27/04/2014
Chúa Nhật II Phục Sinh Năm A
LỄ KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
(phần I)
Bài Ðọc
I: Cv 2, 42-47
"Tất
cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy,
các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp
huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các
Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người
đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của
chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng
người. Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở
nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến
chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 117, 2-4. 13-15. 22-24
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm,
vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi
nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những
người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". -
Ðáp.
2)
Tôi đã bị đẩy, bị xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh,
là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến
thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh
liệt. - Ðáp.
3)
Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó
đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực
hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 1 Pr 1, 3-9
"Nhờ
việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng
ta hy vọng được sống".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Chúc
tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ
việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng
ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy
tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của
Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó
anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều
thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội
phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Ðức Giêsu Kitô
hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây
giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh
quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi
linh hồn.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Ga 20, 29
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 19-31
"Tám
ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào
buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín,
vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng:
"Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và
cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại
phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông:
"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được
tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười
hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu
hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy
Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy
vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc
bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám
ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi
các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho
các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và
hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng
lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của
con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con
đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa
Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép
trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa
Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Niềm tin vào việc
Chúa sống lại phát xuất
từ những sự kiện không chối cãi được
Chúng
ta đã có thể nhận thấy vì sao Phụng vụ hôm nay lại đọc cho chúng ta đoạn Tin Mừng
vừa nghe. Bởi vì hôm nay là ngày thứ 8 sau lễ Phục sinh; thế mà 8 ngày sau khi
sống lại Chúa đã hiện ra đặc biệt cho Thôma.
A.
Bài Tin Mừng Yoan
Câu
chuyện về người Tông đồ này, chúng ta đã từng nghe biết. Và khi muốn chế nhạo
ai, nhiều khi chúng ta bảo họ cứng lòng tin như Thôma. Nhưng thật sự, Thôma vẫn
là một vị thánh Tông đồ và người đáng kính phục hơn chúng ta tưởng. Ít nhất người
cũng hơn chúng ta nhiều. Theo Tin Mừng Yoan, Thôma là vị Tông đồ có suy nghĩ
sáng sủa và nhiệt tình quả cảm. Khi Ðức Yêsu nói với các môn đệ rằng: con đường
Người đi, sau này họ cũng sẽ đi. Thôma liền thưa: nhưng chúng con không biết Thầy
đi đâu thì làm sao biết được đường lối của Thầy? (14,5). Nhưng dù vậy, khi thấy
Chúa dứt khoát muốn lên Yêrusalem, không kể chi đến những nguy hiểm đang chờ,
Thôma đã bảo anh em: Nào cả chúng ta nữa hãy lên Yêrusalem chịu chết với Người.
Một tính tình như vậy chỉ đáng khen, chứ có gì là đáng chê.
Riêng
trong câu chuyện hôm nay, thoạt tiên Thôma có vẻ như là người Tông đồ duy nhất
không muốn tin việc Chúa sống lại. Ðó chỉ là lối thuật truyện của tác giả Tin Mừng
thứ tư. Những sách Tin Mừng khác cho biết lúc đầu nhiều môn đệ không muốn tin
như vậy. Nhưng Yoan khi kể chuyện thích nói đến "một" người để làm nổi
bật ý nghĩa lên. Ông có lý để chọn Thôma vì người Tông đồ này, như ta đã nói,
có óc suy nghĩ sáng sủa. Những môn đệ khác đã được thấy Chúa; còn ông, ông cũng
muốn được hân hạnh đó, nếu có thể được. Và hơn nữa, ông muốn có bằng chứng xác
thực hơn kiểu cách anh em mô tả. Ông muốn được mắt thấy tay sờ. Yoan mô tả thái
độ của ông như vậy để khẳng định rằng: niềm tin của các Tông đồ vào việc Chúa sống
lại căn cứ vào những cơ sở thật chắc chắn.
Ðó là
chủ đích của cả đoạn Tin Mừng Yn 20. Từ đầu chí cuối, tác giả muốn nhấn mạnh:
niềm tin vào việc Chúa sống lại phát xuất từ những sự kiện không chối cãi được.
Yoan và Phêrô chỉ tin sau khi đã thấy mồ trống và các khăn liệm xác. Maria
Magđala chỉ nhận ra Thầy đã sống lại sau khi nghe rõ tiếng Thầy gọi tên mình. Mọi
Tông đồ khác, kể cả Thôma, con người có suy nghĩ sáng sủa, cũng chỉ công nhận
Chúa đã phục sinh khi đã nhìn thấy Người. Ðức tin của các Tông đồ có cơ sở chắc
chắn. Họ thật là các chứng nhân của việc Chúa sống lại.
Thành
ra kết câu chuyện về Thôma cũng giống như chuyện về Maria Magđala. Cả hai đều vắng
mặt khi những người khác được "ơn". Ðiều ấy thúc đẩy họ khao khát được
ơn lớn hơn. Và quả thật, Chúa đã thưởng công những tâm hồn cậy tin. Maria đã được
hơn Yoan và Phêrô vì Chúa đã hiện ra với bà và thân mật dịu dàng gọi tên bà.
Thôma cũng vậy, ông được Chúa hiện ra cho một mình ông, nếu ta nói được như thế.
Còn
câu Chúa nói: "Bởi thấy Ta, con đã tin; phúc cho những ai không thấy mà
tin", không thể làm Thôma buồn, vì ông thuộc thế hệ các Tông đồ, những người
đã thấy và đã tin. Ai dám bảo thế hệ ấy không có phúc? Chính Chúa đã có lần nói
với họ: Phúc cho chúng con vì được xem thấy, nghe thấy bao điều mà các tiên tri
vua chúa không được thấy và nghe. Họ có phúc vì đã thấy và đã tin, đang khi có
bao kẻ cũng thấy mà không tin. Ðức tin không chỉ căn cứ vào những điều đã thấy.
Bọn Biệt phái có mắt mà như mù. Nên Thôma đã thấy và đã tin, thì đã có phúc rồi.
Và chắc chắn niềm vui của ông thật đã to lớn khi thấy Chúa hiện ra và nói với
mình. Câu nói kia không nhắm ông nữa, nhưng hướng về độc giả sách Tin Mừng và
chúng ta hết thảy. Chúng ta không thuộc thế hệ những người mắt thấy, mà chúng
ta tin, thì chúng ta là những người có phúc. Có phúc vì đã được ơn Chúa ban, vì
đức tin, cuối cùng, là ơn ban của Chúa. Người ban cho những ai Người đã tiền định.
Chính cái phúc đó mà chúng ta phải suy nghĩ bây giờ theo lời thư 1 Phêrô.
B.
Bài Thư Phêrô
Tác
giả bắt đầu bằng lời chúc tụng Thiên Chúa vì nghĩ đến hạnh phúc mình đã được với
tư cách là tín hữu. Quả vậy, chỉ vì lòng thương lớn lao mà Người đã ban cho tất
cả chúng ta được ơn tái sinh nhờ mầu nhiệm Ðức Kitô Phục sinh từ cõi chết.
Chúng ta đâu đã thấy Người, thế mà chúng ta vẫn mến tin Người. Do đâu vậy, nếu
không phải do lòng thương xót lớn lao của Người? Chính lòng thương xót ấy đã
ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã để Người chết cho chúng ta và đã phục sinh Người
từ kẻ chết cho chúng ta. Tất cả những việc lớn lao đó nằm trong kế hoạch tình
yêu muốn cho chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi và trở nên nghĩa tử trong Ðức
Kitô, khiến chúng ta được trông đợi hồng phúc lớn lao bất diệt sau này. Sánh với
phúc lộc ấy, những đau khổ ở đời này có là chi? Ðó chỉ là tạm bợ và rơm rác làm
cho vàng sáng tỏ. Thế nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin, nhìn vào Ðức Kitô sống
lại trong vinh quang mà chắc chắn vào tương lai rực rỡ đang chờ mình. Hạnh phúc
ở ngay trong niềm tin ấy.
Như vậy
bài thư Phêrô đã tiếp nối bài Tin Mừng Yoan, cho chúng ta thấy hạnh phúc của
mình khi tin Ðức Kitô sống lại và dùng niềm tin ấy khuyến khích chúng ta trong
cuộc đời phấn đấu ở trần gian. Nhưng thật lầm tưởng khi suy nghĩ việc Chúa Phục
sinh nguyên trong tương quan với mình mà thôi. Khi nói với Thôma: phúc cho những
ai không thấy mà tin, Chúa sống lại gián tiếp ngỏ ý muốn có những người như vậy;
nghĩa là Thôma và các Tông đồ phải đi tìm những người như thế. Người cũng đã dạy
Maria, khi đã nhận ra Người sống lại, hãy đi báo tin cho các môn đệ. Niềm tin
phục sinh bao hàm sứ điệp truyền giáo. Ðức tin của những người đã thấy làm cho
những kẻ không thấy mà tin. Những kẻ này có phúc qua trung gian những người
trên. Chúng ta nay được phúc lộc nhờ lời giảng của các Tông đồ. Và tác động của
các Ngài tới chúng ta qua Giáo Hội mà buổi đầu đã được tác giả sách Công vụ mô
tả như chúng ta vừa nghe đọc. Chúng ta cần tìm hiểu đoạn Thánh Kinh này để biết
rõ môi trường phải nung nấu niềm tin hạnh phúc của chúng ta vào việc Chúa phục
sinh.
C.
Bài Sách Công Vụ
Rõ
ràng câu cuối bài sách Công vụ cho thấy "số những kẻ được cứu rỗi cứ mỗi
ngày được Chúa ban thêm" cho cộng đoàn các Tông đồ lập ra. Và ta phải hiểu
niềm tin cứu rỗi nơi mỗi người cũng chỉ tăng trong các cộng đoàn như thế. Thế
nên tìm hiểu các cộng đoàn này là một nghĩa vụ.
Tác
giả sách Công vụ - thánh Luca - đã nhiệt tình làm công việc ấy. Ở đây rõ ràng
người không phác họa tự ý. Bản văn của người thiếu thứ tự và có nhiều nét lặp lại,
khiến ta có thể nói người đã nghe tin về nhiều cộng đoàn khác nhau và thấy Ơn
Chúa Thánh Thần làm việc ở các cộng đoàn khác nhau thế nào, người ghi tất cả lại
như là một bản thống kê các sinh hoạt phong phú của Chúa Thánh Thần.
Trước
hết chúng ta thấy các tín hữu bấy giờ kiên trì (hay chuyên cần) với giáo huấn của
các Tông đồ và sự hiệp thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện. Không có sự chuyên cần
với giáo huấn của các Tông đồ, không thể đào sâu và giữ vững đức tin. Người ta
sẽ tin hời hợt và có thể lạc mất niềm tin. Việc kiên trì kết hợp với các Tông đồ,
với quyền giáo huấn ở trong Hội Thánh là điều kiện để giữ được liên lạc và kết
hợp được với Ðức Kitô hầu khỏi bỏ rơi mất niềm tin.
Ðồng
thời khi liên kết với đầu, người ta cũng mật thiết với anh em là cùng chi thể
trong một thân thể. Các tín hữu đầu tiên đã chuyên cần với hiệp thông, không những
trong cùng một đức tin nhưng còn trong một lòng mến. Họ chỉ có một lòng một ý
(4,32). Không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự
đều là của chung. Chắc chắn chúng ta không nên hiểu chế độ "của
chung" đã phổ cập ở mọi nơi, trong những cộng đoàn đông đảo. Nhưng sự kiện
có một số người sau khi đã đón nhận đức tin, đã biết tình nguyện bỏ chung của để
chia sẻ và tương trợ nhau, cũng nói lên ơn Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ nơi
tâm hồn các tín hữu. Luca ghi nhận sự kiện ấy như là dấu chỉ về đời sống mới và
hạnh phúc phục sinh. Ðó có thể là lý tưởng, nhưng vẫn là đặc sủng, là tiếng gọi,
là biểu thị của đức tin sống động và toàn vẹn, là dấu chỉ đời sống phục sinh
phát triển đến mức cụ thể chi phối đến cả đời sống vật chất.
Tuy
nhiên sự hiệp thông sâu xa và căn bản nằm ở bình diện khác. Chính Thiên Chúa và
sự sống của Người là nguồn mạch phát sinh ra sự sống trong Hội Thánh. Thế nên hàng
ngày các tín hữu chuyên cần với việc bẻ bánh và kinh nguyện. Sách Công vụ nói:
họ bẻ bánh ở nhà vì đó là nghi lễ riêng của Kitô giáo, không làm tại Ðền thờ được.
Họ làm việc ấy "lòng hân hoan, dạ đơn thành, trong lòng ngợi khen Thiên
Chúa", vì đây là lễ Tạ ơn Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ mọi người nơi Ðức
Yêsu Kitô Tử nạn và Phục sinh. Chính trong nghi lễ bẻ bánh họ nhận ra sự hiện
diện của Chúa đã chết và sống lại; họ thấy Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người,
nên lòng họ hân hoan, miệng dâng lời ngợi khen. Lúc ấy tâm hồn được bồi dưỡng,
dạ họ trở nên đơn thành; họ trở nên tạo vật mới, nên bánh không men của lễ Vượt
Qua, tức của mầu nhiệm Phục sinh.
Ngoài
ra, họ tỏ ra chuyên cần với việc cầu nguyện vì đó là thái độ chung của mọi người
có tin tưởng. Người Dothái trung thành với kinh nguyện ở Ðền thờ. Các môn đệ
Chúa cũng vậy. Sách Công vụ kể Phêrô và Yoan lên Ðền thờ cầu nguyện vào giờ
chung với mọi người. Nhưng ngay từ đầu các tín hữu đã có lối cầu nguyện riêng
chung với nhau, như khi chờ nhận ơn Chúa Thánh Thần. Và việc cầu nguyện này cần
cho đời sống mới đến nỗi Phêrô khẳng định các việc từ thiện bác ái không được
làm suy giảm.
Chính
nhờ nếp sống chuyên cần với việc giáo huấn, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện
như thế mà Hội Thánh lớn lên trong sự mến phục của toàn dân và được Chúa chúc
lành cho tăng trưởng.
Thế
thì đời sống đức tin mới của mỗi người cũng chỉ có thể phát huy được nhờ bốn sự
chuyên cần trên, tức là nhờ việc tham gia vào nếp sống chuyên cần của Giáo hội.
Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta qua Ðức Yêsu-Kitô, Ðấng đã chết và sống lại.
Thôma đã xem thấy Người và đã tin. Chúng ta không thấy nhưng vẫn tin vì Người
đang hoạt động nơi các Tông đồ và Giáo hội. Chính việc liên kết với các Tông đồ
và hiệp thông với anh em trong việc bẻ bánh và cầu nguyện làm cho chúng ta được
hợp nhất với Chúa và nhận lấy sự sống của Người. Sự sống này là sự sống Thần
Linh hay Thánh Thần mà Ðức Kitô đã đem lại khi Người Tử nạn-Phục sinh. Khi phát
triển sự sống ấy có thể phát sinh ra một nếp sống mới thật sự khiến toàn dân mến
phục và nhiều người theo Chúa.
Chúng
ta cần suy nghĩ về những điều ấy và đem ra thực hành. Chắc chắn đời sống riêng
của chúng ta và đời sống chung của giáo xứ sẽ khả quan hơn nhiều. Và để bắt đầu,
chúng ta hãy sốt sắng hiệp thông với nhau trong việc tuyên xưng một đức tin,
trong việc cầu nguyện và bẻ bánh, để có thể hiệp thông trong việc chia sẻ tương
trợ nhau trong đời sống.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật II Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts 2:42-47; 1 Pet 1:3-9; Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin của các môn đệ vào Tin Mừng Phục
Sinh
Nếu
cuộc đời con người chấm dứt với cái chết, con người cứ việc ra sức ăn chơi, mua
sắm, và hưởng thụ mọi thú vui trên đời; nhưng nếu con người biết có một cuộc sống
vĩnh cửu mai sau, con người phải biết suy xét, và làm mọi cách để đạt được cuộc
sống mai sau đó. Lý do đơn giản vì đó là cuộc sống mai sau là cuộc sống hạnh
phúc và vững bền mãi mãi.
Tuần
trước chúng ta đã được chứng kiến Tin Mừng Phục Sinh qua các bài đọc. Tuần này,
các bài đọc cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của niềm tin vào sự
phục sinh. Trong bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cho chúng ta một cộng
đoàn lý tưởng, sống hạnh phúc với nhau đặt căn bản trên niềm tin của sự phục
sinh. Tác giả muốn cho chúng ta thấy niềm tin vào sự phục sinh mai sau có sức mạnh
biến đổi các cá nhân và cộng đoàn, để sống theo một lý tưởng tuyệt vời: để mọi
sự làm của chung và sống tình hiệp thông huynh đệ trọn hảo với nhau. Trong bài
đọc II, thánh Phêrô chúc tụng Thiên Chúa đã ban cho con người Đức Kitô để chịu
chết thay cho con người. Nhờ Ngài, con người sẽ không phải chết đời đời; nhưng
được hy vọng để đạt tới cuộc sống muôn đời. Để đạt được ơn cứu độ, đức tin con
người cần được tinh luyện bằng những thử thách; nhưng đức tin sau khi được tinh
luyện sẽ đem lại cho con người thành quả tuyệt vời là ơn cứu độ. Trong Phúc Âm,
Thomas được Chúa Giêsu cho thấy bằng chứng để ông tin, nhưng Ngài cũng quở
trách Thomas, và là lời răn dạy cho những người đòi bằng chứng trước khi tin:
“Phúc cho những người không thấy mà tin.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Trình thuật ngắn gọn
của sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta cái nhìn bên trong vào cộng đoàn Kitô hữu
nguyên thủy, và hai nguyên tắc cốt yếu để xây dựng và làm cho cộng đoàn mỗi
ngày mỗi lớn mạnh lên.
1.1/ Để
thỏa mãn những nhu cầu tâm linh, họ làm ba việc:
(1)
Chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy: Cộng đoàn đầu tiên phải ý thức rất rõ lời dạy của Chúa Giêsu,
khi ma quỉ cám dỗ Ngài: “Con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi
Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Các Tông-đồ không chỉ nhớ những lời giảng dạy
của Thiên Chúa, nhưng đức tin của các ông còn được vững mạnh qua việc chứng kiến
Chúa Giêsu Phục Sinh. Nghe và thực hành những gì Chúa dạy qua các Tông-đồ sẽ
giúp xây dựng đời sống cá nhân, và như một hệ quả, cũng sẽ xây dựng đời sống cộng
đoàn.
(2)
Siêng năng tham dự Lễ Bẻ Bánh: Vì
sách Công Vụ Tông Đồ được viết rất sớm (khoảng 50 AD), nên cộng đoàn đầu tiên
phải thực hành lời Chúa Giêsu dạy trong Bữa Tiệc Ly chỉ ít năm sau khi Chúa Phục
Sinh: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.” Lễ Bẻ Bánh cung cấp sức sống
cho cá nhân, và như một hệ quả, cũng cung cấp sức sống cho cộng đoàn. Lời Chúa
và Lễ Bẻ Bánh trong cộng đoàn đầu tiên là hai yếu tố chính giúp hình thành cấu
trúc của Thánh Lễ sau này.
(3) Cầu
nguyện không ngừng: Giống
như Chúa Giêsu, cộng đoàn đầu tiên phải đương đầu với nhiều nguy hiểm từ phía
Thượng Hội Đồng, các hoàng đế Rôma, và ngay cả trong nội bộ. Họ vâng lời Chúa
Giêsu dạy bằng cách cầu nguyện không ngừng để khỏi sa vào những chước cám dỗ.
1.2/ Để
bày tỏ tình bác ái với nhau, họ cũng làm ba việc:
(1) Sống
hiệp thông với nhau: Lễ Bẻ
Bánh là căn nguyên của đời sống hiệp nhất. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho
muôn người được ăn. Khi họ ăn Mình Thánh Chúa, tất cả cùng trở nên các chi thể
của thân thể Ngài. Để giữ cho thân thể Chúa được vẹn toàn, sự hiệp nhất là điều
không thể thiếu. Hiệp nhất cần để gìn giữ cộng đoàn khỏi những chia rẽ đến từ
bên ngoài lẫn bên trong.
(2) Họ
để mọi sự làm của chung: “Họ
đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” Đây là
lý tưởng tuyệt vời và cũng là ý định của Thiên Chúa. Ngài dựng nên mọi sự cho tất
cả mọi người hưởng dùng, chứ Ngài không muốn của cải nằm trong tay một số người
trong khi những người khác phải thiếu thốn đau khổ. Cộng đoàn các Kitô hữu đã
được trang bị đức tin đầy đủ để sống theo lý tưởng này. Nếu cộng đoàn các Kitô
hữu không sống được lý tưởng này, sẽ không có một cộng đoàn hay chính thể nào
trên thế giới có thể làm chuyện đó.
(3) Họ
dùng bữa với lòng đơn sơ, vui vẻ: “Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui
vẻ.” Khó có thể xác định Lễ Bẻ Bánh và bữa ăn huynh đệ là một hay hai biến cố
khác nhau trong cộng đoàn đầu tiên; nhưng chúng ta có thể chắc chắn là họ dùng
bữa với nhau với tâm hồn đơn sơ và vui vẻ.
2/ Bài
đọc II: Người cho chúng ta
được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động.
2.1/ Sự
sống đời đời được thực hiện nhờ Đức Kitô.
(1) Đức
Kitô mang cho chúng ta niềm hy vọng là cuộc sống đời đời: Tác giả Thư Phêrô I dâng lời cảm tạ lên
Thiên Chúa: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do
lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động,
nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại.” Trước khi Đức Kitô tới, con người
không có hy vọng được hưởng cuộc sống đời đời; nhưng vì yêu thương, Chúa Cha đã
cho Con Một của Ngài chịu chết để đền tội cho nhân loại. Nhờ cái chết và sự phục
sinh, Ngài mang lại cuộc sống đời đời cho con người.
(2) Đặc
điểm của gia tài của Đức Kitô: Tác
giả nói cho chúng ta một số những chi tiết quan trọng về kho tàng là cuộc sống
đời đời:
+
Không thể hư hại: Những gì thuộc về trái đất sẽ bị hư hại và hủy diệt; những gì
thuộc thượng giới sẽ tồn tại muôn đời.
+
Không thể vẩn đục: Cuộc sống nơi trái đất có nhiều ô nhiễm, bệnh tật; cuộc sống
trên thượng giới giải phóng con người khỏi mọi ô nhiễm của đời này.
+
Không thể tàn phai: Những gì là vật chất sẽ có ngày phai tàn; những gì thuộc
thượng giới sẽ vĩnh viễn mãi mãi.
+ Được
lãnh nhận trong Ngày sau hết: Con người chỉ có được kho tàng này sau khi chết.
2.2/ Phải
trung thành trong mọi thử thách mới hy vọng đạt sự sống đời đời: Tác giả liệt kê một điều kiện cần thiết
để đạt được kho tàng: Phải trung thành giữ vững đức tin vào Đức Kitô. Theo Tin
Mừng, con người cần tin vào Đức Kitô; nhưng đức tin này sẽ bị thử thách vì những
giá trị hào nhoáng của thế gian và của ma quỉ. Khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức
tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang,
danh dự cho người tin. Một điều khó cho con người là họ phải tin và yêu Đức
Kitô dù chưa thấy mặt Ngài; nhưng chính vì điều này, con người sẽ lãnh nhận phần
thưởng của mình. Tác giả viết: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy
chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm
vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu
độ con người.”
3/
Phúc Âm: "Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con!"
3.1/
Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.
(1)
Bình an của Chúa Giêsu: Sự
lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng của các
tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất
trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người
Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần
điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! Nói
xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa.”
Bình
an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ
còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy
ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn
nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các
ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện
thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong
tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được
biểu lộ qua Đức Kitô.
(2) Lệnh
được sai đi: Khi Đức Kitô
chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự;
nên Người lại nói với các ông: “"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."” Sự bình an các tông đồ
có được, không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện
và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự
bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng.
Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho
sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào
Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới
và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm
nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.
3.2/
Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.
(1) Sự
cứng lòng của Thomas: “Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus, không ở với các
ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy
Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi
chẳng có tin." Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng
cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy
mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự
thật.
(2)
Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: "Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt trong
nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng
giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas:
"Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
Ông
Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức
Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. " Lời thưa của Thomas không
đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô
là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con
người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những
cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con
người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh
Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2
chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự
phục sinh của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức
tin giúp biến đổi mỗi cá nhân và cộng đoàn. Để có thể trở thành một cộng đoàn
lý tưởng, mọi thành phần đều phải không ngừng thăng tiến niềm tin.
-
Gian nan thử thách không thể thiếu để tôi luyện đức tin. Vì thế, chúng ta đừng
sợ phải đương đầu với chúng, nhưng hãy khôn ngoan dùng sức mạnh của niềm tin để
vượt thắng chúng.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
27/04/14 CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – A
Kính lòng Chúa thương xót
Ga 20,19-31
Kính lòng Chúa thương xót
Ga 20,19-31
VÌ TIN NÊN THẤY
Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người :”Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con !” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay
những người không thấy mà tin !” (Ga 20,27-29)
Suy niệm: Ta hay nói: cứng lòng tin như
Tô-ma. Thật là oan cho ông Tô-ma! Ta không nên trách ông cứng tin, trái lại,
phải cám ơn ông, vì nhờ ông mà ta hiểu rằng tin vào Đức Ki-tô phục sinh không
phải là điều dễ dàng chút nào. Ít ra cũng có người tỉnh táo như ông: đòi phải
thấy tận mắt, sờ tận tay các vết thương của Đức Giê-su thì mới tin. Nhờ đó, ta
thấy niềm tin vào sự kiện Chúa phục sinh là có cơ sở, đáng tin cậy bởi vì chính
cá nhân ông đã kiểm chứng. Thế mà niềm tin của ta lại dựa vào những chứng nhân
như ông.
Mời Bạn: Củng cố lại niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh,
điều quan trọng nhất đối với Ki-tô hữu. Tô-ma đòi thấy mới tin, còn bạn, vì tin
nên thấy: nhờ tin Đức Giê-su phục sinh bạn có thể thấy Người đang sống giữa
nhân loại, đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, đang hiện thân nơi những
người anh em, chị em chung quanh.
Sống Lời Chúa: 1/ Ý thức Chúa Ki-tô phục sinh đang hiện diện
đây, xin Ngài giúp bạn sống Tin Mừng Phục sinh trong đời thường của mình. 2/
Làm việc bác ái cho những người sống bên cạnh bạn để loan báo Tin Mừng Phục
sinh.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giê-su, Chúa nói với chúng con: “Phúc thay những ai không thấy mà tin”.
Xin cho chúng con tin, dù không thấy Chúa, và vì tin, nên nhìn thấy Chúa đang
hiện diện, đang thi ân giáng phúc cho chúng con. Amen.
HÃY
NHÌN XEM
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi
cái thấy. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn
được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Suy niệm:
Thân xác chúng ta thường
mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy
trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả
một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là
chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp,
nhưng không làm đau như xưa.
Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện
ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài
nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết
sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một
điều quan trọng:
Thầy chính là Ðấng đã bị
đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã
thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy
Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các
môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với
Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm
buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì
cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi
ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và
cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng
với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi
những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự
với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp
cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin
Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương
tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người
khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm
các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa
lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu
những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá
thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống
và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống
để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ
đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi
quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm
mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng
cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của
lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều
ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các
vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa,
là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một
bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc
thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy
Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi
tin.
Có khi phải tập nhìn lại
những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế
giới,
để rồi tin rằng Chúa phục
sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp
váp, thất bại và khổ đau.
“Phúc cho những ai không
thấy mà tin”,
và phúc cho những ai biết
thấy nên tin.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống
khổ,
xin cho con đừng bao giờ
khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những
người quanh con,
những người -cũng như con-
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu
thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết
mở ra và cho đi.
khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận
khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong
khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối
cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn
đời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG TƯ
Mục Tử Tốt Lành Hy Sinh Mạng Sống Vì Đàn Chiên
“Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10,11). Hình ảnh
người Mục Tử Tốt Lành được nối kết với Mùa Vượt Qua. Trong ánh sáng của Cuộc Khổ
Nạn của Đức Kitô, Giáo Hội đọc lại một lần nữa về Đức Giêsu trong tư cách là
người Mục Tử Tốt Lành – truyền thống này đã có trong Giáo Hội qua bao thế kỷ.
“Người mục tử tốt lành thí mạng mình vì đàn
chiên” (c.11). Đấy là ý tưởng nòng cốt của dụ ngôn về Người Mục Tử Tốt Lành. Ý
tưởng ấy giờ đây đã được hiện thực hoàn toàn qua hiến tế của Đức Kitô trên Thập
Giá. Người đã trao hiến mạng sống Người như hy lễ thay cho con người. Đó là lý
do tại sao Người là Mục Tử Tốt Lành.
Những hình ảnh nguyên sơ nhất trong các hang
toại đạo cho chúng ta thấy các Kitôhữu sơ khai trân trọng sự thật về Người Mục
Tử Tốt Lành biết bao. Sự thật này bắt nguồn từ Cựu Ước. Chẳng hạn, ta đọc thấy
trong Thánh Vịnh 100: “Đức Chúa là Thượng Đế; Ngài đã dựng nên ta, ta thuộc về
Ngài; ta là dân của Ngài, là đàn chiên do Ngài dẫn dắt” (c.3).
Đối với dân Chúa trong Cựu Ước, hình ảnh người
mục tử biết và săn sóc các con chiên của mình là một hình ảnh rất quen thuộc
ngay từ đầu lịch sử của họ. Và tất cả những gì xảy ra giữa người mục tử và đàn
chiên đã trở thành một hình ảnh, một ẩn dụ về mối quan hệ giữa It-ra-en và
Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
NGÀY
27-4
CHÚA
NHẬT II PHỤC SINH
(Lòng
thương xót của Thiên Chúa)
CUỐI
TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv
2, 42-47; 1Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31.
LỜI
SUY NIỆM: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em
tha tội cho ai. Thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị
cầm giữ.”
Chúa
Giêsu trao quyền tha tội cho các Tông Đồ, Chúa bảo là phải nhận lấy Thánh Thần:
“ Trên thực tế, Thánh Thần hằng hiện diện trong Giáo Hội, Người giống như “Linh
hồn” của Thân mình của Chúa Giêsu Kitô luôn sống động, Là “Nước”, Người khiến
cho các hạt giống của “Lời” nẩy nụ đơm hoa, là “Gió”, Người thổi tràn sinh khí
vào những nổ lực tông đồ, là “Lửa”, Người tinh luyện những gì bất toàn, dẫn đường
và soi lối” (TKH của Felipe Gômez Ngô Minh S.J.). Có như vậy tội nhân sau khi
lãnh nhận sự tha tội mới được tốt hơn.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa, Chúa đã
trao quyền tha tội cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài để tội lỗi của
chúng con được tha. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn
biết nhận tội, sám hối, dóc lòng chừa và đến với tòa giải tội để làm mới mình lại.
Mạnh Phương
27 Tháng Tư
Kẻ
Không Biết Sám Hối
Ngày 03/4/1990, người tử tù Robert Alton
Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà tù San Quentin thuộc tiểu
bang California bên Hoa Kỳ. Ðây là lần đầu tiên kể từ 23 năm nay, tiểu bang
California tái lập bản án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau khi tối cao
pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang California là một
trong năm tiểu bang tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình. Người ta tính có khoảng
2,200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên ghế điện hoặc vào phòng
hơi ngạt.
Robert Harris là một kẻ giết người không biết
gớm tay. Ngày 05/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm vì đã đánh đập một người
đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến cướp một nhà băng tại
San Diego. Ðể có phương tiện di chuyển, Harris đã chiếm chiếc xe của hai người
thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho hai người thanh niên lái
xe đến một nơi vắng vẻ và tại đây, anh đã rút súng sát hại họ một cách dã man.
Sau khi đã hạ sát hai người thanh niên, Harris vẫn còn đủ ung dung và bình tĩnh
để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn dở... Bị bắt giữ sau đó,
Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn sám hối...
Theo thủ tục hiện hành của Hoa Kỳ, từ lúc
tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường được bảy năm để kháng
cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất cứ một dấu hiệu nào
của sợ sệt hoặc hối cải... Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi ngạt Cyanide. Chỉ
trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng đúng cái chết mà dường như anh đã tự
chọn và chuẩn bị cho mình.
Công lý và luật pháp của con người được xây dựng
trên nguyên tắc: mắt đền mắt răng thế răng, hoặc tôi cho anh để tôi cho lại...
Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tùy theo tội ác của người
đó đã gây ra... Thiên Chúa dường như chỉ có một công lý: đó là công lý của Tình
Thương. Thước đo duy nhất của Công Lý nơi Thiên Chúa chính là Tình Thương vô bờ
bến. Nói như thánh Phaolô, nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng
thi ân. Tội lỗi của con người, dù tày đình đến đâu, cũng không thể ngăn cản được
Tình Thương, sự Tha Thứ của Thiên Chúa.
Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta mỗi khi
chúng ta nhìn thấy tội lỗi và suy niệm về Tình Yêu của Thiên Chúa. Nếu có ai chết
đời đời trong hỏa ngục, điều đó không phải do sự Công Thẳng của Thiên Chúa, cho
bằng chính sự Khước Từ của con người. Khi con người không còn tin ở Tình Yêu của
Thiên Chúa, khi con người tự chọn cho mình cái chết, đó chính là lúc con người
tự chuẩn bị cho mình sự trầm luân. Hỏa ngục đồng nghĩa với quay mặt, với khước
từ, với thất vọng... Chúng ta nhìn đến thân phận tội lỗi của mình không phải để
thất vọng về sự yếu hèn của chúng ta, mà chính là để ngước nhìn lên ánh mắt từ
nhân vô biên của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét