Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

Michael Novak tưởng niệm hai Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Michael Novak tưởng niệm hai Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II

Cùng với lễ phong thánh cho Đức GH Gioan XXIII và Đức GH Gioan Phaolô II, Zenit cho đăng lại ba bài báo của Michael Novak đã được đăng trên Corriere della Sera. Novak từng hiện diện tại Khóa Họp Thứ Hai của Vatican II và là người nghiên cứu sâu rộng về cả hai vị thánh giáo hoàng.

Ở đây, Novak làm sống lại bài giảng tôn vinh Đức GH Gioan XXIII của Đức HY Leo Jozef Suenens, người Bỉ, trước mặt 2,700 giám mục tụ tập tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô dự lễ khai mạc Công Đồng Vatican II. Bài giảng này trình bày cuộc đời của Đức GH Gioan XXIII như là Cha Già của Công Đồng, và cả thế giới đều biết rõ ngài. 

--
Điều liên kết Đức GH Gioan XXIII và Đức GH Gioan Phaolô II, và làm cho lễ phong thánh chung của các ngài trong tháng này trở thành thích hợp một cách đặc biệt, chính là vai trò chung của các ngài trong việc phát động và hoàn tất Công Đồng Vatican II (1961-1965). Việc triệu tập Công Đồng này phát xuất từ chính trái tim của vị “Giáo Hoàng Nhân Hậu”. Khoảng 3 thập niên sau, việc cứu nó khỏi bị tầm thường hóa được đặt trong tay Đức Gioan Phaolô II. 

Không có Đức GH Gioan XXIII, chắc chắn không có Vatican II, không có tinh thần ngọt ngào, chừng mực và can đảm của ngài, chắc chắn không có hòa bình trong Giáo Hội để che chở nó. 

Trong các năm tháng sau Vatican II, có lẽ không vị giám mục nào trên thế giới đã sử dụng các thúc đẩy và ơn phúc của Vatican II một cách hữu hiệu bằng Đức Gioan Phaolô II của Krakow, Ba Lan. Trong tinh thần Công Đồng này, ngài đã động viên toàn bộ đất nước của ngài, cả người tin lẫn người không tin, để họ chuẩn bị sẵn sàng cho vai trò quan trọng của họ trong việc triệt hạ Bức Màn Sắt Áp Chế xuống, một bức màn từng phân rẽ nền văn minh đương đại quá lâu rồi. 

Đức Gioan Phaolô II, ngay trong cái tên của ngài, đã liên kết ngài với hai vị giáo hoàng vĩ đại của Công Đồng, tức Đức Gioan và Đức Phaolô. Mục tiêu của ngài là đẩy sức mạnh và ơn thánh của Công Đồng này vào lịch sử, để thay đổi bộ mặt thế giới, và để thâm hậu hóa đức tin, lòng can đảm và sự hiểu biết của giáo dân Công Giáo mọi vùng trên thế giới. Đức Gioan Phaolô II làm cho Công Đồng bén rễ sâu vào lịch sử, cả về thiêng liêng lẫn chính trị. 

Chính Công Đồng đã liên kết các vị, hai đấng thánh vĩ đại này. Đầu tiên, ta hãy bắt đầu với Đức Gioan XXIII. 
* * *
Đức GH Gioan XXIII sống thực trong đời mình điều được Công Đồng Vatican II cố gắng cô đọng bằng lời. Trong triều giáo hoàng 5 năm vắn vỏi của ngài, Đức GH Gioan đã làm cho việc hợp nhất Kitô Giáo rõ ràng trở thành có thể. Ngài nói với những ai tin vào Thiên Chúa và cả những ai không tin vào Thiên Chúa, và ai ai cũng hiểu cả. Đức GH Gioan là tiêu điểm của Giáo Hội Công Giáo Rôma, và qua ngài, như qua một lăng kính, việc con người đi tìm Thiên Chúa đã đụng tới và làm bùng cháy hàng triệu trái tim khắp thế giới. Trong một khoảnh khắc, như trong một nháy mắt, Đức GH Gioan đã là điều Giáo Hội muốn mình là. Ngài chỉ cho các vị giám mục khác thấy ý nghĩa thực sự của chức vụ các ngài. Ngài chỉ cho các linh mục thấy các ngài nên nói năng và được những người các ngài hy sinh cuộc đời phục vụ cho nghe ra sao. Ngài chỉ cho người ta thấy họ gần gũi xiết bao với các mục tử của họ. Đức GH Gioan quả đã sống thực Tin Mừng. Càng khó hơn khi phải viết một loạt các sắc chỉ để hướng dẫn các giám mục, các linh mục và giáo dân đang cố gắng sống các Tin Mừng này. Đối với nhiều người, Đức GH Gioan luôn nói lớn tiếng hơn Công Đồng. 

Sự hiện diện của Đức GH Gioan được các Nghị Phụ Công Đồng cảm nhận suốt khóa hai. Thí dụ, ngày 21 tháng 11, diễn giả đầu tiên lên diễn đàn, Đức Cha Jaime Flores Martin, của giáo phận Barbastro, Tây Ban Nha, đã bắt đầu đưa ra nhận định thuận lợi của ngài đối với sơ đồ hợp nhất Kitô Giáo bằng những lời sau: “Sơ đồ này dẫn ta vào nẻo đường đại kết, là nẻo đường hết sức thân thiết đối với Đức GH Gioan XXIII”. Ngày 28 tháng 10, một trong những ngày quan trọng nhất của Công Đồng, một trong những dịp hiếm hoi để Đức GH Phaolô vào phòng Công Đồng, Đức HY Suenens đã được mời lên để gợi lại kỷ niệm về Đức GH Gioan một cách hết sức minh nhiên và đầy đủ chi tiết bao nhiêu có thể, chỉ với ý muốn làm cho sự hiện hữu của Đức GH Gioan trở thành tích cực đến không quên được trong lòng Giáo Hội. Chúng tôi sẽ mô tả sau các hoàn cảnh cảm kích khiến Đức HY Suenens đọc bài diễn văn của ngài cũng như hiệu quả của bài diễn văn đối với Công Đồng. Nhưng ở đây, chúng tôi xin tường trình các lời lẽ của Đức HY Suenens để mọi người hiểu khuôn mặt Đức GH Gioan đã luôn hiện diện ra sao với các Nghị Phụ Công Đồng.

Leo lên tòa giảng của Nhà Thờ Thánh Phêrô, trước sự hiện diện của Đức GH Phaolô, các thượng phụ, các Hồng Y, các tổng giám mục và các giám mục thế giới, cũng như hàng mấy trăm giáo dân, Đức Hồng Y đã giảng bài giảng sau: 


Khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Gioan XXIII được người ta coi là “một giáo hoàng chuyển tiếp”. Mà ngài là người chuyển tiếp thật, nhưng không phải theo lối mong chờ hay theo lối thông thường của từ ngữ. Lịch sử chắc chắn sẽ phán kết rằng ngài khai mở một thời đại mới cho Giáo Hội và ngài đặt để nền tảng cho một cuộc chuyển tiếp từ thế kỷ 20 qua thế kỷ 21. 

Nhưng mục đích của chúng ta hôm nay không nhằm lượng định ý nghĩa trọn vẹn của triều giáo hoàng vừa kết thúc; điều ấy rõ ràng là vội vã và quá sớm. Điều chúng ta muốn làm trong cuộc tụ tập long trọng này, được triệu tập theo ý muốn của Đức GH Phaolô đang hiển trị, là đơn thuần cố gắng họa lại trước chúng ta, trong khoảnh khắc, khuôn mặt Đức Gioan XXIII, trong hành vi hiếu thảo tập thể và lòng biết ơn sâu xa. 

Mỗi một Nghị Phụ Công Đồng đều giữ trong trái tim mình kỷ niệm sống động của lần cuối cùng chúng ta gặp gỡ ngài, ngay ở đây, tại nơi này, gần mộ Thánh Phêrô. Mỗi một người đều vừa lắng nghe vừa tự hỏi: “Phải chăng đây là buổi từ giã?Liệu người cha đang nói với chúng ta đây có bao giờ thấy lại con cái mình một lần nữa hay không?” Chúng ta nhận thấy mình đang nghe loại diễn từ của Bữa Tiệc Ly…

Truyền hình, truyền thanh, và báo chí đem cái chết của ngài tới gần chúng ta đến nỗi nó giống như cái chết (của người) trong gia đình. Chưa bao giờ cả thế giới lại đã tham dự một cách sát nút như thế vào giai đoạn sé lòng của cơn bệnh chí tử. Chưa bao giờ thế giới đã biểu lộ một nhất trí như thế trong xúc cảm. Thánh Kinh nói rằng “cái chết của các thánh hết sức quí giá trước nhan Thiên Chúa”. Cái chết của Đức Gioan XXIII quí giá cả trước mặt thế giới nữa. Đức Giáo Hoàng đã biến cải nó thành lời tuyên xưng đức tin và đức cậy; ngài biến nó thành như thể một cuộc cử hành phụng vụ Phục Sinh. 

Vài tuần trước khi đi nghỉ vĩnh viễn, trong một buổi yết kiến, Đức Giáo Hoàng nói rằng “mọi ngày đều là ngày lành để được sinh ra, và mọi ngày đều là ngày lành để được chết đi. Cha biết cha đã tin Đấng nào”. Ngài lên đường gặp chung cuộc của ngài với một lòng thanh thản của đứa trẻ về nhà, vì biết rằng cha em đang giang rộng đôi tay chờ đợi em ở đấy. Còn điều gì đơn sơ hơn thế?

Khi nghe thành viên của phủ giáo hoàng sụt sịt khóc quanh giường ngài nằm, ngài phản đối: “con đừng khóc, đây là thời điểm của hân hoan”. Khi chung cuộc đã tới gần, ngài yêu cầu được “ở một mình với Chúa” để hồi tâm. Nhưng tiếng vọng lời ngài cầu nguyện vẫn còn được nghe thấy khi ngài hồi tỉnh. Người ta nghe thấy ngài nhắc lại lời lẽ của Thầy Chí Thánh: “Ta là sự phục sinh và là sự sống”, những lời trong giây phút này quả đã mặc lấy hết ý nghĩa trọn vẹn của chúng. Và rồi môi ngài phát ra tiếng kêu sau cùng, yếu ớt, nhưng từ tận trái tim, đầy tình yêu con thảo với Mẹ Đồng Trinh: “Mẹ con ơi, hy vọng của con ơi”. Và thế là hết…
Đức Gioan XXIII đã rời bỏ chúng ta.

Ấy thế nhưng, chúng ta dám tin rằng hơn bao giờ hết, ngài vẫn ở giữa chúng ta. Người chết không ngừng sống, nhưng sống trọn vẹn hơn. Trong thực tại huyền nhiệm của Các Thánh Cùng Thông Công, các ngài vẫn hành động một cách sâu sắc, thân mật và mạnh mẽ hơn nữa…

Giờ đây, chúng ta cần cố gắng mô tả khuôn mặt Đức Giáo Hoàng, mà ký ức mãi mãi được in đậm trong trái tim mỗi người chúng ta… 

Nếu phải phát biểu mọi điều trong một câu chữ thì con thiển nghĩ ta có thể nói rằng Đức Gioan XXIII là một con người hết sức tự nhiên đồng thời lại rất siêu nhiên. Tự nhiên và ơn thánh đã sản xuất nơi ngài một sự thống nhất sống động đầy tràn duyên dáng và ngạc nhiên. 

Mọi sự nơi ngài đều bật sinh từ một nguồn duy nhất. Ngài siêu nhiên một cách hoàn toàn tự nhiên. Ngài tự nhiên bằng một tinh thần siêu nhiên đến độ không ai khám phá được sự phân biệt nào giữa hai chiều kích này. 

Như thể, khi làm đầy buồng phổi, ngài hít đức tin cùng lúc với việc hít sức mạnh thể lý và tinh thần. 

Có người viết rằng “Ngài sống trước nhan Thiên Chúa, với vẻ đơn sơ của một người dạo quanh phố xá của thị trấn mình”.

Ngài sống với đôi chân trên đất, và ngài quan tâm tới mọi lắng lo hàng ngày của người ta, bằng một mối thiện cảm sống động. Ngài biết phải dừng lại bên đường ra sao để chuyện trò với những người tầm thường, để lắng nghe một em nhỏ, để an ủi một người tàn tật. Ngài lưu tâm tới việc xây dựng một phi trường và ngài cầu nguyện cho các phi hành gia…

Lòng nhân hậu tự phát, thẳng thắn, luôn thức tỉnh của ngài như một tia sáng mặt trời xua tan sương mù, làm chẩy băng giá, thấu qua mọi sự không ai để ý, như thể nó có quyền làm thế. Một tia sáng mặt trời như thế tạo lạc quan dọc đường nó đi, loan truyền hạnh phúc dưới những giáng vẻ bất ngờ, và biến mọi trở ngại thành nhẹ nhàng.

Đức Gioan XXIII đã xuất hiện như thế đối với thế giới, không phải như mặt trời nhiệt đới làm mù mắt người ta bằng cường độ chói lói của nó, nhưng đúng hơn như mặt trời khiêm hạ, quen thuộc, hàng ngày chỉ đơn giản có mặt tại vị trí của mình, luôn trung thực với chính mình dù đôi lúc có bị mây phủ, một mặt trời ít ai chú ý, nhưng chắc chắn lúc nào cũng hiện diện. 

Đức Gioan XXIII không ngây thơ đến độ tin rằng lòng nhân hậu sẽ giải quyết được mọi vấn đề, nhưng ngài biết rõ: nó mở cửa tâm hồn để đối thoại, để hiểu nhau, và để kính trọng nhau. Ngài tin tưởng sức mạnh của đức ái Chúa Kitô luôn bừng cháy trong trái tim con người…

Ta hãy lắng nghe ngài khi ngài tự giới thiệu với các bề tôi mới của ngài là các tín hữu của toà thượng phụ Venice: Ngài bảo họ: “tôi muốn nói với anh chị em một cách thành thực nhất. Anh chị em đã nóng lòng chờ đợi tôi; người ta đã nói với anh chị em về tôi và đã viết cho anh chị em nhiều trình thuật vượt quá công lênh của tôi. Tôi xin tự giới thiệu con người thực sự của tôi. Giống mọi người khác đang sống trên cõi đời này, tôi cũng xuất thân từ một gia đình và một nơi chốn nhất định. Tạ ơn Chúa, tôi có sức khỏe thể lý tốt và một chút ý thức tốt giúp tôi nhìn sự việc một cách nhanh chóng và phân minh. Luôn sẵn sàng yêu thương mọi người, tôi vẫn tuân theo lề luật của Tin Mừng, biết tôn trọng các quyền lợi của tôi và của những người khác, một sự kiện ngăn không cho tôi gây hại cho bất cứ ai và khuyến khích tôi làm điều thiện cho mọi người. 

“Tôi xuất thân từ một cội nguồn khiêm tốn. Tôi được dưỡng dục trong một cảnh nghèo khá hạn chế nhưng bổ ích, đòi hỏi không bao nhiêu nhưng bảo đảm việc phát triển các nhân đức cao thượng nhất và vĩ đại nhất, giúp chuẩn bị con người cho việc leo dốc ngọn núi cuộc đời. Đấng Quan Phòng lôi tôi ra khỏi làng quê sinh trưởng và làm tôi chu du mọi nẻo đường thế giới khắp Tây cùng Đông. Cũng Đấng Quan Phòng này đã khiến tôi ôm hôn những người khác với tôi cả về tôn giáo lẫn ý thức hệ. Thiên Chúa làm tôi đối diện với những vấn đề xã hội gay gắt và đầy đe dọa, mà trước chúng, tôi vẫn giữ được một phán đoán và một trí tưởng tượng bình thản và quân bình để lượng định vấn đề cho chính xác, vì lòng tôn kính các nguyên tắc tín lý và luân lý Công Giáo, không quan tâm tới những gì phân rẽ người ta và khiêu khích tranh chấp, mà đúng hơn quan tâm tới những gì hợp nhất con người…”

Không ai ngạc nhiên khi đọc trong nhật ký riêng của ngài những suy nghĩ như sau: “Các cử hành kim khánh linh mục của tôi vào năm nay đã kết thúc. Tôi cho phép chúng được tổ chức ở đây, tại Sophia, và tại Sotto il Monte. Tôi thật bối rối hết sức!Biết bao linh mục đã qua đời hay còn đang sống đã thực hiện được những kỳ công về tông đồ và trong việc thánh hóa các linh hồn chỉ sau khi làm linh mục được 25 năm. Còn tôi, tôi đã làm được những gì? Ôi lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con! Nhưng, dù tôi khiêm hạ vì cho tới nay làm được rất ít hay chưa làm được gì, tôi vẫn hướng mắt về tương lai. Trước mặt tôi, vẫn còn ánh sáng; vẫn còn hy vọng làm được điều tốt nào đó. Bởi thế, tôi lại nắm lấy cây gậy một lần nữa, mà từ nay sẽ là cây gậy của tuổi già, và tôi sẽ tiến lên phía trước để gặp bất cứ điều gì Chúa muốn cho tôi” (Sofia, 30 tháng 10,1929). . . . 

“Đấng Đại Diện Chúa Kitô ư? Ôi, tôi đâu xứng với tước hiệu này, tôi, đứa con khốn khổ của Baotixita và Maria Anna Roncalli, hai Kitô hữu quá tốt lành, chắc chắn như thế, nhưng tầm thường và khiêm tốn xiết bao” (15 tháng 8,1961).

Nếu ta bỏ con người này và quay nhìn tới công trình do ngài thực hiện, thì đời ngài quả là một ơn phúc ba chiều: ơn phúc cho tín hữu của Giáo Hội Công Giáo; ơn phúc cho mọi Kitô hữu; ơn phúc cho mọi người có thiện chí. 

Đời ngài là một ơn phúc cho tín hữu, trên hết vì Công Đồng do ngài triệu tập; đây là đỉnh cao hoạt động mục vụ của ngài. Đức Gioan XXIII muốn có Công Đồng này: ngài nói chí lý rằng ước muốn này là lời đáp trả đối với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, một ơn linh hứng từng mời gọi ngài tụ tập mọi giám mục khắp thế giới về Rôma.

Lúc khai mạc Công Đồng, ngài đã bình thản tuyên bố sự bất đồng hoàn toàn của ngài "đối với các tiên tri bất hạnh, luôn tiên đoán tai ương thảm họa”. Ngài nói thêm “Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi; sợ hãi chỉ có thể phát xuất từ việc thiếu đức tin”. 

Ngài vâng theo tiếng Chúa kêu gọi, một cách bình an và không biết chính xác tất cả những kêu gọi này sẽ được thực hiện ra sao. Có lần ngài đã mỉm cười cho hay “Khi nói tới công đồng, thì tất cả chúng ta đều là tập sinh, Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện khi các giám mục tụ họp nhau; ta sẽ thấy điều này”. 

Quả thực thế, đối với ngài, Công Đồng trước nhất không phải là cuộc họp của các giám mục với Đức Giáo Hoàng, một cuộc họp theo nghĩa hàng ngang. Trước nhất và trên hết, nó là cuộc họp tập thể toàn bộ giám mục đoàn với Chúa Thánh Thần, một cuộc họp theo nghĩa hàng dọc, một cởi mở hoàn toàn để đón nhận ơn mưa móc mênh mông của Chúa Thánh Thần, một thứ Lễ Hiện Xuống mới…

Đời ngài là ơn phúc cho mọi Kitô hữu. Vì đối với ngài, ta mắc nợ một bầu khí mới, một khí hậu mới. Bầu khí này giúp ta cùng nhau, như anh chị em, đương đầu với các trở ngại vẫn cần được vượt qua trên đường tiến tới hợp nhất trọn vẹn và hữu hình. Bầu không khí này ta mắc nợ đối với tình bác ái của ngài và đối với lòng thành thực của ngài. 

Đối với tình bác ái của ngài, vì tình bác ái này mở cửa trái tim con người ra để đối thoại, để sẵn sàng phán đoán thuận lợi, để hiểu biết nhau. Hơn bất cứ ai khác, Đức Gioan XXIII biết rằng việc mưu tìm hợp nhất Kitô Giáo không diễn tiến theo đường thương lượng ngoại giao, nhưng đúng hơn biết nhìn sâu vào tận đáy cuộc sống thiêng liêng của người ta.

Theo phán đoán của ngài, ta trở nên gần gũi với nhau tùy theo mức độ mỗi người tự để cho cuộc đời và tình yêu Chúa Kitô chiếm hữu lấy mình. Càng trở nên một với Người, ta chỉ càng trở nên gần gũi với anh chị em ta nhiều hơn. Mọi cố gắng hợp nhất, do chính sự kiện nó là một hành vi đức ái, đều có giá trị hợp nhất… 

Há không phải lòng thành thực đầy xúc động này đã làm ngạc nhiên các quan sát viên trong một buổi yết kiến một ngày sau khi khai mạc Công Đồng đó ư?

Ngài nói với họ: “Còn với qúy vị, qúy vị hãy đọc cõi lòng tôi: có lẽ quí vị sẽ học được nhiều điều ở đó hơn là ở lời tôi nói. Làm sao tôi quên được 10 năm sống tại Sofia và 10 năm nữa tại Istanbul và tại Athens?... Tôi thường được gặp các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau… Chúng tôi không tranh luận; chúng tôi chỉ chuyện vãn với nhau; và dù không tranh luận, chúng tôi vẫn yêu thương nhau. Sự hiện diện của quý vị tại nơi đây, một sự hiện diện chúng tôi rất trân quí, và niềm xúc động đang tràn ngập tâm hồn linh mục của tôi… thúc giục tôi thổ lộ với quí vị rằng trái tim tôi bừng bừng biết bao niềm khát khao được làm việc và được đau khổ cho việc xuất hiện giờ phút trong đó lời cầu nguyện của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly được thể hiện cho mọi người”. 

Đời ngài là ân phúc cho thế giới. Đức Gioan XXIII là vị giáo hoàng của đối thoại, và điều này có ý nói tới mọi người trong thời ta. 

Làm cho thế giới ngày nay nghe tiếng Giáo Hội là điều không dễ. Tiếng nói này bị át đi bởi quá nhiều tiếng ồn ào: có quá nhiều nhiễu khí quyển và nhiễu không khí khiến sứ điệp không truyền qua được. 

Bất chấp các trở ngại trên, Đức Gioan XXIII đã tìm ra cách để tiếng nói của ngài được nghe thấy: ngài vượt qua bức tường ngăn cản âm thanh. Lời Đức Gioan làm sống dậy một đáp ứng. 

Con người nhận ra giọng nói của ngài, một giọng nói nói với họ về Thiên Chúa, nhưng cũng nói đến tình huynh đệ nhân bản, đến việc tái lập công bình xã hội, đến một nền hòa bình phải thiết lập khắp thế giới. 

Họ nghe được một thách đố ngỏ với chính con người tốt hơn của họ, và họ ngước mắt nhìn con người này, con người mà lòng nhân hậu khiến họ nghĩ tới Thiên Chúa.Vì con người, dù biết hay không, luôn tìm kiếm Thiên Chúa, và chính sự phản ảnh Thiên Chúa là điều họ tìm kiếm trên gương mặt ông già này, người vốn yêu thương họ bằng chính tình yêu của Chúa Kitô. 

Và đó chính là lý do tại sao họ khóc ngài như những đứa con khóc cha mình, quây quần quanh ngài để được ngài chúc lành.

Và người nghèo khóc thương ngài; vì họ biết ngài là một người trong số họ và ngài chết nghèo như họ, tạ ơn Chúa vì ngài vốn coi cảnh nghèo là một ơn phúc. 

Các tù nhân cũng khóc thương ngài: ngài từng viếng thăm họ và khuyến khích họ bằng chính sự hiện diện của ngài. Có ai không nhớ cuộc viếng thăm nhà tù Rôma của ngài? Trong số các tù nhân ấy có hai người sát nhân. Sau khi nghe Đức Thánh Cha, một trong hai sát nhân này tiến tới và thưa: “Những lời hy vọng ngài vừa nói có áp dụng vào tôi hay không, một kẻ tội lỗi lớn lao như thế này?” Câu trả lời duy nhất của Đức Giáo Hoàng là mở rộng đôi tay, ôm chầm lấy anh ta vào ngực.

Người tù ấy chắc chắn là một thứ biểu tượng của toàn thể nhân loại, rất gần với trái tim của Đức Gioan XXIII. 

Giờ đây, triều giáo hoàng của ngài đã chấm dứt, làm thế nào ta lại có thể không xúc động đọc lại những lời ngài nói năm 1934 khi rời bỏ Bulgaria. Ta nhận ra Đức Gioan XXIII trong bài sứ điệp từ giã này, một sứ điệp có giá trị tiên tri: 

Ngài nói: “ôi thưa anh em, anh em đừng quên tôi, người, dù trong hoàn cảnh nào, cũng mãi mãi là người bạn sốt sắng của Bulgaria. 

“Theo một truyền thống cổ xưa của Aí Nhĩ Lan Công Giáo, vào đêm vọng Giáng Sinh, mỗi nhà đều để một cây nến sáng ở cửa sổ để chỉ cho Thánh Giuse và Mẹ Diễm Phúc đang tìm một nơi để trú ngụ thấy rằng bên trong nhà ấy có một gia đình đang chờ đợi để tiếp rước các ngài. Bất cứ ở nơi nào, dù là ở tận cùng trái đất, bất cứ người Bulgaria nào xa mảnh đất quê hương mà băng qua nhà tôi đều sẽ tìm thấy trên cửa sổ một ngọn nến thắp sáng. Hễ ông ta gõ cữa, cửa liền mở, bất kể ông ta là người Công Giáo hay người Chính Thống. Một người anh em từ Bulgaria, tước hiệu ấy đã là quá đủ. Ông ta sẽ được chào đón và sẽ tìm được nơi nhà tôi tình hiếu khách ấm áp nhất và thân ái nhất”. 

Lời mời trên đã vượt qua các biên giới của Bulgaria; Đức Gioan XXIII đã ngỏ nó với mọi người thiện chí, bất chấp mọi biên giới quốc gia.

Với lịch sử, ngài sẽ là Vị Giáo Hoàng của Chào Đón và Hy Vọng. Đó là lý do khiến kỷ niệm dịu ngọt và thánh thiện về ngài sẽ còn mãi trong lời chúc tụng của hàng thế kỷ tương lai. 

Lúc ngài ra đi, ngài đã để lại những con người gần gũi hơn với Thiên Chúa, và một thế giới làm nơi tốt hơn để con người sinh sống.
 
* * *
Đức GH Gioan hiện diện với các Nghị Phụ Công Đồng không phải chỉ trong bài diễn văn của Đức HY Suenens. Ngài còn hiện diện trong ký ức và trái tim cũng như khát vọng của nhiều Nghị Phụ Công Đồng và rất nhiều chuyên viên tháp tùng các ngài. Ngài chứng tỏ rằng một người, một linh mục, một giáo hoàng có thể sống trong thế kỷ 20 và bất chấp mọi hàm hồ và hào nhoáng của lịch sử, vẫn có thể nói với người ta về Chúa Kitô trong âm sắc của chính Người, theo cách người ta có thể coi đó là đường lối của Người. Đơn sơ, khiêm nhường, tốt lành, trong nhiều năm bị coi như “một tên hề” theo thời, nhát đảm; và rồi bỗng nhiên trở nên can đảm và tích cực, Đức Gioan không khởi sự một sự phục hưng Kitô Giáo hiện đại; ngài không phải là người đẻ ra các ý niệm hàng đầu hay các phong trào dẫn đạo; trước khi làm giáo hoàng, ngài không hề làm cho mình nổi tiếng nhờ các đóng góp cho các phong trào này. Nhưng Đức GH Gioan đã thực hiện một điều còn quan trọng hơn bất cứ phong trào nào hay bất cứ việc lên công thức nào cho một ý niệm hay hỗ trợ nào cho một chương trình. Đức Gioan chỉ sống cuộc sống đặc biệt của ngài. 

Dĩ nhiên, có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cách thế hiện hữu. Dưới mắt người ta, Đức Gioan không luôn giống như con người vào lúc cuối đời của ngài. Ngài hiểu rất rõ sự khôn ngoan của thỏa hiệp. Ngài viết trong Hòa Bình Trên Trái Đất: “có một số linh hồn được đặc biệt phú cho lòng đại lượng; họ là những người, khi nhìn thấy các tình huống trong đó các đòi hỏi của công lý không được thỏa mãn trọn vẹn, cảm thấy bùng lên một ước muốn muốn thay đổi tình thế của sự việc, như thể họ muốn sử dụng một điều gì đó giống như cách mạng. Cần phải ghi nhớ điều này: diễn tiến từ từ là định luật của sự sống trong mọi biểu thức của nó. Do đó, cả trong các định chế nhân bản, ta cũng không thể canh tân được chúng để chúng tốt hơn, ngoại trừ phải làm từ bên trong, một cách từ từ”. 

Cả khi làm giáo hoàng, con đường của ngài cũng được dệt bằng những biện pháp từ từ. Công Đồng Rôma, mà ngài chủ tọa năm 1959, không hề “mở các cửa sổ” mà Vatican II sẽ mở. Ngài cho phép ban hành tông hiến lỗi thời và không thể áp dụng được là tông hiếnVeterum Sapientiae; tông hiến này ra lệnh phải dạy tiếng La Tinh trong các chủng viện. Ngài cũng cho phép Văn Phòng Thánh ban hành thông báo (monitum) lên án các công trình của Teilhard de Chardin. Khi các Nghị Phụ Công Đồng bầu một ít thành viên của Giáo Triều vào các uỷ ban công đồng, ngài đã gia tăng niềm kiêu hãnh của Giáo Triều bằng cách bổ nhiệm nhiều thành viên của nó vào số 9 thành viên của mỗi ủy ban và cử một vị trong Giáo Triều làm Tổng Thư Ký của Công Đồng. 

Tuy nhiên, sau đó, ngài đã vượt qua được rất nhiều trở ngại để giữ cho Công Đồng được hợp nhất; đã thành công trong việc mở cửa Giáo Hội như Chúa Kitô mong muốn: không đòi thế giới phải phù hợp với mình trước mà bằng lòng bước vào thế giới trong hiện trạng của nó. Ngài tập chú vào những điều chủ yếu và hiểu cách phải thể hiện các giấc mơ của mình qua phương pháp tiệm tiến ra sao…

Có nhiều cách phát biểu sự thật. Khi Thiên Chúa muốn mạc khải cho con người sự bí mật của cuộc sống họ và bản chất sự sống của riêng Người, Người đã nói một Lời; nhưng Lời này không phải là một cuốn sách hay một trường phái tư tưởng mà là một cuộc đời, cuộc đời của chính Con của Người. Giống như Lời ngài vốn phục vụ, Đức GH Gioan cũng cho ta hay mầu nhiệm của thời ta và của số phận ta, không bằng một cuốn sách hay một trường phái tư tưởng, mà bằng một cuộc đời. Đời sống luôn đi trước các bài học; các bài học chỉ có vì đời sống. 

Cái chết chầm chậm, kéo dài của Đức GH Gioan đã khắc ghi ký ức về ngài vào tâm trí của hầu hết những người nay còn sống. Lần đầu tiên trong lịch sử, toàn bộ nhân loại chú ý tới cuộc hấp hối của một trong các thành viên của mình, và ý thức về ngài như một nhà tôn giáo vĩ đại, một môn đệ của Chúa Kitô, một người đang dâng sự đau khổ của mình cho họ: vì lợi ích của Công Đồng và vì hòa bình. Ngài từng nói: “Ngày nào cũng là ngày lành để chết, các túi xách của tôi đã được sắp đồ sẵn”. Cứ mỗi một phần tư giờ, tại Hiệp Chúng Quốc, các bản tin đều theo dõi diễn tiến việc ngài về chầu Chúa. Thế giới bỗng nhiên được hợp nhất trong đau buồn, thiện cảm và yêu thương. Con người quả đang học tập để biết chết tốt là thế nào, và để cùng chia sẻ cái chết của một người tốt lành. 

Thánh Gioan Phaolô Cả


Khi chấp nhận việc bầu ngài làm giáo hoàng, Đức HY Karol Wojtyla của Ba Lan đã chọn tên hiệu của hai vị giáo hoàng vốn chủ trì Công Đồng Vatican II là Đức Gioan và Đức Phaolô. Cả Đức Gioan Phaolô II lẫn Đức Gioan và Đức Phaolô đã góp tay thúc đẩy Đông và Trung Âu nổi dậy phá sập kẻ thù lớn nhất của nhân loại là chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, và phá sập nó theo cung cách Kitô Giáo, nghĩa là một cách hòa bình. 

Nếu Đức Gioan XXIII không bất ngờ triệu tập Công Đồng Vatican II, thì thế giới có bao giờ được chứng kiến khoảng 2,500 giám mục Công Giáo Rôma tụ họp nhau trên khán đài không có lộng che bên trong Nhà Thờ Thánh Phêrô năm 1962. Năm 1870, chỉ có khoảng 700 giám mục tại Vatican I. Chỉ trong vòng 90 năm phân cách, sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo, tại Châu Mỹ La Tinh, tại Bắc Mỹ, tại Châu Phi và tại Châu Á, quả là phi thường. Giờ đây, sức mạnh hoàn cầu của nó chỉ cần một bức hình cũng thấy rõ. 

Nếu Đức Phaolô không lưu tâm tới lời yêu cầu thống thiết của Đức HY Karol Wojtyla rằng các giám mục sau Bức Màn Sắt phải trở về nhà với Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo (Dignitatis Humanae), thì các ngài làm gì có được lời kêu gọi chiến đấu làm thất đảm những tên trùm bất cần đạo lý của Châu Âu Cộng Sản: “Tự Do Tôn Giáo!” Các Giáo Hội hầm trú phồn thịnh của Đông Âu, các khích động của Solidarnosc(Phong Trào Đoàn Kết, tức nghiệp đoàn lao động của Lech Walesa), liên minh các nhà trí thức vô thần và các nhà lãnh đạo Giáo Hội họp thường xuyên tại các cơ sở Giáo Hội, tất cả hẳn đã đến rồi đi. Ta cần trở lại hàng thế kỷ họa may mới thấy một tiền lệ trong đó các thay đổi vĩ đại bỗng nhiên diễn ra nhanh chóng. 

Đức Lêô Cả chặn đứng lũ man rợ khỏi xâm nhập Rôma năm 452. Đức Grêgôriô Cả cũng làm một việc như thế vào năm 593. Đức Gioan Phaolô Cả năm 1989 (Bá Linh) và 1991 (Mạc Tư Khoa) cũng đã hạ bệ những tên bách hại Giáo Hội dữ dằn nhất trong lịch sử con người. Tất cả sẽ không thể nào diễn ra nếu không có hai vị giáo hoàng là Gioan XXIII và Phaolô VI, hai vị giáo hoàng được Đức Gioan Phaolô II lấy tên.

Đó là lý do tại sao Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II được liên kết với nhau mãi mãi trong lịch sử. 

Đức Lêô Cả và Đức Grêgôriô Cả là các khuôn mẫu của Đức Gioan Phaolô II theo nhiều cách khác nữa. Các ngài can đảm một cách phi thường khi đối diện với những kẻ thù gây khiếp đảm, nhưng cũng rất nhiều sáng kiến trong việc cải tổ Giáo Hội, trong việc canh tân kỷ luật tiên khởi, trong âm nhạc, giáo luật, giáo lý và giáo huấn huấn quyền. Cả hai vị giáo hoàng cao cả đều phục hồi mạnh mẽ bản chất cũng như cột trụ và định hướng của một đức tin tín thác. 

Cũng vì những lý do trên và nhờ cuốn Sách Giáo Lý mới của ngài cũng như việc ngài khai triển một cách trang trọng các học lý lâu đời qua 14 thông điệp hết sức sâu sắc, Đức Gioan Phaolô II đã được tôn vinh ngang hàng “Cả” với các Đức Lêô và Grêgôriô. Chỉ có ba vị “Cả” trong số 263 vị giáo hoàng đầu tiên. 

Một thuyết nhân bản mới

Ấy thế nhưng, đóng góp vĩ đại nhất của Đức Gioan Phaolô II hẳn là việc ngài đã dẫn nhập vào thế giới, trên bình diện hoàn cầu, một chủ thuyết nhân bản Kitô Giáo mới. Ngài đề cao Chúa Giêsu Kitô độc nhất như là hình thức mới của chủ nghĩa nhân bản: ngôi vị, Ngôi Vị Thiên Chúa mặc xác phàm, khuôn mẫu mới cho những con người nhân bản nhờ thế ta trở nên điều mình đã được dựng nên để trở thành. 

Đức Gioan Phaolô II mặc lấy nhân tính của ngài một cách duyên dáng: một tân giáo hoàng trẻ trung và mạnh khỏe từng trượt tuyết và đi bộ trên dẫy núi Alps, cái mỉm cười sẵn sàng và sự lanh trí của một nghệ sĩ đã quá quen thuộc với các đám đông lớn và được quần chúng ái mộ, nói thì nói thẳng như rót vào trái tim từng người. 

Tôi còn nhớ có lần đem mẹ tôi tới nghe ngài khi ngài viếng Thủ Đô Washington lần đầu. Chúng tôi có được một chỗ đứng rất tốt trên Đại Lộ Rhode Island trước mặt nhà xứ cạnh Nhà Thờ Chánh Tòa Thánh Mátthêu. Theo chương trình thì không có gì diễn ra ở đây, nhưng một đám đông lớn và đầy yêu thương đã tụ tập bên dưới cửa sổ lầu hai có một ban công nhỏ của nhà xứ. Khi các cánh cửa kiểu Pháp mở rộng, thì đám đông rộ lên cả một triều phấn kích khi thấy khuôn mặt thân yêu mặc đồ trắng xuất hiện: hoàn toàn trẻ trung và đầy sinh khí, toát ra tràn trề sinh lực. 

Đám đông lập tức bật lên tiếng hô: “John Paul Two – We love you!” “John Paul Two – We love you!” (Gioan Phaolô II, Chúng con yêu mến ngài! Gioan Phaolô II, chúng con yêu mến ngài!). Ngài để tiếng hô ấy kéo dài thêm ít phút, rồi vẫy tay xin im lặng. Khi im lặng từ từ được tái lập, đột nhiên, Đức Giáo Hoàng chỉ tay vào đám đông, vào mọi người từ trái qua phải, và hô lớn: “John Paul II – he loves you! John Paul II” (Gioan Phaolô II, ngài yêu mến anh chị em! Gioan Phaolô II) vừa đâm mạnh ngón tay vào đám đông vừa thêm “he loves you!” (ngài yêu mến anh chị em!). Đám đông lại ồ lên hò reo vang dội. Một trao đổi yêu thương quả đang diễn ra trước mắt.

Thế giới cũng thấy nhân tính của Đức Gioan Phaolô II không chỉ nơi tuổi trẻ đầy sức sống của ngài, mà cả trong tình thế xanh xao và yếu đuối của ngài khi vụ mưu sát hụt gần như đã sát hại ngài, và một lần nữa trong tuổi già của ngài, lúc thể lý đã ra yếu đuối (tự đẩy mình vào máy bay bằng cách nắm chặt cầu thang). Bất kể lúc trẻ hay lúc già, đôi mắt của ngài vẫn ánh lên, dường như muốn nói “vinh quang Thiên Chúa là con người sống trọn vẹn!” (Thánh Irênê). 

Xét về bản thân, Đức Gioan Phaolô II là người ấm áp, dí dỏm, mau lẹ nắm được nghịch lý cũng như nét hài hước của mọi hoàn cảnh, và ngài rất thích bông đùa lành mạnh, nhất là những bông đùa pha lẫn nét oái oăm của Trung Âu. Thí dụ, có lần ngài phá lên cười trong một bữa ăn, khi nghe kể câu truyện về người lính Ba Lan và người lính Nga trong một buổi thao dượt chung vào mùa đông. Lúc đó là lúc thiết quân luật tại Ba Lan, và cả hai chàng lính này đều lạnh và đói bụng. Cả hai người đều không được một chút thực phẩm nào trong ngày này.

Trong một cố gắng tuyệt vọng cuối cùng, người lính Ba Lan lục lọi khắp góc cạnh của chiếc tuí xách, và ngạc nhiên thay cho cả hai người, anh ta lôi ra được một khúc bánh đã hơi mốc. Khi thấy mẩu bánh, người lính Nga háu ăn bàn: “Ta hãy chia đôi mẩu bánh này, vì tinh thần bình đẳng chân thực xã hội chủ nghĩa”. Vì biết rõ lịch sử Xô Viết về “bình đẳng” và “liên đới” là “cái gì của tôi là của tôi, và cái gì của anh cũng là của tôi”, nên người lính Ba Lan trả lời: “Tuyệt đối không! Một nửa và một nửa. Không hơn một mẩu!”

Một dịp khác, bạn bè kể cho Đức Giáo Hoàng một truyện vui đùa về cuộc bầu cử tại Ba Lan, cuộc bầu cử thứ hai sau khi chính phủ Đoan Kết nắm quyền. Dù chỉ trong một thời gian ngắn, cử tri Ba Lan đã tự phân hóa thành 38 chính đảng khác nhau. Một trong các đảng này tự gọi mình là Đảng Uống Bia. 

Nhắc đến sự phân hóa ấy, Đức Giáo Hoàng lắc đầu và nói: “Chỉ có hai giải pháp cho cuộc khủng hoảng của Ba Lan: giải pháp thực tiễn và giải pháp lạ lùng. Giải pháp thực tiễn là Đức Mẹ Czestochowa thình lình hiện ra, với Chúa Giêsu và tất cả các thánh ở một bên ngài, và Môsê cùng tất cả các tiên tri ở bên kia ngài, thì cuộc khủng hoảng Ba Lan sẽ được giải quyết. Giải pháp lạ lùng là dân Ba Lan học cách thỏa hiệp và hợp tác”. 

Khi khách tới viếng ngài, Đức Gioan Phaolô II rất tò mò. Ngài rất thích tổng hợp việc suy nghĩ các chủ đề văn hóa lớn với các câu truyện cụ thể có tính thông tri. Hình như thỉnh thoảng ngài muốn có bạn bè vây quanh để thư giãn đôi chút, để quên đi những vần vũ hàng ngày, để trân quí những khoảnh khắc được vui hưởng thuần túy. Ngay cả những lúc như vậy, ngài cũng vẫn dò tìm một vài suy tư, một vài ý kiến, một vài gợi ý, một chút thông tri, nếu có thể, thì ngắn gọn và dí dỏm. 
Ngài cau mặt và gật đầu về hướng người thư ký, là Đức Cha Dziwisz, “Nếu con thấy cảnh nghèo mà chúng ta vừa thấy tại Peru, con sẽ làm gì?” Ngài muốn câu trả lời thực tế, nhưng xem ra không được thuyết phục mấy đối với các câu trả lời ướm thử ngập ngừng. 

Dịp khác, một ai đó cám ơn Đức Giáo Hoàng vì đã giúp đem lại “phép lạ” lật đổ được chủ nghĩa Cộng Sản chỉ sau khi được bầu không lâu, chưa đầy 11 năm. Khi nghe vậy, Đức Giáo Hoàng cau mặt đáp lại “Phép lạ gì đâu. Chẳng qua cái hệ thống Mickey-Mouse ấy tự sụp đổ do chính gánh nặng của nó đấy thôi”. 

Và khi ở Ba Lan, ngài có được sự sáng trí tại chỗ khi lật ngược bàn cờ chống lại sự tuyên truyền của Cộng Sản trong một cuộc tranh luận trực diện: “Người ta nói rằng chủ nghĩa Cộng Sản ở đây để phục vụ công nhân. Nhưng họ đâu có biết gì tới chủ quan tính của công nhân, công nhân nghĩ gì, cảm nhận gì, họ tự hào về điều gì. Họ đâu có tôn trọng linh hồn của công nhân. Đó là những thành phần quan trọng của việc làm. Không phải chỉ sản xuất ra hàng đống bất tận những chiếc rầm chữ I để rồi thành rỉ sét dưới trời mưa, và rỉ sét vì sao? Vì không có thị trường, không ai muốn mua chúng cả. 

“Việc làm không phải chỉ là kéo những chiếc lưới cá nặng lên khỏi Biển Bantích, chỉ để thấy chẳng có tủ đá nào còn hoạt động, thành thử mẻ cá thành hư thối. Qủa là một nhạo báng đối với tinh thần và mồ hôi công nhân. Những việc như thế không hề tôn vinh công nhân. Chúng làm họ phẫn nộ. Chúng hủy diệt linh hồn công nhân”. Một cách có hệ thống, từng chủ đề một, vị giáo hoàng trẻ trung đã quay chong chóng ý thức hệ Cộng Sản khiến nó tự mâu thuẫn với chính mình. 

Chủ nghĩa nhân bản của ngài sâu rộng hơn chủ nghĩa nhân bản của họ. Sức phân tích của ngài cũng thế. Cả nụ cười và lanh trí của ngài cũng vậy. 

Lợi điểm của việc yêu kịch nghệ

Người ta thường quên rằng vị giáo hoàng này là tác giả của những vở kịch và vần thơ rất thành công. Ngài hiểu rõ sức mạnh của bi hài kịch. Dưới chế độ Quốc Xã, ngài đã liều chết duy trì cho bằng được nền văn chương kịch nghệ, tình người và niềm hy vọng của Ba Lan tiếp tục sinh động. Khi làm giáo hoàng, ngài vẫn không quên kỹ năng kịch nghệ của mình. 

Thí dụ, một trong các thành tựu vĩ đại thực sự của Công Đồng Vatican II là việc thông qua Hiến Chế Tin Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium). Mục đích của hiến chế này là để thi hành giáo huấn của Vatican I, là giáo huấn đã làm những gì có thể làm được, sau khi các lãnh thổ giáo hoàng bị mất, để minh xác vai trò thiêng liêng của các vị giáo hoàng tương lai. Còn Vatican II thì tập chú vào vai trò của mọi giám mục thế giới trong hợp nhất, quanh Giám Mục Rôma. Không còn lối liên hệ kim tự tháp nữa, đúng như thế, nhưng là liên hệ đồng tâm. 

Với một cảm thức chắc chắn về lối giáo huấn bằng kỹ năng kịch nghệ, Đức Gioan Phaolô II đã gần như tức khắc khởi đầu các cuộc tông du mục vụ tới phân nửa các quốc gia trên thế giới. Không bao lâu sau đó, ngài trở thành con người nhân bản duy nhất đích thân hiện diện với hàng trăm triệu con người, hơn hẳn bất cứ người nào khác trong lịch sử. 

Nhưng điều ít được lưu ý hơn là bất cứ xuất hiện ở đâu, ngài cũng được vây quanh bởi rất nhiều giám mục trong vùng cũng như từ các vùng khác. Tại những nơi đó, hiện diện hữu hình trên lễ đài hay trên màn ảnh truyền hình là những vòng tròn đồng tâm gồm các giám mục thế giới với phẩm phục mầu tím bao quanh ngài, tất cả đều lên tiếng như một. Điều rõ mồn một là Giám Mục Rôma đang quay nhìn và “củng cố anh em mình”. Sự hợp nhất hoàn cầu của các ngài nhờ ngài mà thành tỏ hiện. 

Sự thánh thiện của ngài

Với Đức GH Gioan Phaolô, “Đức Thánh” (His Holiness) không phải chỉ là một tước hiệu danh dự. Nó cũng không phải là một lối sống. Nửa triều giáo hoàng của ngài, một vị Hồng Y được phỏng vấn, vị này lúc ấy chưa ai biết là người ủng hộ ngài. Ấy thế nhưng vị Hồng Y này nói lên sự ngưỡng phục khi thấy vị giáo hoàng này “huyền nhiệm” xiết bao. Ngài cho thấy vị giáo hoàng này cầu nguyện sâu sắc đến chừng nào như thể đang sống trong một thế giới khác hẳn mọi người chúng ta. 

Sau đó, có ba hay bốn lần đích thân tôi được may mắn thấy điều đó lúc ngài chuẩn bị cử hành thánh lễ buổi sáng. Ngài như cuộn tròn trên ghế quì, hoàn toàn chú tâm vào Thiên Chúa. Dường như ngài không cầu nguyện, không đọc lời nào cả, mà như bị cuốn hút vào một Hiện Diện khác. Ấy thế nhưng, sau Thánh Lễ, khi tới thăm khách khứa, như thói quen ngài vốn làm, xem ra ngài hiện diện ngay lập tức với mỗi người chúng tôi. Như thể ngài trốn đi gặp Đấng khác rồi trở lại với thế giới thực mà không cần phải cố gắng chi. Như thể, việc ngài hiện diện với Chúa càng làm ngài hiện diện nhiều hơn, chứ không ít hơn, với mọi người khác. 

Vào dịp kia, vợ tôi, một điêu khắc gia và là một họa sĩ, đem tặng ngài bức tượng đồng thân mình Chúa Giêsu chịu chết trên Thánh Giá. Vợ tôi đúc tượng này cho cây thánh giá rước kiệu. Vừa thấy tượng này, Đức Giáo Hoàng bèn ấn ngón tay vào khuôn tượng rũ rợi không còn giữ cho mình thẳng đứng được nữa vì đang chết vì nghẹt thở. Ngài bảo: “vào chính lúc hấp hối”. Vợ tôi liền ôn tồn tiếp nối: là “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”. Đây là tựa đề tác phẩm bán chạy nhất vừa được phát hành của Đức Giáo Hoàng, và ngài mỉm cười một cách ý vị trước câu đáp nhanh nhẹn của nàng. 

Giống mọi dịp khác, dịp này Đức Gioan Phaolô II cũng đã thực tế hết sức khi chỉ trước đó vài phút, ngài từng mất hút trước Nhan Thiên Chúa, như thể chìm hẳn vào một thế giới khác.

Karen và tôi từng hiện diện với Mẹ Têrêxa, Dorothy Day và nhiều vị thánh thiện đặc biệt khác. Các bạn cũng có thể cảm nhận sự thánh thiện của các vị này. 

Nhưng sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II có khác. Một sự hiện diện mạnh mẽ bao phủ ngài. Đôi mắt trong xanh của ngài ánh lên một niềm vui giống như của Thánh Nicôla. Của một tình yêu vui tươi và dịu dàng dành cho người khác, xem ra tràn đầy cương nghị. 

Với chủ thuyết nhân bản Kitô Giáo sâu sắc, mạnh như sắt, can đảm, bạo dạn, Đức Gioan Phaolô II quả xứng đáng với những lời được nhiều người ưa thích của Shakespeare: “Đời ngài dịu hiền; và các yếu tố nơi ngài được hoà hợp đến độ Thiên Nhiên cũng phải đứng dậy và tuyên bố với toàn thể thế giới rằng: đây quả là một con người!”

Công trình của Đức Gioan XXIII chưa hoàn tất

Trong một cuộc phỏng vấn với Deborah Castellano Lubov của Zenit trước lễ phong thánh, Novak cho rằng vào cuối đời ngài, công trình của Đức Gioan XXIII chưa hoàn tất. Phải đợi tới Đức Gioan, công trình ấy mới đem lại kết quả chính xác. Lúc đó, có người còn đề cập tới khả thể một Vatican III. Chính Đức Bênêđíctô XVI, khi được hỏi: “ý nghĩa trọn vẹn của Vatican II là gì?”, đã cho hay: “Chúng ta không biết được, vì hoa trái của Công Đồng cần có thời gian mới phát triển được”. 

Theo Novak, thời gian ấy chính là 50 năm phân cách giữa Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II, phải có nó ta mới đạt được “sự hiểu biết chung về những gì thực sự đã diễn ra”. Vì các vấn đề do Vatican II đặt ra hết sức sâu rộng và có cái nhìn khá xa về tương lai. Đức Gioan Phaolô II giúp đưa lại một lối giải thích đúng đắn. Ngài “làm tròn” các sáng kiến của Đức Gioan XXIII, nghĩa là hoàn tất chúng và làm chúng trở thành quốc tế. Ngài cho thế giới thấy cơ cấu Giáo Hội không còn là kim tự tháp mà là các vòng tròn đồng tâm. Tuy nhiên, cần tới Đức Bênêđíctô XVI, ta mới có được một cấu trúc có tính bác học và Đức Phanxicô đem lại cho cấu trúc ấy một khuôn mặt hợp quần chúng. 

Novak cũng nhấn mạnh tới sự tương tự giữa Đức Gioan XXIII và Đức Phanxicô hiện nay: cả hai vị đều là những người bạn muốn uống một ly cà phê hay hút một điếu thuốc với.


Vũ Văn An5/2/2014(vietcatholic)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét