Trang

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2014

26-05-2014 ; THỨ HAI TUẦN VI MÙA PHỤC SINH

26/05/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật VI Phục Sinh



Bài Ðọc I: Cv 16, 11-15
"Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe những lời Phaolô giảng dạy".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Chúng tôi xuống tàu tại Trôa và đi thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ đó đi Philippê là thành thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi lưu lại thành này một ít ngày. Ðến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành đến bờ sông, chỗ người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng cho những phụ nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm, quê ở Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia đình, bà nài xin rằng: "Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa, thì xin đến ngụ tại nhà tôi". Bà nài ép chúng tôi.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Ga 14, 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 15, 26-16, 4
"Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðấng An Ủi Ðến

Anh chị em thân mến!
Trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến việc Chúa Giêsu sắp từ giã thế gian để về cùng Cha. Vì thế, các môn đệ lo lắng sẽ không biết theo hướng nào một khi không còn Thầy bên cạnh mình. Ðứng trước sự lo lắng ấy, Chúa Giêsu đã gởi Ðấng Phù Trợ đến, nhưng công việc của Ðấng Phù Trợ cũng không gì khác ngoài việc làm chứng về Ðức Giêsu, để rồi một khi lòng tin vào Ðức Giêsu được vững mạnh, các tông đồ sẽ là nhân chứng về Thầy.
Họ phải làm chứng không chỉ về hành động và cuộc đời của Ðức Kitô, nhưng luôn cả ý nghĩa các việc làm của Ngài. Ðấng Phù Trợ là Thần Chân Lý từ Cha đến sẽ cho họ thấy công việc phải làm và con đường phải đi, và chắc chắn các tông đồ sẽ không tránh khỏi sự bách hại.
Người ta đã hành hạ họ một cách không thương tiếc vì tưởng rằng làm như thế là đẹp lòng Thiên Chúa. Như Saolô đã hăng hái xin phép lên đường để bắt bớ giết các Kitô hữu. Chúa Giêsu biết trước điều này, Ngài không ra tay ngăn cản mà chỉ tiên báo cho các tông đồ vì đã có Ðấng Phù Trợ ở với họ và sự bách hại sẽ là lời chứng hùng hồn nhất.
Trong bách hại, người môn đệ sẽ tỏ lộ lòng trung thành hoàn toàn đối với Thầy. Nhờ bách hại, họ sẽ trở nên giống Thầy, Ðấng đã chịu bắt bớ và bị giết chết trên Thập Giá. Qua thái độ người môn đệ đón nhận sự bách hại, thế gian sẽ nhận ra vẫn còn một nguồn hạnh phúc khác giá trị hơn những gì đang có trước mắt nhiều, và bách hại thể hiện một đường lối chiến đấu khác, đó là tình yêu thắng vượt hận thù. Người bách hại tưởng là họ chiến thắng chứ thật ra không phải vậy. Giọt máu của người bị bách hại dù có đổ ra một cách âm thầm nó sẽ chẳng bao giờ bị quên lãng nơi chính người bách hại hoặc trong lịch sử.
Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài không cất đi vai trò chứng nhân của các tông đồ. Bởi thế, khi tiên báo sự bách hại, Chúa Giêsu muốn các ông sống trọn vẹn vai trò làm chứng nhân của mình, và Chúa Thánh Thần, Ðấng phù trợ sẽ đến giúp các ông: "Thánh Thần của Cha sẽ nói với các ông".
Kitô hữu, người môn đệ của Chúa Giêsu ngày nay cũng nhận sứ mạng làm chứng về Thầy. Họ đã được trao ban Thánh Thần để hiểu biết về sự thật. Có thể con đường trước mắt nhiều chông gai, thử thách và còn nhiều con đường khác dễ dàng thoải mái đang mời gọi họ. Tất cả các con đường sẽ dẫn đến đâu? Chưa một ai có kinh nghiệm, nhưng tin nhận vào con người Ðức Giêsu và nhất là được Thánh Thần Chân Lý làm chứng, họ sẵn sàng bước theo Ngài, chấp nhận con đường chông gai của Ngài.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng ngày sống của mỗi người trong chúng ta sẽ là một diễn tả của lời chứng về Ðức Giêsu. Dù cho ngày sống có thêu dệt bằng những an hòa tươi đẹp thì cũng không thể nào tránh được những chông gai nhọc nhằn, nhưng nếu biết lợi dụng thì đó là những cơ hội để chúng ta làm chứng về tình yêu đối với Ngài.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 16:11-15; Jn 15:25-16:4.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang và đau khổ cần thiết cho cuộc đời.
Cuộc đời của con người có khi bình an có khi sóng gió; khi thành công khi thất bại; khi vui cũng như lúc buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc đói nghèo... Hai thái cực này cần thiết để giữ thăng bằng cho cuộc sống: khi vui không vui quá, tới độ quên Thiên Chúa và bổn phận phải chu toàn; khi buồn không buồn quá, tới độ mất niềm tin vào Thiên Chúa và tiêu hủy cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai mặt của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, Phaolô hưởng được sự thành công khi rao giảng Tin Mừng tại Philippi: một phụ nữ tên Lydia và gia đình của Bà chịu Phép Rửa khi nghe Phaolô giảng. Bà mời Phaolô và các bạn đồng hành dùng nhà Bà làm nơi để sinh sống và rao giảng Tin Mừng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị bắt bớ, đánh đòn và trục xuất khỏi hội đường khi rao giảng Tin Mừng; nhưng Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gởi đến, sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và làm chứng cho Chúa Giêsu.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô chinh phục một phụ nữ Âu-châu đầu tiên về cho Thiên Chúa.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô và các bạn đồng hành cũng gặp nhiều thành công và nhiều thất bại: khi thì người nghe nhận ra sự thật và chịu Phép Rửa như người phụ nữ và gia đình của Bà hôm nay; khi thì bị người ta đổ vạ cáo gian để đánh đòn, giam cầm, và trục xuất khỏi thành phố như trình thuật ngày mai. Trong mọi hoàn cảnh, Phaolô vẫn kiên trì rao giảng Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, và vui lòng chịu đựng mọi gian khổ vì Danh Chúa.
1.1/ Phaolô rao giảng Tin Mừng tại Philippi: Trong cuộc hành trình lần thứ hai, Phaolô được Thánh Thần hướng dẫn trong một thị kiến, để ra khỏi ranh giới của Asia Minor và tiến vào vùng đất của Âu-châu, bắt đầu với Macedonia, như ông tường thuật hôm nay: "Xuống tàu ở Troas, chúng tôi đi thẳng đến đảo Samothrace, rồi hôm sau đến Neapolis. Từ đó chúng tôi đi Philippi là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Macedonia, và là thuộc địa Rôma. Chúng tôi ở lại thành đó mấy ngày."
1.2/ Gia đình Bà Lydia chịu Phép Rửa: Theo truyền thống Do-thái, chỗ nào không có hội đường, họ thường tập họp ở bờ sông để cầu nguyện và đọc Sách Thánh. Có lẽ, vì không có hội đường ở Philippi, nên Phaolô kể: "Ngày Sabbath, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó." Chúng ta có thể học kinh nghiệm của Phaolô. Giống như Chúa Giêsu, ông lợi dụng mọi cơ hội để rao giảng Tin Mừng: trong hội đường cũng như ở các nơi hội họp; cho đàn ông cũng như cho đàn bà; cho giới thượng lưu cũng như cho người nghèo khổ.
Trong giới phụ nữ có một bà tên là Lydia, quê ở Thyatira, là người chuyên buôn bán vải điều. Đây là một loại vải đắt tiền và kiếm được nhiều lợi nhuận. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi nghe Phaolô rao giảng Tin Mừng, bà và cả nhà đã xin chịu Phép Rửa. Có lẽ là người có nhà cửa rộng rãi, nên Bà ngỏ lời với các sứ giả: "Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi." Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.
Thiên Chúa luôn thúc đẩy và khuyến khích những tâm hồn thiện chí và có phương tiện, để họ mở rộng tâm hồn đón tiếp các sứ giả trong cuộc lữ hành loan báo Tin Mừng. Chúng ta phải noi gương Bà Lydia để đón tiếp các nhà truyền giáo, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, để giúp họ có sức khỏe và phương tiện mang Lời Chúa đến cho mọi người. Khi mở lòng đón tiếp họ, chúng ta đón tiếp chính Chúa; và chúng ta cũng sẽ được phần thưởng của các tiên tri như Chúa đã hứa.
2/ Phúc Âm: Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường.
2.1/ Những chứng nhân của Đức Kitô:
(1) Thánh Thần: "Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." Con người không thể hiểu mặc khải của Chúa Giêsu, nếu không có Thánh Thần tác động từ bên trong. Ngài soi lòng mở trí để các tín hữu nhận ra sự thật và tin vào Đức Kitô.
(2) Các môn đệ: "Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu." Để có thể làm chứng, các môn đệ cần có ba điều kiện: Thứ nhất, kinh nghiệm cá nhân sống với Chúa Giêsu; thứ hai, các ông cần xác tín Ngài là Đấng Thiên Sai, những gì Ngài đã nói và đã làm; sau cùng, các ông phải làm chứng cho Ngài khi cơ hội tới. Nếu thiếu một trong 3 điều kiện này, các ông không thể làm chứng cho Ngài.
2.2/ Người rao giảng Tin Mừng sẽ bị truy tố.
(1) Chúa Giêsu không dấu diếm điều gì với những người muốn theo Chúa, Ngài báo trước những gì các môn đệ sẽ phải chịu vì Danh Ngài và vì rao giảng Tin Mừng. Có hai lý do khiến Chúa chuẩn bị cho các ông: Thứ nhất, "Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã."
Nhiều người Công-giáo nghĩ rằng, một khi họ theo đạo là cuộc đời sẽ bình an vì được Chúa và Mẹ chúc lành và bảo vệ; nhưng họ có biết đâu rằng: bắt đầu cuộc sống môn đệ là bắt đầu cuộc sống từ bỏ ý riêng mình và vác thập giá với Chúa. Hơn nữa, đức tin cần được thử thách trong gian khổ như lửa thử vàng, thì mới biết đức tin nào thật và vững chắc. Thứ hai, để các ông nhớ lại những gì Ngài nói khi các ông bị truy tố và tìm được bình an: "Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi." Con người có thể ngạc nhiên khi không ai báo trước cho mình biết đau khổ sẽ xảy ra; nhưng nếu Chúa Giêsu đã báo trước, và Ngài cũng đã đi qua con đường này, người môn đệ sẽ chuẩn bị và biết bình tĩnh đối phó khi điều ấy xảy đến.
(2) Lý do bị truy tố: Thứ nhất, những Thủ Lãnh Do-thái trong Thượng Hội Đồng kết án và đóng đinh Chúa Giêsu, vì họ tưởng rằng làm như thế là làm vinh quang Thiên Chúa. Một ví dụ khác là trường hợp của ông Saul bắt đạo trước khi trở lại. Ông là người nhiệt thành gìn giữ Lề Luật của tổ tiên, nên ông không muốn các Kitô hữu vi phạm truyền thống này. Thứ hai, "Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy." Điều này hiển nhiên, vì nếu các Thủ Lãnh biết chắc Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, họ đã không luận tội và kết án Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của cuộc sống. Giống như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trải qua đau khổ trước khi đạt đến vinh quang.
- Chúng ta cần giữ thái độ bình tĩnh và bình an khi đạt được thành công cũng như khi phải đương đầu với đau khổ; vì tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Chúng ta đều có bổn phận trong việc rao truyền và làm chứng cho Tin Mừng. Nếu chúng ta không có hoàn cảnh làm những điều này, chúng ta phải giúp đỡ và tạo cơ hội cho các nhà truyền giáo để họ chu toàn bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM  TUẦN 6 PHỤC SINH
Ga 15,26--16,4

A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 13 : Về Chúa Thánh Thần
Do thái giáo coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các kitô hữu là những người phản bội Do thái giáo. Do đó họ giết Chúa Giêsu bắt bớ các kitô hữu. Chúa Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết : "Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa"
Nhưng đồng thời Chúa Giêsu trấn an họ : Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến.
- Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ : Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ
- Ngài là Thần chân lý : Ngài sẽ soi sáng giúp các môn đệ vạch cho những người do thái biết Chúa Giêsu là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.

B.... nẩy mầm.
1. "Đấng phù trợ" là dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều : đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời cho khéo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với các quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.
Thánh Kinh dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt khỏi khung cảnh tòa án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien là Parakletos của Bà Susanna khi bà bị 2 ông già dê âm mưu kết án oan ; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.
Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ.  Thế gian sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh, để :
- hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn
- an ủi họ trong những lúc thua buồn
- che chở họ trong những khi nguy hiểm
- vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ
- dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ
- đích thân bênh vực họ.
Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đối với các tông đồ khi các ngài sống và hoạt động giữa thế gian.
Bài Tin Mừng này nhắc cho chúng ta nhớ đến một Đấng Parakletos mà chúng ta vẫn hằng có sát bên cạnh mình thế mà chúng ta thường quên, đó là Chúa Thánh Thần. Chúng ta quên Ngài đến nỗi nhiều khi chúng ta đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần mà vẫn không nghĩ tới Ngài. Và bởi vì quên Ngài, không nghĩ tới Ngài nên chúng ta thường bị rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn chán, lo âu, sợ sệt, ngã lòng...
2. "Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu"
Sau những năm làm đầy tớ cho một gia đình quí tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, lang thang. Nàng được một gia đình Do thái thuê về chăm sóc cho mấy đứa con nhỏ của họ. Nhưng ngay hôm đầu tiên, khi biết nàng là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là "nàng không được giảng đạo" cho con cái ông. Nàng nhận lời và bắt đầu công việc của mình bằng hết khả năng. Có điều trên cổ nàng luôn đeo một chiếc huy chương của cha nàng để lại, bên trong có nhét một mảnh giấy nhỏ, mà nàng nhất định không cho ai coi. rồi đến khi lũ trẻ lâm bệnh, nàng ra sức chăm sóc, phục vụ. Lúc  chúng được lành bệnh thì cũng là lúc nàng ngã bệnh và từ trần. Giờ đây người ta có thể đọc được mảnh giấy nhỏ trong tấm huy chương : "Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mắt họ như một chứng từ hùng hồn nhất". Bàng hoàng rồi cảm phục, gia đình người chủ Do thái xin nhận bí tích thánh tẩy.
Lạy Chúa,  xin giúp sức cho con can đảm sống đạo trước mặt mọi người  như một chứng từ hùng hồn. (Epphata)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

26/05/14 THỨ HAI TUẦN 6 PS 
Th. Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục
Ga 15,26-16,4a

Suy niệm: Nguồn gốc của Đấng Bảo Trợ là từ nơi Chúa Cha. Ngài là Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Khí sự thật, có sứ mạng đến làm chứng sự thật về Đức Giê-su. Sự thật đó là Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhờ Ngài, trong Ngài mà mọi người được lãnh ơn giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Thần sẽ soi sáng cho mọi người hiểu rõ Kinh Thánh, nhờ đó nhận ra Đức Giê-su và vai trò của Người. Sứ mạng làm chứng được Chúa Thánh Thần chu toàn qua môi miệng của các Ki-tô hữu và qua đời sống chứng tá của họ, như trường hợp của thánh Tê-pha-nô. Các tông đồ làm chứng theo lệnh truyền của Đức Giê-su, với quyền lực của Chúa Thánh Thần : “Thánh Thần và các ngài làm chứng” (Cv 5,32).
Mời Bạn: Thật khó làm chứng cho sự thật như Đức Giê-su đòi hỏi khi chúng ta đang sống giữa môi trường đề cao thứ luân lý đám đông. Điều dễ xảy đến: hoặc chúng ta không dám làm chứng cho sự thật, hoặc chúng ta bóp méo sự thật cho phù hợp ý thích của đám đông. Những lúc ấy bạn có nhớ đến vai trò làm chứng của Chúa Thánh Thần không?
Chia sẻ: Cách nào bạn thường dùng để cộng tác với Chúa Thánh Thần mỗi khi cần can đảm làm chứng cho Chúa ?
Sống Lời Chúa: Luôn thành thật trong lời nói và trong cách giao tiếp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, sự thinh lặng đáng sợ của chúng con, trước bất công, xảo trá là một tội ác. Xin Chúa cho chúng con có can đảm làm chứng nhân cho Sự Thật.

Làm chứng về Thầy (26.5.2014 – Thứ hai Tuần 6 Mùa Phục sinh)


Suy nim:
Chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần 
trước một cuộc tĩnh tâm, một hội nghị hay một cuộc gặp gỡ tìm ý Chúa.
Thánh Thần cho ta ánh sáng để quyết định.
Nhưng Thánh Thần cũng là Đấng ban sức mạnh đỡ nâng,
nhất là lúc Giáo Hội gặp gian nan thử thách.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của sự bách hại.
Các môn đệ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ (Ga 15, 18-20).
Hơn nữa, họ còn bị trục xuất khỏi hội đường và bị giết (Ga 16, 2).
Sau khi Đức Giêsu về trời, ai sẽ là người đứng ra bảo trợ họ?
Ai sẽ là người giúp họ can đảm để làm chứng cho Đấng phục sinh?
Đức Giêsu trả lời: chính Thánh Thần, Đấng mà Ngài sai đến từ nơi Cha.
Thánh Thần từ từ tỏ mình ra như một Đấng, một ngôi vị có thực,
đang hiện diện trong lòng từng Kitô hữu và trong cộng đoàn.
Thánh Thần là Đấng ở với anh em,
ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14, 16-17).
Như thế Đức Giêsu thực sự chẳng lìa xa chúng ta.
Ngài vẫn hiện diện liên tục bên chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài sai đến.
Giáo Hội sơ khai đã có kinh nghiệm sâu xa về Đấng Bảo trợ này,
đặc biệt trong giai đoạn bị bách hại.
Stêphanô là người đầy Thánh Thần (Cv 6, 5).
Khi ông tranh luận với những người Do thái cứng lòng,
Thánh Thần đã ban cho ông lời lẽ khôn ngoan không ai địch nổi (Cv 6, 10).
Trong Thánh Thần, ông đã làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh,
Đấng đang đứng bên hữu Thiên Chúa (Cv 7, 55-56).
Chính lời chứng này đã đưa ông đến cái chết tử đạo đầu tiên.
Cái chết của Stêphanô nhắc ta nhớ lời hứa của Đức Giêsu.
Giờ bị thẩm tra là giờ thánh, giờ làm việc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi đứng trước các nhà lãnh đạo, Đức Giêsu khuyên ta đừng lo phải nói gì,
“vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết điều phải nói” (Lc 12,12),
đến nỗi “không phải chính anh em nói,
mà là Thần khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 20).
Cái chết của bất kỳ vị tử đạo nào cũng là một sự kết hợp diệu kỳ
giữa lời chứng bằng máu của họ với lời chứng của Thánh Thần ở trong họ.
“Người sẽ làm chứng về Thầy, anh em cũng làm chứng
vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
Chẳng bao giờ các Kitô hữu hết gặp khó khăn khi còn sống ở đời này, 
hết phải làm chứng cho Đức Giêsu trước một thế giới thù nghịch.
Chẳng phải bách hại chỉ có dưới thời các vua triều Nguyễn.
Cuộc sống tiện nghi, dễ chịu thời nay cũng là một thứ bách hại nhẹ nhàng,
khiến nhiều Kitô hữu bị vướng vào và dễ dàng bước qua thập giá.
Xin Thánh Thần thêm sức cho ta khi ta phải lội ngược dòng.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
xin ban cho con
một thời để yêu và một thời để sống;
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống
con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu,
con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng,
xin cho con biết hòa nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
(NNS)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.


Suy niệm

Làm sao để nhiều người có thể đón nhận tin mừng Phục Sinh? Trước hết Chúa Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến để tác động vào tâm hồn của mỗi người, để mỗi người tin rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại để cứu độ con người chúng ta: “Khi Đấng Bảo Trợ đến… Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga15,26).

Nhưng điều quan trọng hơn để nhiều người có thể đón nhận tin mừng Phục Sinh là: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” Như vậy, môn đệ của Đức Kitô được thông phần vào hoạt động của Chúa Thánh Thần là trở thành chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh.

Muốn làm chứng cho Đức Kitô, các môn đệ của Ngài phải có 3 yếu tố sau đây:

1.  Trước hết, họ phải là những người “Ở với Đức Kitô”. Đây là một trong hai tiêu chuẩn để các Tông Đồ chọn người bổ sung vào nhóm 12 thay thế cho Giuđa. Đây cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất để chúng ta có thể làm chứng về Đức Kitô. Quả thật nếu không “ở với Đức Kitô”, nghĩa là không có sự hiệp thông với Ngài thì người môn đệ không biết gì về Ngài. Mà nếu không biết gì về Đức Kitô thì làm sao có thể làm chứng? Chứng nhân là người xác nhận: “Điều này đúng, tôi biết chắc như vậy!

2.  Kế đến, người ta đòi hỏi nơi người làm chứng phải có niềm tin. Nếu chúng ta biết một người, nhưng chúng ta không tin tưởng người đó thì chắc chắn chúng ta cũng không muốn cho nhiều người biết đến người đó, vì người đó không có gì hấp dẫn. Người môn đệ phải có niềm tin vào Đức Kitô, rằng Ngài sẽ đem đến cho họ hạnh phúc, thì mới có thể làm chứng cho Ngài được.


3.  Sau cùng, lời chứng đó phải được bày tỏ ra. Niềm vui, hạnh phúc không thể chất chứa trong lòng, mà còn phải muốn cho nhiều người cũng được niềm vui, hạnh phúc đó. Vì vậy người ta đòi hỏi nơi chứng nhân khả năng để có thể bày tỏ ra bên ngoài điều mình xác tín.

Làm chứng cho Chúa Giêsu là đặc ân và bổn phận của mỗi Kitô hữu. Tuy nhiên để có thể trở thành chứng nhân, chúng ta phải có kinh nghiệm về Chúa, nghĩa là phải “ở với Chúa”. Vì vậy Kitô hữu phải có những giây phút cầu nguyện riêng tư với Chúa; phải biết đọc, học hỏi và suy niệm lời Chúa; phải có sự hiệp thông với Chúa trong bí tích Thánh Thể… Có biết Chúa, có gặp Chúa, có ở với Chúa chúng ta mới có thể làm chứng về Chúa.

Kế đến, sự hiệp thông của chúng ta với Chúa phải xuất phát từ niềm tin. Vì nếu không có sự tin tưởng vào Chúa thì việc gặp gỡ của chúng ta với Chúa chỉ đơn giản là xã giao bình thường, hoặc nhiều khi còn là cuộc đối đầu với kẻ thù.

Sau cùng, chúng ta phải nói lên, phải thể hiện ra bên ngoài hạnh phúc được biết Chúa, được sống trong Giáo hội Chúa, được làm con Chúa.

Lạy Chúa, sứ mạng của chúng con là làm chứng nhân cho Chúa. Khi chúng con làm chứng cho Chúa, chúng con được làm việc cùng với Chúa Thánh Thần, vì Chúa thánh Thần cũng sẽ làm cho nhiều người biết Chúa. Xin cho chúng con ý thức sứ mạng cao cả, thần thiêng của mình để chúng con tìm nhiều thời gian hơn gặp gỡ Chúa; tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa ban; và mạnh dạn thông truyền niềm vui đó cho mọi người xung quanh.  

Lm. Thiện Duy

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG NĂM
Tin Mừng Cho Mọi Người
Bạn là tín hữu? Bạn hãy sống đức tin của mình và hãy chuyển trao đức tin cho con em mình. Hãy nêu chứng tá đức tin bằng chính cuộc sống. Bạn hãy yêu mến Giáo Hội như một hiền mẫu. Hãy sống trong Giáo Hội và vì Giáo Hội. Hãy dành chỗ cho mọi người trong trái tim bạn. Hãy thứ tha nhau và hãy gieo rắc hòa bình bất cứ nơi nào bạn có mặt.
Bạn không phải là tín hữu? Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, vì Ngài đang kiếm tìm bạn đó!
Bạn đang gặp đau khổ? Hãy vững lòng. Vì Đức Kitô đã từng nếm cảm niềm đau; Người sẽ ban cho bạn sức mạnh để đương đầu với nỗi ê chề của bạn.
Bạn là người trẻ? Hãy làm một cuộc đầu tư tốt nhất cho cuộc đời mình, vì cuộc đời bạn là một kho tàng hết sức quí giá.
Và với tất cả mọi người, tôi sẽ nguyện chúc: Xin ân sủng Thiên Chúa đồng hành với các bạn trong mỗi phút giây của cuộc sống thường ngày.
Và xin đừng quên: Hãy ân cần đón nhận các trẻ thơ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của các em. Ước gì lời chào tốt lành từ ban sơ dành cho các em sẽ mở ra cho các em một cuộc sống tràn đầy ân phúc – đó là niềm mong mỏi của bạn, của tôi, và là niềm mong mỏi của toàn thể Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 26-5
THÁNH PHILIPPHÊ NÊRI, LINH MỤC
Cv 16, 11-15; Ga 15, 26-16, 4a.

LỜI SUY NIỆM“Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha. Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy.”
Chúa Giêsu giới thiệu Đấng Bảo Trợ với các Tông Đồ cũng là Chúa Thánh Thần mà Kitô hữu tuyên xưng trong kinh tin kính ngày hôm nay là một Ngôi Vị; Như trong sách thần học về Chúa Thánh Thần (thần học tín lý 5) cho chúng ta được biết: Đấng Bảo Trợ là một Kitô khác, là Đấng mang trong mình hết thảy mọi tác vụ giống như của Đức Kitô. Tác vụ của Chúa Thánh Thần đối với các Tông đồ là: trước hết, hiện diện với họ, và tiếp theo, là giúp họ nhớ lại những lời Chúa Giêsu, rồi hướng dẫn họ đến sự thật toàn vẹn; Còn đối với thế gian, Người sẽ lên án những sai lầm và tội lỗi của nó.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng con, Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng con trong phép Rửa tội và đặc biết trong phép Thêm sức. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con nhận được mọi ơn từ Chúa Thánh Thần.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 - 1595)

Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)


26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: "Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin".
Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét