.
-
Mặc dù Judah chỉ chối Chúa Giêsu một lần, sau đó biết hối hận mang tiền lại trả
cho các thượng tế; nhưng điều khác biệt với Phêrô là Judah không tin tưởng nơi
lòng thương xót của Thiên Chúa, nên đã ra đi và quên sinh đời mình.
(3) Của những người trong
Thượng Hội Đồng:
-
Khi các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu
để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố
cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
-
Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có
nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba
ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng
ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng
gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c
Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ
thân thể của Ngài.
-
Tội phạm thượng: Vị thượng tế nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống,
tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con
Thiên Chúa không?"
Đức
Giê-su trả lời: "Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ
nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời
mà đến." Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm
thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến
Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!" Rồi
họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông
Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?"
Vị
Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không
cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể
liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi
đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa
Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự
thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời,
Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại
cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc
tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài
chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương
Khó.
Cuộc
thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối
Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất
cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn
đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết
người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.”
Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật
không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ,
các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được
đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc
riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần
thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có
cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ
Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
(4) Của Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã
họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ
trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền
trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì
thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm
một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng
Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật
của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án
Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái
là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
-
Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabbas: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông
thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên
là Barabbas, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi
dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ
yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua
dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp
Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên
Barabbas thì hơn.”
-
Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy
ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la
lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng
ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập
giá!" Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba,
truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
-
Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức
là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo
điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào
Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu
Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều
ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh
vào thập giá.”
-
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá
Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà
cứu mình đi!"
-
Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng
đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa."
-
Mai táng Đức Giêsu (Mk 15:42-47; Lk 23:50 -55; Jn 19:38-42): Họ đã vi phạm trầm
trọng luật của ngày Sabbath là không được ra khỏi nhà và vào chỗ ở của Dân Ngoại.
Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisees
kéo nhau đến ông Philatô, và nói: "Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy
khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy." Vậy xin quan lớn
truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi
phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng
này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước." Ông Philatô bảo họ: "Thì có sẵn
lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!" Thế là họ
ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ. Matthew muốn chứng tỏ
uy quyền của Thiên Chúa: Ngài sống lại và ra khỏi mộ giữa bao nhiêu lính canh
phòng cẩn mật, mà không một ai biết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta hãy học cách hành xử khôn ngoan, can đảm, và đầy tình thương của Chúa
Giêsu trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Ngài.
-
Ngài vui lòng chịu đau khổ là vì tình thương dành cho con người; nhưng con người
đã mù lòa không chịu nhận ra và đáp trả tình thương của Thiên Chúa.
-
Đau khổ chỉ tạm thời, nhưng vinh quang dành được sau đau khổ không gì có thể so
sánh được. Chúng ta hãy bắt chước cách chịu đựng đau khổ của Chúa Giêsu.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13
THÁNG TƯ
Sự
Sống Của Thiên Chúa Được Đổ Tràn Vào Thế Giới
Mùa
Phục Sinh, chúng ta đi vào trong một cảm nghiệm tâm linh sâu sắc có sức làm cho
chúng ta nếm cảm đức tin của mình vào Đức Kitô Phục Sinh, “Chiên Vượt Qua của
chúng ta” (1Cr 5,7). Người đã chịu hiến tế vì chúng ta, song sự chết đã không
chế ngự được Người. Sứ mạng của Người đã không chấm dứt khi Người bị treo trên
Thập Giá, sứ mạng ấy đã không chấm dứt khi Người kêu lên: “Mọi sự đã hoàn tất”
(Ga 19,30). Thật vậy, đó chính là lúc mà sự hoàn thành chương trình cứu độ của
Thiên Chúa đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người.
Chính
Đức Kitô đã thánh hiến kỷ nguyên này qua cuộc Phục Sinh của Người từ cõi chết.
Người đã hoàn thành trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với chúng
ta. Đức Kitô đã được phục sinh – như lời Người đã hứa. Sự chết không còn làm chủ
được Người nữa, bởi vì Người là sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa trao ban cho
chúng ta.
Đức
Giêsu nói về chính mình: “Ta là … sự sống” (Ga 14,6). Và, vào một dịp khác, Người
tuyên bố: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Như vậy, nơi Người, nguồn
cội của chính sự sống đã đi vào thế giới chúng ta.
Xuyên
qua hiến tế của Đức Giêsu, sự sống thần linh đã được đổ chan hòa trên mọi dân tộc,
và – một cách nào đó – trên toàn khắp vũ trụ. Một sức sống hoạt và tươi trẻ nào
đó đã nạp vào toàn thể tạo vật kể từ khoảnh khắc chiến thắng của Người trên Thập
Giá. Chính chúng ta bây giờ không còn là nô lệ của “nỗi sợ chết nữa” (Dt 2,15).
Đức Kitô đã giải phóng chúng ta vĩnh viễn!
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13-4
CHÚA NHẬT
LỄ LÁ
TƯỞNG
NIỆM CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA.
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mt 26, 14-27,66.
LỜI SUY NIỆM: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.”
Khởi đầu cuộc tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa
Giêsu.Giáo Hội cho chúng ta nghe lại câu chuyện Gui-đa It-ca-ri-ốt bán chúa
Giêsu cho các thượng tế người Do-Thái. Chắc chắn khi nghe biết hành động của
Giu-đa, ai cũng oán ghét và lên án, điều này thật là đúng, nhưng khi xét mình lại
trong cuộc sống của chính mình, bản thân của mình có dẫm phải hành động “đánh đổi”
“rao bán” như Giu-đa không?
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống của mỗi người trong
gia đình chúng con có rất nhiều sự đổi chác, Xin đừng để chúng con đem Chúa ra
đánh đổi, để rồi phải chết trong tội; và bất nghĩa với Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
13-04
Thánh
MARTINO I
Giáo
Hoàng Tử Đạo (+656)
Thánh
Martinô I sinh tại Tôđi, miền Umbria.
Đức
Giáo hoàng đặt Ngài làm đại diện ở Constantinophe. Tại đây, Ngài đã nhiệt thành
chống lại Nhất ý thuyết. Lạc giáo này dạy rằng: nơi Chúa Giêsu chỉ có một ý
chí, ý chí thần linh. Như vậy là họ chối bỏ ý chí riêng của nhân tính Ngài.
Năm
649, khi Đức Thêdôre qua đời, thánh Martinô được cử lên ngôi kế vị thánh Phêrô.
Ngay tháng 10 năm này, Ngài đã triệu tập công đồng Lêtêranô để kết án lạc thuyết.
Làm như vậy Ngài đã liều chuốc lấy phản ứng độc hại của Contance II, một hoàng
đế trẻ theo lạc giáo, và muốn bắt Giáo hội phải chấp nhận sắc lệnh
"Type" về giáo lý của ông. Ngày 17 tháng 6 năm 653, quan thái thú đại
diện hoàng đế là Calliopas ở Ravennna Italia đã bắt Đức giáo hoàng trong nhà thờ
chính tòa. Ngài bị tố cáo đồng lõa trong cuộc phản loạn của quan thái thú tiền
nhiệm là Olymius.
Sau
đó Ngài bi đưa về Constantinople bằng tàu. Sẵn đau khổ vì bệnh đau khớp xương,
cuộc hành trìnnh còn khổ cực thêm vì bị mất thực phẩm tối thiểu, bị cấm không
được tắm rửa. Ngày 17 tháng 9, Ngài tới Constantinople và bị gian trong một nhà
tù cho tới ngày 20 tháng 12. Tại một tòa án giả tạo với sư hiện diện của hoàng
đế, Ngài bị truất ngôi và bị kết án tử hình.
Bi
bỏ rơi trong ngục thất, thánh Martinô vô cùng cực khổ vì lạnh. Một phụ nữ lén
cho Ngài một chiếc giường và một chiếc nệm. Khi ấy, Thượng phụ giáo chủ
Constantinople hấp hối, ông ta sợ bị đoán phạt trước tòa Chúa nên xin Hoàng đế
đừng xử tử tù nhân. Nhưng thánh Martinô lại bị lưu đày tới Cherson ở Crimea.
Tại
đây, Ngài qua đời vì thiếu thốn, có lẽ vào ngày 03 tháng 4 năm 656.
(daminhvn.net)
13
Tháng Tư
Emmaus
Nói
đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués
quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp
những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
Phong
trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố
Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các
thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa
được phóng thích.
Câu
nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là :
"Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người
khác...". Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của
mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Ðó là niềm tin mà cha
Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
Cha
Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai
người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ
này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin
cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp được
hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
Tạo
lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại
niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ
trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để chế biến và bán lại,
như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
Hiện
nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng.
Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất
mát trong cuộc sống.
Tin
Mừng của Thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của
Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.
Cái
chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng,
hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức
là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với
họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc,
thất bại trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng
hân hoan... Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống
một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở
bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường
hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
Ðó
là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ
vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của
thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
Chúa
Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với
bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét