26/04/2014
Thứ Bảy Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 4, 13-21
"Chúng tôi
không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật
sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học
và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ
thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại
được. Họ mới truyền lệnh cho hai ngài ra khỏi hội nghị, rồi thảo luận với nhau
rằng: "Chúng ta phải làm gì đối với những người này? Vì toàn dân cư ngụ ở
Giêrusalem đều hay biết, phép lạ hai ông đã làm rõ ràng quá chúng ta không thể
chối được. Nhưng để sự việc không còn loan truyền trong dân nữa, chúng ta hãy
đe doạ, cấm hai ông không được lấy danh ấy mà giảng cho ai nữa". Họ liền gọi
hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa.
Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét
coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào
không nói lên những điều mắt thấy tai nghe". Nhưng họ lại đe doạ hai ngài,
rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân
chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và
14-15. 16ab-18. 19-21
Ðáp: Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời
tôi (c. 21a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức
từ bi của Người muôn thuở. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở
nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ
hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.- Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa
đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền
công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp
tôi cho tử thần. - Ðáp.
3) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và
cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào.
Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi, và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16, 9-15
"Các con hãy
đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất
trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi
bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm
khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin.
Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về
miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.
Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách
các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi
Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn
loài".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Hiện Ra Nhiều Lần
Trong cuộc triển lãm hội chợ về hoa tại thành phố
Luân Ðôn, điều bất ngờ xảy ra trong nhóm người say mê cây cảnh: giải nhất đã về
tay một cô gái trẻ. Người ta lại càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng cô gái này lại
cư ngụ trong một khu phố tồi tàn chật chội nhất thành phố, được mệnh danh là
"chỗ thiếu ánh sáng". Nơi đó có thể nói được rằng thiếu cả ánh sáng
văn minh lẫn ánh sáng mặt trời. Chính những người lâu năm kinh nghiệm trong nghề
trồng hoa kiểng cũng chẳng hiểu làm sao mà cô gái trồng được một chậu hoa tuyệt
đẹp tại một nơi thiếu ánh sáng như thế.
Khi được phỏng vấn, cô đã thổ lộ bí quyết của mình
như sau: căn nhà của cô ở chỉ có một vùng ánh sáng, nếu mặt trời di chuyển từ
đông sang tây thì vùng ánh sáng cũng chạy từ tây sang đông. Cứ thế, suốt ngày
chậu hoa của cô phải di chuyển từ góc này đến góc kia cho tới ngày nó được hưởng
trọn phần ánh sáng như hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Nhìn lại bài đọc Tin Mừng hôm nay và các tường thuật
về những lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại sẽ cho
chúng ta một điểm đáng lưu ý này là: sau khi sống lại, Ngài không tức khắc đi
tìm nhóm môn đệ đang tụ họp và cầu nguyện, nhưng Ngài chỉ hiện ra với từng cá
nhân hoặc nhóm nhỏ, rồi cho họ sứ mạng truyền đạt tin vui đến với nhóm mười một
tông đồ.
Khi hiện ra với toàn thể các môn đệ, Ngài lại khiển
trách họ: "Tại sao lại cứng lòng tin?" Chúng ta có thể xem điều trên
đây như một mô tả niềm tin của mỗi người. Hơn nữa, ánh sáng của Chúa Kitô Phục
Sinh đến với chúng ta tùy theo mỗi thời điểm và mỗi khung cảnh của cuộc sống.
Ánh sáng của Ngài buộc chúng ta phải biết cố gắng tìm kiếm để được nhận lãnh.
Nói như thánh Augustinô: "Chúa dựng nên con,
không cần có con cộng tác. Nhưng Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con
cộng tác". "Có con" không có nghĩa là con hiện diện ở đó như một
tảng đá quanh năm tiếp thu ánh sáng, nhưng chẳng sử dụng ánh sáng để rồi chịu cảnh
vỡ nát của thời gian. Sự hiện diện của con phải là sự hiện diện của một bông
hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời. Vì ánh sáng mặt trời là nguồn sức sống cho
cây, đồng thời cũng là dịp cho hoa vươn mình khoe sắc.
Vì thế, ánh sáng vui mừng của Ðức Kitô Phục Sinh
trước hết là một đáp ứng cho một tâm hồn tha thiết tìm kiếm Ngài. Maria
Madalena và các phụ nữ đến mồ từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, họ đã được
Ngài hiện ra trước hết, dù rằng họ chẳng chiếm giữ một vai trò quan trọng nào
trong việc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ðức Kitô Phục Sinh cũng
vẫn luôn quan tâm đến tất cả. Ngài chẳng muốn cho một kẻ nào phải hư mất.
Hai môn đệ tuyệt vọng trên đường Emmau được Ngài đồng
hành nâng đỡ. Cả đến sự đòi hỏi gần như thách thức của thánh Tôma cũng được
Ngài sẵn sàng đáp ứng. Ngài hiện diện để trao đổi niềm tin yếu kém: "Tại
sao lại không tin?" "Hỡi những kẻ yếu lòng tin". Ðó là những lời
kêu mời giác ngộ chân lý: "Hãy nhận biết Ngài và hãy tin tưởng vào
Ngài".
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người
trong chúng ta sẽ biết khám phá ra sự hiện diện của một Thiên Chúa mà phần đông
chúng ta tưởng Ngài đã chết. Ngài vẫn luôn hiện diện với ta dù rằng nhiều lúc
con người như hoàn toàn chìm trong bóng tối. Ánh sáng của Ngài vẫn dọi chiếu,
nhưng theo một góc độ nào đó buộc chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm nhiều hơn.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 4:13-21; Mk
16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người không thể trốn tránh sự thật
mãi.
Có một người hay có tính “thêu dệt” và “thêm mắm
thêm muối” mỗi khi nói chuyện với người khác về quá khứ huy hoàng của mình. Các
bạn anh muốn dạy anh một bài học, nên mỗi lần anh nói, họ ghi chép cẩn thận những
gì anh nói. Sau khi kể một hồi, các bạn anh bắt đầu thắc mắc về thời gian và
nơi chốn của những việc xảy ra, và chỉ cho anh thấy sự không hợp lý của những
gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu nói năng cẩn thận hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới
có thể tránh được những mâu thuẫn của các sự việc.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người
không thể trốn tránh mãi sự thật. Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội
Đồng Do-thái nghĩ khi họ đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá là từ nay dân chúng
sẽ nghe theo họ; nhưng họ lại phải đương đầu với các môn đệ của Ngài và hàng
ngàn dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều
lần với các môn đệ sau khi chết. Ngài khiển trách họ đã quá cứng lòng không chịu
tin vào lời các nhân chứng thuật lại trong trình thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nghe lời các ông hay là nghe lời Thiên Chúa?
1.1/ Phản ứng của những
người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ ngạc nhiên khi thấy ông
Phêrô và ông Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay hai cá nhân nào dám đứng
ra đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ
lãnh thiệt hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai ông là những người không
có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét đúng, cả hai, Phêrô và
Gioan, đều làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi và biết chữ nghĩa và
Lề Luật như họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và câu hỏi họ đặt ra cho
hai ông hôm qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân danh ai mà các ông làm
chuyện đó.”
Câu trả lời của Phêrô giúp họ tìm ra những gì họ
muốn biết: chúng tôi chỉ lấy sức mạnh và quyền lực của Đức Kitô, Đấng mà các
ông đã đóng đinh vào Thập Giá. Họ cũng nhận ra hai ông là những người đã từng
theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai
ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng
Hội Đồng, để bàn tính với nhau. Họ chỉ có hai con đường phải chọn:
(1) Phục thiện và tin
vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng, đứng trước 3 nhân chứng,
và đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa Giêsu là Người đến từ
Thiên Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau về hai ông: “Họ đã
làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại
Jerusalem, và ta không thể chối được.”
(2) Dùng bạo lực để
bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không tin: sợ mất thế
giá, sợ mất lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau khi bàn luận, họ quyết định bưng bít sự thật bằng
bạo lực. Họ quyết định: “Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy
ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi
hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh
Đức Giêsu nữa."
1.2/ Phản ứng của Phêrô
và Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là
nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không?
Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng
tôi không thể không nói ra."
Thượng Hội Đồng là những người có kiến thức và biết
Lề Luật của Thiên Chúa. Họ phải công nhận điều Phêrô nói là phải tuân hành những
gì Thiên Chúa nói hơn con người; nhưng vì quá ngoan cố trong việc tìm hiểu sự
thật nên họ tiếp tục ở trong bóng tối tội lỗi. Trình thuật kể thái độ cứng lòng
của họ như sau: “Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được
cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa
vì việc đã xảy ra.”
2/ Phúc Âm: Các lần hiện ra của Chúa Giêsu theo thánh-sử Marcô
Không phải chỉ có những người trong Thượng Hội Đồng
cứng lòng, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng mắc phải lỗi lầm đó. Hơn những người
trong Thượng Hội Đồng, các tông đồ đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến
hình, và báo trước cuộc tử nạn và sống lại sẽ xảy ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện
ra một lần để có cớ cho các tông đồ nói đó chỉ là ảo ảnh hay bóng ma; nhưng
Ngài hiện ra nhiều lần với các nhân chứng khác nhau. Chúa Giêsu phải trách thái
độ cứng lòng của các ông vì đã chối từ sự thật đến không phải từ hai như Lề Luật
đòi, nhưng nhiều nhân chứng khác nhau. Thánh Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1) Với một mình Mary
Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức
Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi
bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã
khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không
tin.”
(2) Với hai môn đệ
trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng
khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở
về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.”
(3) Với Nhóm Mười Một:
“Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông
dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông
không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với
các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thọ tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn học để biết sự thật, vì chỉ
có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi mọi gian trá.
- Không chỉ học biết sự thật, chúng ta còn phải có
can đảm để nói sự thật, sống theo sự thật, và làm chứng cho sự thật.
- Khi có sự xung đột giữa điều Thiên Chúa nói và
điều người phàm nói; chúng ta phải luôn luôn vâng lời Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Mc 16,9-15
A. Hạt giống...
Phần cuối của Tin Mừng Mc (cũng không do Mc viết,
mà do ai đó viết thêm vào), ghi tóm lược 3 cuộc hiện ra chính của Chúa Giêsu
sau khi sống lại :
- Hiện ra cho Maria Mađalêna
- Hiện ra cho hai môn đệ Emmau
- Hiện ra cho mười một tông đồ
Đoạn Tin Mừng này nhấn mạnh :
- Thái độ không tin của các tông đồ (không tin những
lời Mađalêna nói, cũng không tin hai môn đệ Emmau)
- Chúa Giêsu khiển trách thái độ không tin ấy
- Sau khi làm cho các ông tin, Chúa Giêsu sai ông
"đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
B.... nẩy mầm.
1. Sau khi khiển trách các môn đệ đã cứng lòng
tin, rồi củng cố lại lòng tin đó, Chúa Giêsu mới sai các ông đi rao giảng. Rao
giảng là chia xẻ niềm tin của mình cho người chưa tin hoặc đức tin còn yếu. Vì
thế phải tin rồi mới rao giảng.
2. Các môn đệ đã không tin mặc dù nghe các phụ nữ
kể lại việc Chúa hiện ra cho các bà. Các ông vẫn không tin khi nghe thêm hai
môn đệ Emmau thuật lại cuộc gặp gỡ của họ với Đấng phục sinh. Chỉ mãi đến lúc
Chúa Giêsu đến thì các ông mới tin. Đức tin không do suy luận, không do có bằng
chứng, nhưng đức tin là việc Chúa làm, do Chúa ban. Con cám ơn Chúa đã ban đức
tin cho con. Con xin Chúa gìn giữ và củng cố đức tin của con.
3. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn
bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến,
hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao
?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn
lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
4. "Sau khi sống lại được Đức Giêsu hiện ra
trước tiên với bà Maria Mácđala... Bà đi báo tin cho những kẻ từng sống với Người
mà nay đang buồn bã khóc lóc"
Tôi là Maria Mácđala. Mọi người sỉ vả, chê bai
tôi. không ai dám đụng đến tôi vì sợ bị ô uế và lây nhiễm tội lỗi. Mọi cặp mắt
khinh miệt đều hướng về tôi. Vậy mà khi gặp ngài, Ngài nhìn tôi với đôi mắt
triù mến và đầy tình thương. Tôi không thể nào quên đôi mắt ấy, đôi mắt đã kéo
tôi ra khỏi vũng bùn tội lỗi. Từ giây phút đó, tôi bước đi theo ngài, cùng với
ngài rảo qua khắp các làng mạc, thành phố để rao giảng tin mừng.
Rồi ngài bị bắt, bị đem giết. Tôi bối rối, sợ hãi
và tuyệt vọng. Các môn đệ của ngài cũng đã bỏ chạy. Nhưng ngài vẫn chưa
được yên, cả đến xác ngài cũng bị đánh cắp khi tôi ra viếng mồ sau khi ngài chết
vài ngày. Ôi cuộc đời của ngài như thế này sao ? Vậy là chấm dứt, chấm dứt tất
cả !
Trong cơn tuyệt vọng, Ngài gọi tôi
"Maria". Vâng, chính là ngài. Không phải là cái xác tôi đang tìm mà
là một Giê-su đang sống, sống thực sự. Nhiệm vụ của tôi bây giờ là phải đi loan
báo cho mọi người biết tin vui này. Tôi không có quyền giữ lại niềm vui và hạnh
phúc cho riêng mình. Chúa muốn mọi người cũng được hạnh phúc như tôi, được chia
sẻ niềm hanh phúc này.
Giê-su ơi, Ngài đã sống lại, xin phục sinh tâm hồn
con và cho con biết đem niềm vui phục sinh đến cho mọi người. (Epphata)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
26/04/14 THỨ BẢY TUẦN BÁT NHẬT PS
Mc 16,9-15
Mc 16,9-15
ĐỨC KITÔ ĐANG SỐNG
Ngài khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẻ các
ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người
nói với các ông :” Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho
mọi loài thụ tạo.”
(Mc 16,14-15)
Suy niệm: Những người được diễm phúc thấy Đức Giê-su
phục sinh thuộc ba nhóm khác nhau: Ma-ri-a Mác-đa-la và các phụ nữ theo Chúa,
nhóm 12 tông đồ và hai môn đệ thuộc nhóm 72 môn đệ. Nhưng họ cũng có một điểm
chung: tất cả đã theo Chúa, đã ở với Ngài, đã nghe lời Ngài giảng, thấy các
việc kỳ diệu Ngài làm, đặt nhiều hy vọng nơi Ngài cũng như đã từng thất vọng
trước cái chết của Ngài. Chúa Ki-tô phục sinh hiện đến để cho họ thấy rằng Đấng
phục sinh hôm nay cũng chính là vị Thầy của họ hôm qua, Ngài không phải là một
Đức Ki-tô khác, nhưng là một Đức Ki-tô đã đổi khác.
Mời Bạn: Hãy
nhớ lời căn dặn của Đức Ki-tô phục sinh: rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bạn
hãy làm như những người được gặp Đức Ki-tô phục sinh: loan đi, kể lại niềm vui
này cho người khác, như Ma-ri-a Mác-đa-la, như hai môn đệ Em-mau… Niềm vui phục
sinh không thể là niềm vui riêng của bạn.
Sống Lời Chúa: Chung
quanh bạn có ai đó đang túng thiếu, bạn đến chia sẻ; có ai đó đang gặp chuyện
đau buồn, bệnh tật, bạn đến thăm viếng, an ủi. Nhất là có tín hữu nào lơ là
trong việc sống đạo, bạn đến thăm, chia sẻ niềm vui được Chúa Ki-tô Phục sinh
với họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, xin cho con hiểu rằng chúng con không
được ích kỷ giữ tin mừng Phục sinh riêng cho mình, nhưng phải loan báo, chia sẻ
niềm vui ấy cho người chung quanh.
Vẫn không tin
Nếu thực sự tin vào sự phục
sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác. Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn, quảng
đại hơn, vui tươi hơn...
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải, sách
Tin Mừng Marcô kết thúc ở chương 16, câu 8,
với việc các phụ nữ sợ hãi,
chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói đến
việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này của
Marcô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ
hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có
trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể chuyện
các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục sinh
hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện ra
với các môn đệ
và sai các ông đi loan báo
Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do
phần kết của sách Tin Mừng Marcô đặt ra,
một tác giả được ơn linh
hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin Mừng
khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã được
Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn
mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện ra
trước tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống lại
cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc.
9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ
mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin cho
những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu đích
thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về tội
không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu phục
sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy báo
trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong nhóm
làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất vọng,
buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi
được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con
người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh
vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục họ
bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế giới
nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng
không dễ đối với chúng ta hôm nay.
Nếu thực sự tin vào sự phục
sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng
hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Nhiều khi chúng ta vẫn loan
báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà lòng
còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được thực
sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy
trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn
gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận
người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc
tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có
cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết
thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã
hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự
của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình
hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy Niệm
Tôi nhớ,
tuần tĩnh tâm của các linh mục địa phận Cần Thơ từ ngày 13 đến 17 tháng 01 năm
2014 diễn ra tốt đẹp, đặc biệt là giờ tiếng nói Giám mục trong ngày sau cùng.
Đức Cha Stêphanô nhắn nhủ nhiều điều cho linh mục đoàn, cách riêng là ngài quan
tâm đến việc truyền giáo. Đức cha nói: ‘Chúng ta không chỉ quan tâm đến bốn
con chiên, nhưng chúng ta còn phải quan tâm đến chính mươi sáu con chiên khác’.
Bốn con chiên Đức cha đề cập ở trên là tỉ lệ người công giáo ở Việt Nam trên
dưới bốn phần trăm so với dân số Việt Nam (88 triệu). Chín mươi sáu con chiên
khác là những người chưa biết Chúa, nên chúng ta cần quan tâm, cụ thể là việc
truyền giáo.
Đọc bài
Tin Mừng hôm nay cách đây 2000 năm, Chúa Giêsu rất quan tâm đến việc truyền
giáo, cuối đoạn Tin Mừng, Chúa mời gọi các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng: ‘Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’ (Mc
16,15). Tại sao Chúa Giêsu muốn các tông đồ ra đi rao giảng nước Thiên Chúa? Vì
Ngài muốn mọi người nhận ra được Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài
muốn mọi người được tham dự vào tiệc nước trời: ‘Ra các ngã ba, ngã tư
mời họ vào dự tiệc’ (Lc 14,21-23). Ngài cũng muốn cho Danh Cha được cả
sáng (Mt 6,9), và sau cùng là muốn cho mọi người chúng ta trở nên con cái của
Cha trên trời.
Lạy Chúa,
sứ vụ truyền giáo rất cấp bách nhưng đôi khi chúng con chưa quan tâm đủ. Xin
Chúa giúp chúng con hăng say rao giảng Tin Mừng phục sinh của Chúa, cách riêng
trong năm Tân Phúc Âm hóa gia đình. Ngoài ra, xin Chúa ban bình an, nghị lực và
lòng nhiệt thành cho chúng con như các tông đồ và các nhà truyền giáo xưa nay.
Amen.
Lm.Phêrô
THANH HÀ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26
THÁNG TƯ
“Hãy
Nhận Lãnh Thánh Thần”
Trong
Mùa Phục Sinh, chúng ta có dịp trở lại căn gác thượng. Chúng ta nhớ lại những
biến cố của ngày đầu tuần, của Chúa Nhật Phục Sinh.
Đức
Giêsu xuất hiện, dù cửa đóng kín. Người đứng giữa các môn đệ và nói với các
ông: “Bình an cho anh em. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga
20,21). Và sau khi Người nói những lời ấy, Người thổi hơi trên các ông và nói:
“Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần” (Ga 20,22).
Đây
là cuộc hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sau khi Phục Sinh. Đức Giêsu xuất hiện.
Người vẫn như thế; nhưng Người cũng đã thay đổi. Người vẫn là con người đã chịu
khổ nạn, vì Người đã cho các môn đệ thấy các lỗ đinh nơi tay Người và vết
thương nơi cạnh sườn Người. Nhưng Người đã thay đổi. Cửa đóng không thể cản trở
thân xác vinh quang của Người!
Người
đã được thay đổi bởi cuộc Phục Sinh. Giờ đây, Người biểu hiện quyền năng của
Thánh Thần trao ban sự sống nơi thân xác Người. Người xuất hiện trong quyền
năng của Thánh Thần, và Người trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ. Chúa chúng
ta trao ban Thánh Thần, Ôi! Hồng phúc biết bao, các vết thương trong cuộc khổ nạn
của Chúa.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 26-4
THỨ BẢY TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC
SINH
Cv 4, 13-21; Mc 16, 9-15.
LỜI SUY NIỆM: “Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”
Trong Tông Huấn “Niềm Vui của Tin Mừng” của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô đang hướng dẫn toàn thể Dân Thánh Chúa tiếp tục nối tiếp sứ vụ
“Loan Báo Tin Mừng”…+TẤT CẢ CHÚNG TA LÀ NHỮNG MÔN ĐỆ TRUYỀN GIÁO: (119) Đối
với tất cả những người đã được Rửa Tội, từ người đầu cho đến người cuối, tác động
của quyền năng thánh hóa của Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ rao giảng Tin Mừng…+
(120) Nhờ Bí Tích Rửa Tội mà họ lãnh nhận, mỗi phần tử của Dân Thiên Chúa trở
thành môn đệ truyền giáo…+(121)…+Trong mọi trường hợp, chúng ta được mời gọi để
làm chứng cho những người khác một cách rõ ràng về tình yêu cứu độ của Chúa là
Đấng bất chấp sự bất toàn của chúng ta, đã ban cho chúng ta sự gần gũi của Người
– Lời của Người; sức mạnh của Người; và ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta…+…
Lạy Chúa Giêsu. Gia đình chúng con tạ ơn Chúa, Chúa đã
thương ban ơn đức tin và hằng nâng đỡ đức tin yếu kém của chúng con. Xin cho mọi
người trong gia đình chúng con luôn ý thức sứ vụ truyền giáo của mình, và phải
làm cho tốt đến trọn đời.
Mạnh
Phương
26
Tháng Tư
Người Sói
Một
trong những cuốn phim nói về sự bí ẩn của tuổi thơ: đó là cuốn phim có tựa đề
"người sói". Cuốn phim xây dựng trên một câu chuyện có thực xảy ra tại
Pháp vào cuối thế kỷ 18. Một đứa trẻ đã bị thất lạc trong rừng từ lúc lọt lòng
mẹ.
Mười
hai năm sau, khi người ta tìm gặp nó giữa rừng, thì đứa bé không khác nào một
con thú. Người ta không thể nào giao thiệp gặp gỡ với nó được. Tất cả những gì
một nhà giáo, một bà vú nuôi có thể làm được chỉ là chuẩn bị thức ăn và đặt vào
trong xó bếp để đứa bé tìm đến và liếm thức ăn như một con thú... Mọi người dường
như bó tay, không còn cách nào để đưa nó ra khỏi đời sống hoang dã của nó.
Và
một ngày kia, nó đã trốn thoát. Mọi người thở dài trước thất bại của mình...
Tình cờ, vì đói, nó đã trở ra xóm làng và một lần nữa người ta đã bắt lại được
nó. Người ta mang nó đến nhà giáo và người được chỉ định đến gần nó để hỏi han,
trò chuyện chính là vú nuôi. Bà cố gắng dùng ngôn ngữ thô sơ của mình để nói
chuyện với đứa bé. Gương mặt của nó như bất động. Nhưng bỗng nhiên, trước sự ngạc
nhiên của mọi người, đứa bé nắm tay người đàn bà. Nó nhìn bà một hồi lâu và
trong thinh lặng. nó cầm hai tay người đàn bà áp lên mặt mình...
Lúc
đó, người ta chỉ còn thấy những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má của hai
khuôn mặt...
Cuộc
gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người cũng diễn ra như thế. Nó nằm ra bên ngoài tất
cả những dự đoán và tính toán của chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ là đối tượng
của những tính toán khoa học. Thiên Chúa cũng không là kết luận của những suy
tư uyên bác. Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta trong những cái bất ngờ nhất. Thiên
Chúa ở trong chúng ta, nhưng đồng thời cũng thoát khỏi tầm tay với của chúng
ta... Nói tóm lại, chúng ta không thể chiếm hữu Thiên Chúa như một sự vật,
nhưng trái lại chúng ta phải chiến đấu không ngừng để nhận ra Ngài trong những
cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống...
Tin
Mừng cho chúng ta thấy nhiều phản ứng khác nhau của con người đối với Chúa
Giêsu. Phần đông dân chúng chỉ nhìn thấy nơi Ngài như một người dân quê xuất
thân từ cái miền nghèo nàn là Galilê. Những người trí thức thì nghiên cứu Kinh
Thánh để rồi áp dụng những hiểu biết sách vở của họ vào con người Chúa Giêsu.
Và, sĩ nhiên, những gì đã được Kinh Thánh nói đến, họ không tìm thấy nơi Chúa
Giêsu... Một số khác thì đề nghị bắt giữ Chúa Giêsu vì Ngài là một tên lừa bịp...
Chúa
Giêsu vẫn mãimãi là câu hỏi của chúng ta: "Còn các con, các con bảo Ta là
ai?". Một câu hỏi như thế, chúng ta không chỉ trả lời bằng những kiến thức
đã lĩnh hội được qua giáo lý, thần học, Kinh Thánh... Một câu hỏi như thế chỉ
có thể được trả lời bằng một cuộc gặp gỡ thân tình với Ngài.
Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với Ngài trong Ðức Tin.
Cũng giống như người vú nuôi già và đứa bé người sói đã cảm thông với nhau trong thinh lặng và vượt lên trên tất cả những ngôn ngữ của loài người, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta đi vào thông hiệp với Ngài trong Ðức Tin.
Ðức
tin đó sẽ luôn là mặt trận chiến dai dẳng trong tâm hồn chúng ta. Có lúc chúng
ta cảm thấy như đi trong ánh nắng chan hòa. Có lúc, tất cả xung quanh chúng ta
như ập phủ xuống và chúng ta không còn thấy gì nữa. Thiên Chúa đến với chúng ta
bằng những câu hỏi mà chúng ta không ngừng nêu lên với Ngài... Tại sao Ngài bỏ
con? Chúng ta hãy không ngừng tra vấn Thiên Chúa. Ðó là dấu hiệu của một cuộc đối
thoại giữa Ngài với ta.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét