Trang

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

15-06-2014 : (phần II) CHÚA NHẬT LỄ BA NGÔI năm A

15/06/2014
Chúa Nhật sau Lễ Hiện Xuống
Lễ Chúa Ba Ngôi Năm A
(phần II)



GIÁO LÝ PHÚC ÂM CN CHÚA BA NGÔI. A
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI, NĂM A
Sách Xuất Hành 34.4-6.8-9;
Thư Thứ Hai của Tánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô 13.11-13
và Phúc Âm Thánh Gioan 3,16-18

I. Giáo Huấn P.Â.:  
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người: Chúa Cha rất yêu Chúa Con và cũng rất yêu nhân loại. Chúa Cha ban chính Con mình là tình yêu. Bởi Tình yêu, con người được tạo thành. Bằng tình yêu, con người được cứu độ.
Chúa Con nhập thể sinh làm người và ở giữa nhân loại là một minh chứng về tình yêu và chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng là một luận phạt cho bất cứ ai chối từ tình yêu Thiên Chúa hay không tin Chúa.

II. Vấn nạn P.Â. 

Tại sao gọi là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi?
Xin trưng dẫn mạc khải và giáo huấn về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

            Mầu nhiệm mạc khải hay mầu nhiệm đức tin là những chân lý do chính Chúa mạc khải nhưng “anh em không có sức chịu nỗi!” Vì vượt quá sự hiểu biết của con người. Vì là đối tượng của đức tin. Để chấp nhận được hay để tin những chân lý mạc khải cần được Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn và soi sáng.

            Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin trong đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo phẩm trật các chân lý đức tin (Directorium Catecheticum Generale – Hướng dẫn Giáo Lý tổng quát số 43)

Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mạc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi (Directorium Catecheticum Generale – Hướng dẫn Giáo Lý tổng quát số 47)

Mạc khải và giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi:

Tân Ước:
Matthêô 28, 19:  “Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần”

Matthêô 25, 31: “Khi Con Người đến trong vinh quang ….để phán xét..” được hiểu là Ba Ngôi Thiên Chúa là thẩm phán xét xử nhân loại.

Matthêô 21, 33: Đức Kitô mô tả Ngài như người con trong gia đình có trách nhiệm quán xuyến công việc của Thiên chúa Ba Ngôi.

Matthêô 24, 31: Ngài là Chúa của các thiên thần trên trời và truyền bảo họ thừa hành lệnh truyền của Thiên Chúa.

Matthêô 16, 16-17: Tuyên tín của Phêrô về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế được nhìn nhận là do sự soi dẫn của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Luca 22, 66-71: Trước thượng tế Caipha, Chúa Giêsu tự nhận mình là Đấng Cứu Thế và là Con thiên chúa. Ngài bị qui tội phạm thượng vì dám nhận mình là Con Thiên Chúa.

Gioan 20,31: Phúc Âm được viết để chứng minh về thiên tính nơi con người Giêsu.

Gioan 14, 7; Gioan 14,10; Gioan 16,15; Gioan 17,21… Đức Kitô bảo “Ai thấy Ta là thấy Cha; Ai tin Ta thì tin Đấng đã sai Ta…”

Thư Thứ II của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô 13,13: “Nguyện xin ân sủng của Đức Kitô và tình yêu của Thiên Chúa Cha và sự thông hiệp với Chúa Thánh Thần ở cùng tát cả anh chị em”

Thư Thứ I của Thánh Phaolô gửi Côrintô 12,4-11: “Nhiều ân sủng khác nhau, nhưng cùng một Thánh Thần. Nhiều nhiệm vụ, nhưng cùng một Chúa. Nhiều hoạt động nhưng cùng một Thiên Chúa, Đấng hoạt động trong mọi người.”

Tông Đồ Công Vụ: 13,2; 16,7; 5,3; 15,28

Cựu Ước:
Sáng thế Ký 16,7: 16,18; 21,17 31,11:  Thiên Chúa tỏ mình ra qua công việc sáng tạo cũng như qua những sứ giả của Chúa.

Isaia 7, 14; Isaia 9, 6: Tên Đấng Cứu Thế là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa là Đấng toàn năng.

Sách Giáo Sĩ 24 nói về sự khôn ngoan đến từ tập thể Thiên Chúa.

Thế nào là lạc giáo (Heresy), Bội giáo (Apostasy) và Ly giáo (aschism)

Giáo luật khoản 751 định nghĩa:

Lạc giáo (heresy) là ngoan cố chối bỏ một chân lý phải tin với đức tin thần khởi và Công Giáo hoặc ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Giáo luật nói post receptum baptism – Sau khi rửa tội. Nhưng chúng ta cũng hiểu là sau khi đã hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo, trong trường hợp những người đã rửa tội ngoài Công Giáo và gia nhập Giáo Hội qua nghi thức tiếp nhận để hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo.

Người lạc giáo là người ngoan cố chối bỏ de fide Divina et Catholica. Tức người đã hiểu đó là chân lý thần khải, được chỉ dạy phải tin và cố tình chối bỏ.  Hình phạt dành cho người lạc giáo là vạ tuyệt thông được qui định trong giáo luật khoản 1364§1

Chân lý thần khải, tức mạc khải và những giáo huấn bất khả ngộ của Giáo Hội Công Giáo:

Tín điều: Những điều phải tin trong Kinh Tin Kính của các Tông Đồ: Thiên Chúa Ba Ngôi; Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Con sinh làm người, đã chết và đã sống lại…..Maria, mẹ Thiên chúa vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh.

Luân lý: Luật tự nhiên – Mười điều răn – Luật cấm ly dị - phá thai hay ngừa thai nhân tạo – Tám mối phúc thật – Giới luật yêu thương – Điều răn Hội Thánh dạy như tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật – Xưng tội rước lễ Mùa Phục Sinh.. .

Đan cử một số tội lạc giáo:
Có một ít giáo sĩ cho phép người đã có nhiều con được quyết định hạn chế sinh sản, ngừa thai hay phá thai tùy theo tiếng lương tâm và hoàn cảnh. Vì theo họ, có nhiều con mà không giáo dục được con cái thì thà có ít con. Tuy nhiên trong Veritatis Splendor số #32, Đức Giáo Hoàng Goan Phaolô II dạy rằng: Trong sáng Thế Ký chúng ta đọc thấy rằng: Chúa bảo người đàn ông “Ngươi tự do ăn những trái cây trong vườn, trừ cây biết lành biết dữ thì đừng ăn. Nếu ăn, người sẽ phải chết…(Sáng thế Ký 2,16-17) Như vậy khả năng để đoán định việc tốt xấu không tùy thuộc con người nhưng nơi Chúa.

Ngày 28.2.1006, đa số những thành viên của Dân Chủ Công Giáo ở Connecticut đã biều quyết tán thành việc phá thai hợp pháp (pro-abortion). Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Đời sống hôn nhân có nhiệm vụ truyền sinh nhân loại. Việc trực tiếp làm cho tuyệt sản hay ngừa thai là xấu và có tội (Giáo Lý Công giáo số 2366 và 2370)

Quyền tự sát và an tử: Điều răn thứ năm dạy “Chớ giết người!” Sự sống con người được Thiên Chúa ban tặng như một báu vật. Chúng ta phải quí trọng, bảo tồn sự sống. Chúng ta phải tri ân người ban sự sống. Quyền sống chết không nằm trong tay chúng ta, nhưng trong tay Chúa là sự sống. Nên chủ trương có quyền tự giết chết mình hay quyết định an tử là những tội lạc giáo.

Bội Giáo (Apostasy) là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo. Sự chối bỏ nầy phải hiểu là chính thức và bộc lộ công khai. Như trường hợp người rửa tội Công giáo mà bỏ đạo sang làm tín đồ Phật Giáo, Hồi Giáo hay thành vô thần, gia nhập đảng Cộng Sản… đều hiểu là bội giáo.

Ly giáo (Schism) là từ chối vâng phục Đức Giáo Hoàng hoặc từ chối nhiệp thông với các chi thể thuộc quyền Ngài. Những người Công Giáo chối từ quyền tối cao của Đức Thánh Cha để gia nhập Chính Thống Giáo hoặc gia nhập những Giáo Hội ly khai từ Công Giáo như Luthêrô hay Anh Giáo hay như Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre… được coi là ly giáo.

Đức Cha Marcel Lefebvre, là tổng giám mục hưu trí của Tulle. Ngày 30.6.1988 dù không có lệnh của tông tòa (pontifical mandate) Ngài đã tấn phong Giám Mục cho bốn Giám Mục khác là Bernard Fellay, Bernard Tissier de Mallerais, Richard Williamson và Alfonso de Galarrete. Bộ trưởng bộ Giám Mục lúc bấy giờ là Hồng Y Bernadinus Gantin, ngày 3.7.1988 đã tuyên bố vạ tuyệt thông tức khắc dành cho Tòa Thánh áp dụng cho Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre và bốn tân Giám Mục vừa được tấn phong – Tất cả những tội nhân ly giáo nầy bị áp dụng hình phạt được qui định theo Giáo Luật điều 1364§1. Ngoài ra, Antonio de Castro Mayer, Giám Mục hưu trí của Campos, phụ phong cũng bị vạ tuyệt thông được qui định trong giáo luật điều 1382.

Thế nào là bất khả ngộ?
            Giáo Luật khoản 749 qui định:
§1. Do chức vụ của mình, Đức Giáo Hoàng được ơn bất khả ngộ trong quyền giáo huấn khi Ngài tuyên bố một cách quả quyết là phải giữ một học thuyết về đức tin hay về luân lý, với tư cách là chủ chăn và là Tiến Sĩ tối cao của tất cả mọi Tín Hữu, để củng cố anh em mình trong đức tin.

§2. Giám Mục đoàn cũng được ơn bất khả ngộ trong quyền giáo huấn, khi các Giám Mục hội họp trong công đồng chung thi hành quyền giáo huấn với tư cách là Thầy dạy và là thẩm phán về đức tin và luân lý, khi các Ngài tuyên bố toàn thế Giáo Hội phải dứt khoát tuân giữ một học thuyết liên quan đến đức tin hay luân lý………….

            Như vậy đặc ân bất khả ngộ, tức ơn không sai lầm dành cho Đức Giáo Hoàng, được gọi là vì chủ chăn và là thầy dạy tối cao của Giáo Hội, cũng như cho Công Đồng chung qui tụ các Giám Mục trên toàn thế giới trong sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Ơn bất khả ngộ nầy chỉ qui định trên vấn đề đức tin và luân lý mà thôi. Ơn bất khả ngộ được thực hiện trong tư cách gọi là Ex Cathedra, tức từ Ngai tòa Thánh Phêrô, với quyền chủ chăn và thầy dạy tối cao, Đức Giáo Hoàng tuyên bố những tín điều liên quan đến đức tin và luân lý. Trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội ngày 8.12.1954. Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 1.11.1950.

III. Thực hành P.Â.:

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi rất gần với thực tế cuộc sống



Đời người thường có ba giai đoạn: Trẻ - trung niên và già lão. Ba giai đoạn, một cuộc đời.

Linh hồn con người có ba khả năng: trí nhớ - trí hiểu và lý trí. Ba khả năng, một linh hồn.

Con người sống cần nước và thân thề con người chứa thật nhiều nước. Nước có thể ở ba dạng thức khác nhau: chất lỏng như nước lã; chất khí như hơi nước, chất đặc như nước đá. Ba dạng thức khác nhau nhưng cùng là nước.

Thế vững chắc là thế chân vạc theo kiểu lư hương, có ba chân kiềng.

Một gia đình được hiểu là có ba thành phần: Cha – Mẹ và con cái. Ba thành phần khác nhau tạo thành một gia đình.

Giáo Hội Công Giáo là gia đình của Chúa, có Chúa là Cha – Có Đức Mẹ và có tín hữu.

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là đời sống căn bản, nội tại của Thiên Chúa. Chúa sinh dựng nên chúng ta giống hình ảnh Chúa, tức Chúa muốn chúng ta thực hiện sự đồng nhất và khác biệt trong cuộc sống mình. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Chúng ta là đền thờ của Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi.

Kiểu làm việc ngày nay chú trọng vào dạng thức gọi là team work, tức làm việc chung với nhau. Mỗi người đóng góp phần khả năng và tài năng của mình để hoàn thành công việc chung. Kết quả rất phong phú và thích thú. Dù sao, một vườn hoa với muôn sắc hoa vẫn đẹp hơn một vườn hoa độc một sắc hoa.

Mới gần đây, Đức Cha tôi bị tai biến mạch máu não và Ngài phải liệt giường trong một thời gian, tôi nghĩ ít là phải hai tháng. Ngài không chấp nhận hoàn cảnh. Ngài rất khó chịu dù nằm hay ngồi. Rất dễ hiểu: Ngài là một Giám Mục còn trẻ, đang sức và rất năng động, luôn có sáng kiến mục vụ và nhất là “ôm việc” và khá độc đoán.  Bây giờ phải nắm một chỗ. Ngài không an tâm khi buộc phải giao việc cho tôi hay cho người khác. Tôi đã thật lòng nói với Ngài: Chúa nói với Đức Cha rất nhiều trong biến cố nằm liệt giường nầy. Chúa nói rằng: chúng ta mỏng dòn và rất giới hạn. Chúa nói rằng: chúng ta chỉ là công cụ trong một giai đoạn. Giáo Hội có trước chúng ta và tồn tại sau khi chúng ta chết. Don’t make yourself to be the owner of the Church!

Nên hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: phân chia nhiệm vụ và thực hiện công việc chung với những tham gia và ý kiến khác với chúng ta. Tất cả là công cụ trong tay Chúa.

2. Không thấy Chúa. Không tin Chúa
Năm 1961, phi hành gia của Nga tên Yuri Gagarin đã là người đầu tiên bay trên không gian, đường như Ông bay đến gần 18 lần chung quanh trái đất. Mọi người hết sức ngưỡng mộ ông. Nhưng Ông cũng đã làm nhiều người thất vọng khi tuyên bố: Không thấy Đức Chúa Trời đâu cả.

Thiên Chúa không  phải là đối tượng của nhãn quan hay của tri thức, nhưng là của đức tin. Yuri không có đức tin thì làm sao thấy Chúa được? Có ai đó không thấy Chúa, không có nghĩa là không có Chúa. Nhưng phải hiểu là có Chúa nhưng người ta không tin có Chúa. Nên vô thần là kiêu ngạo và là một bất hạnh, vì chối bỏ Đấng sinh thành nên mình. Có người con nào được gọi là con ngoan hay người tốt khi chối bỏ cha mẹ sinh ra mình?

Điều kiện đầu tiên để có đức tin là khiêm tốn nhìn nhận sự giới hạn của trí óc chúng ta. Có nhiều điều hiện hữu mà chúng ta không thấy. Thí dụ: ai thấy tình yêu thế nào? Màu sắc hay nặng nhẹ ra sao? Không, chúng ta không thấy, nhưng ai cũng sống vì tình yêu và nhờ tình yêu. Chúng ta cũng không hiểu hết công dụng của những thành phần trong thân thể chúng ta thí dụ như ruột thừa, để làm gì? Rún ở giữa bụng chúng ta dành cho việc gì? Những côn trùng trong vũ trụ để làm gì? Chúng ta không hiểu tại sao những thứ trên hiện diện? Trí óc chúng ta thật giới hạn.Do đó, hãy bắt đầu một giờ phụng vụ hay đạo đức bằng Kinh Tin, Kinh Cậy và Kinh Kính Mến để xin Chúa ban thêm những nhân đức đối thần nầy cho chúng ta.
 Lm Phêrô Trần Thế Tuyên


Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi
"Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lectio Divina: Lễ Chúa Ba Ngôi (A)
Chúa Nhật, 15 Tháng 6, 2014
“Thiên Chúa đã yêu thế gian quá đỗi!”
Thiên Chúa Ba Ngôi là cộng đoàn tốt đẹp nhất 
Ga 3:16-18


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.

Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
-  Một vài câu Tin Mừng này là một phần sự suy niệm của Thánh Sử Gioan (Ga 3:16-21), nơi ông đã giải thích với cộng đoàn của ông vào cuối thế kỷ thứ nhất, ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô (Ga 3:1-15).  Trong cuộc đối thoại này, Nicôđêmô cảm thấy khó mà làm theo được suy nghĩ của Chúa Giêsu.  Việc tương tự cũng đã xảy ra với các cộng đoàn.  Một số người trong bọn họ, vẫn còn chịu ảnh hưởng của các tiêu chuẩn trong quá khứ, không thể hiểu được những sự mới lạ mà Chúa Giêsu đem lại.  Đoạn Tin Mừng của chúng ta (Ga 3:16-18) là một cố gắng để vượt qua khó khăn này.

-  Giáo Hội cũng đã chọn ba câu Phúc Âm này cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi.  Thực ra, chúng là một chìa khóa quan trọng mặc khải tầm quan trọng của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống chúng ta. Khi đọc, chúng ta hãy cố gắng giữ trong trí và trong lòng chúng ta rằng trong đoạn Tin Mừng này Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con là Đức Giêsu, và tình yêu là Chúa Thánh Thần.  Vì vậy, chúng ta đừng cố gắng hiểu thấu mầu nhiệm.  Chúng ta hãy dừng lại trong yên lặng và trong ngạc nhiên!

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Ga 3:16:  Chúa Giêsu nói rằng nhờ tình yêu của Thiên Chúa mà ơn cứu độ được thể hiện ở món quà tặng Con Một của Người
Ga 3:17:  Ý muốn của Thiên Chúa là để cứu rỗi chứ không phải để luận phạt.
Ga 3:18:  Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải có can đảm để tin vào tình yêu này.

c)  Phúc Âm:  
16:  Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng:  “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
17:  Vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
18:  Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt.  Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì khiến bạn hài lòng hoặc cảm động nhất?
b)  Sau khi xem xét cẩn thận đoạn Tin Mừng ngắn gọn này, đâu là những chữ chính được lặp lại nhiều lần?           
c)  Kinh nghiệm chính về cộng đoàn bởi tác giả Phúc Âm được cho thấy trong đoạn Tin Mừng là gì?
d)  Đoạn Tin Mừng nói cho chúng ta điều gì về tình yêu của Thiên Chúa?
e)  Đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết gì về Đức Giêsu?
f)  Đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết gì về thế gian?
g)  Đoạn Tin Mừng mặc khải cho ta điều gì?

5.  Chìa khóa của bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.

a)  Bối cảnh mà Lời của Chúa Giêsu xuất hiện trong Tin Mừng Gioan:

*  Nicôđêmô là một nhà thông thái nghĩ rằng ông biết tất cả về Thiên Chúa.  Ông quan sát Chúa Giêsu với cuốn sách Luật của Môisen trong tay ông để xem liệu những điều mới được công bố bởi Đức Giêsu có phù hợp với cuốn sách không.  Trong cuộc trò truyện, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho Nicôđêmô (và cho tất cả chúng ta) rằng cách duy nhất để một người có thể hiểu được những việc về Thiên Chúa là phải tái sinh lần nữa!  Điều tương tự cũng xảy ra ngày nay.  Thông thường, chúng ta cũng giống như Nicôđêmô: chúng ta chỉ chấp nhận những điều gì hợp với sự suy nghĩ của chúng ta thôi.  Ngoài ra chúng ta bác bỏ tất cả, nghĩ rằng nó trái ngược với truyền thống.  Nhưng không phải tất cả mọi việc là như thế này.  Có những người để cho mình được ngạc nhiên bởi những sự kiện và có những người không ngần ngại khi tự nhủ:  “Hãy sinh ra một lần nữa!”

*  Khi nhớ lại những lời của Chúa Giêsu, tác giả Phúc Âm đã có trước mắt của ông tình trạng của cộng đoàn vào cuối thế kỷ thứ nhất, và vì những người này mà ông đã viết.  Những nghi ngờ của ông Nicôđêmô cũng là những nỗi hoài nghi của các người trong cộng đoàn.  Vì thế, câu trả lời của Chúa Giêsu cũng là để trả lời cho cộng đoàn.  Rất có thể, cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô là một phần của giáo lý rửa tội, bởi vì văn bản nói rằng người ta phải được tái sinh trong nước và Chúa Thánh Thần (Ga 3:6).  Trong bài bình luận ngắn gọn sau đây, chúng ta tập trung vào những ý chính xuất hiện trong văn bản và là trung tâm điểm của Tin Mừng Gioan.  Chúng được dùng như những chữ chính cho việc đọc toàn bộ cuốn Tin Mừng.  

b)  Lời bình giải về đoạn Tin Mừng 

*  Ga 3:16:  Yêu là cho đi chính mình vì lợi ích của tình yêu.  Trước hết, chữ tình yêu chỉ về một trải nghiệm sâu sắc trong mối quan hệ giữa người và người.  Nó bao gồm những cảm xúc và các giá trị như hân hoan, buồn rầu, đau khổ, tăng trưởng, từ bỏ, hiến dâng, nhận thức, quà tặng, sự cam kết, cuộc sống, cái chết, v.v.  Trong Cựu Ước, những giá trị và cảm xúc này được tóm tắt trong chữ “hesed”, trong Kinh Thánh của chúng ta, thường được dịch là lòng bác ái, lòng thương xót, sự trung thành hay tình yêu.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu mặc khải cho thấy tình yêu này của Thiên Chúa trong những gặp gỡ của Người với dân chúng.  Người mặc khải điều này qua các cảm xúc của tình bằng hữu, sự tử tế, ví dụ như là trong mối quan hệ của Chúa với gia đình chị em bà Martha tại Bêtania:  “Chúa Giêsu quý mến bà Martha, các em bà là Maria và Lagiarô”.  Người đã rơi lệ tại mồ của Lagiarô (Ga 11:5, 33-36).  Chúa Giêsu phải đối diện với sứ vụ của Người như là sự biểu lộ của tình yêu:  “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình … Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1).  Trong tình yêu này, Chúa Giêsu mặc khải danh phận sâu sắc của Người với Chúa Cha:  “Như Cha đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu thương như vậy!”  (Ga 15:9).  Người cũng nói với chúng ta:  “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con!”  (Ga 15:12).  Gioan định nghĩa tình yêu như sau:  “Điều này đã dạy chúng ta tình yêu là gì – đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta; như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng mình vì anh em chúng ta”. (1Ga 3:16).  Không có một giới răn nào khác ngoài giới răn này cho cộng đoàn, “phải sống cùng đời sống như của Đức Giêsu (1Ga 2:6).  Những ai sống, yêu và bày tỏ nó trong lời nói và thái độ, sẽ trở thành Người Môn Đệ Chúa Yêu.

*  Ga 3:17:  Chúa yêu thương thế gian và đã hiến mạng sống mình để cứu độ thế gian.  Chữ thế gianđược tìm thấy 78 lần trong Tin Mừng của Gioan, nhưng với những ý nghĩa khác nhau.  Trước hết, “thế gian” có nghĩa là trái đất, không gian sinh sống bởi loài người (Ga 11:9; 21:25) hoặc vũ trụ được tạo dựng (17:5-24).  Trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, “thế gian” có thể có nghĩa là những người sống ở trái đất này, toàn thể nhân loại, được yêu thương bởi Thiên Chúa, Đấng đã ban Con Một Người vì lợi ích của thế gian (Ga 1:9; 4:42; 6:14; 8:12).  Nó cũng có thể có nghĩa là thiên hạ, trong ý nghĩa của “toàn thể thế giới” (Ga 12:19; 14:27).  Tuy nhiên, hơn hết cả, trong Tin Mừng của Gioan chữ “thế gian” có nghĩa là nhân loại để đối lại với Chúa Giêsu và như thế trở thành kẻ “đối nghịch” hoặc “đối lập” (Ga 7:4-7; 8:23-26; 9:39; 12:25).  “Thế gian”, trái với việc giải thoát của Chúa Giêsu, bị chi phối bởi sự thù nghịch, Satan, cũng được gọi là “thủ lãnh thế gian” (14:30; 16:11), là những kẻ ngược đãi và tàn sát các cộng đoàn tín hữu (16:33), tạo ra sự bất công, áp bức, duy trì bởi những kẻ cầm quyền, bởi những kẻ cai trị trong đế quốc và hội đường.  Họ nhân danh Thiên Chúa mà thực hành sự bất công (16:2).  Niềm hy vọng mà Tin Mừng của Gioan mang đến các cộng đoàn là Chúa Giêsu sẽ chiến thắng thủ lãnh của thế gian này (12:31).  Người dũng mãnh hơn “thế gian”.  “Trong thế gian, các con sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng hãy can đảm lên:  Thầy đã thắng thế gian” (16:33).    
      
*  Ga 3:18:  Con Một Thiên Chúa Đấng đã dâng hiến mạng sống mình cho chúng ta:  Một trong những danh hiệu cổ xưa nhất và trang trọng nhất mà các Kitô hữu tiên khởi đã dùng để mô tả sứ vụ của Chúa Giêsu là Đấng Che Chở.   Tiếng Do Thái gọi là Goêl.  Chữ này thường được dùng để chỉ bà con gần nhất, người anh cả, người có bổn phận phải chuộc lại những người anh em mình có thể đang bị đe dọa mất hết tài sản của họ (Lv 25:23-55).  Vào thời kỳ lưu đày ở Babylon, mọi người, luôn cả người bà con gần nhất, mất hết tất cả.  Khi ấy, Thiên Chúa đã trở thành Đấng Che Chở (Goêl) của dân Người.  Chúa đã chuộc lại dân Người khỏi ách nô lệ.  Trong Tân Ước, chính là Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, trưởng tử, người thân nhân gần nhất, đã trở thành Đấng Che Chở (Goêl) của chúng ta.  Thuật ngữ hoặc danh hiệu này được phiên dịch một cách đa dạng như vị cứu tinh, đấng cứu chuộc, người giải phóng, đấng bào chữa, người anh cả, đấng an ủi, vân vân… (Lc 2:11; Ga 4:42; Cv 5:31; v.v.).  Chúa Giêsu lãnh lấy trách nhiệm che chở và cứu chuộc gia đình của Người, dân của Người.  Chúa đã tự hy sinh trọn vẹn và hoàn toàn để chúng ta, các anh chị em của Người, có thể được sống lại trong tình yêu thương anh em.  Đây là sự phục vụ Người ban cho chúng ta.  Điều đó cũng khiến cho lời tiên tri của ngôn sứ Isaia công bố về một Đấng Mêssia Tôi Tớ được viên mãn.  Chúa Giêsu đã nói:  “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc (goêl) muôn người!” (Mc 10:45).  Thánh Phaolô nói lên sự phát hiện này trong lời sau đây:  “Người đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi!” (Gl 2:20).

c)  Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong bài viết của Gioan:

*  Niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh là sự khởi đầu và kết thúc của đức tin chúng ta.  Bất cứ điều gì chúng ta nói hôm nay với mức độ rất rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, có thể được tìm thấy trong Tân Ước.  Nó được tìm thấy ở đó dưới hình thức hạt giống và được phát triển qua nhiều thế kỷ.  Trong số bốn thánh sử, thánh Gioan là người đã giúp chúng ta nhiều nhất để hiểu rõ mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi. 
Gioan nhấn mạnh đến sự hợp nhất sâu xa giữa Chúa Cha và Chúa Con.  Sứ vụ của Chúa Con là mặc khải về tình yêu của Chúa Cha (Ga 17:6-8).  Chúa Giêsu đến để công bố:  “Chúa Cha và Ta là một” (Ga 10:30).  Có sự hợp nhất như thế, để cho những ai trông thấy Chúa Con tức cũng là trông thấy Chúa Cha. Bằng vào sự mặc khải về Chúa Cha, Đức Giêsu truyền đạt một thần khí mới “Thần Khí Sự Thật phát xuất từ Chúa Cha” (Ga 15:26).  Theo lời cầu xin của Chúa Con (Ga 14:16), Chúa Cha sẽ ban cho mỗi người chúng ta Thần Khí mới này để ở lại với chúng ta luôn mãi.  Thần Khí này, xuất phát từ Chúa Cha (Ga 14:16) và từ Chúa Con (Ga 16:7-8) cho thấy sự hiệp nhất sâu xa hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con (Ga 15:26-27).  Người Kitô hữu đã nhìn thấy sự hiệp nhất trong Thiên Chúa để hiểu ra rằng sự hiệp nhất cũng cần phải thể hiện trong số họ. (Ga 13:34-35; 17:21).
Ngày nay chúng ta nói:  Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Sách Khải Huyền viết:  Người là Đấng hiện có, đã có, và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, và từ Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian (Kh 1:4-5).  Với các danh hiệu này, Gioan nói cho chúng ta biết những gì mà các cộng đoàn nghĩ và hy vọng được nhận lãnh ân sủng từ Chúa Cha, trong Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
     
Chúng ta hãy xem:

i)  Nhân danh Cha:  Đấng Trước Hết và Sau Cùng (Alpha và Omega), Đấng Hiện Có, Đấng Đã Có, Đấng Đang Đến, Đấng Toàn Năng.

Đấng Khởi Nguyên và Cùng Tận.  Chúng ta có thể nói Đấng từ A đến Z (xem Is 44:6; Kh 1:17).  Thiên Chúa là sự khởi đầu và kết thúc của lịch sử.  Không có chỗ nào cho một Chúa khác!  Các Kitô hữu không thể chấp nhận sự giả dối của Đế Quốc La Mã đã thần thánh hóa các hoàng đế của họ.  Không có điều gì xảy ra trong đời sống mà có thể được diễn giải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên đơn giản, ngoài sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa chúng ta.
Đấng Hiện Có, Đã Có, Đang Đến (Kh 1:4-8; 4:8).  Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa xa vời.  Người đã ở với trong chúng ta trong quá khứ, đang ở với chúng ta trong hiện tại, sẽ ở với chúng ta trong tương lai.  Người hướng dẫn lịch sử, ở trong lịch sử, đồng hành với dân của Người.  Lịch sử của Thiên Chúa là lịch sử của dân Người.
Đấng Toàn Năng.  Đây là một vương hiệu dành cho các vua chúa sau Đại Đế Alexander.  Đối với các Kitô hữu, vị vua đích thực là Đức Chúa Trời.  Danh hiệu này thể hiện quyền năng tác tạo mà Người dùng để hướng dẫn dân Người.  Danh hiệu tăng thêm sự chắc chắn của chiến thắng và thôi thúc chúng ta phải ca hát lên, ngay cả lúc này, niềm hân hoan về một Trời Mới và Đất Mới (Kh 21:2).       

ii)  Nhân danh Chúa Con:  Vị Chứng Nhân Trung Thành, Trưởng Tử trong số những người chết, Thủ Lãnh của các vua trên trần gian.
Vị Chứng Nhân Trung Thành:  Chứng nhân đồng nghĩa với người tử đạo.  Đức Giêsu đã có can đảm làm chứng cho Tin Mừng của Thiên Chúa Cha.  Người đã trung thành cho đến chết, lời đáp trả của Thiên Chúa là sự phục sinh (Pl 2:9; Dt 5:7).
Trưởng Tử trong số những người chết:  Trưởng tử cũng giống như người anh cả (Cl 1:18).  Đức Giêsu là trưởng tử trong số những người chết chỗi dậy.  Sự chiến thắng cõi chết của Người cũng sẽ là của chúng ta, các anh chị em của Người!
Thủ Lãnh của các vua trên trần gian:  Đây là một danh hiệu được trao cho các Hoàng Đế La Mã như một sự tuyên truyền chính thức.  Các người Kitô hữu đã trao danh hiệu này cho Đức Kitô.  Tin vào Đức Kitô bị xem như là một hành động nổi loạn chống phá lại đế chế và hệ thống tư tưởng của nó.
Ba danh hiệu sau đây xuất phát từ Thánh Vịnh 89, ở đó Đấng Cứu Thế được gọi là vị Chứng Nhân Trung Thành (Tv 89:38), là Trưởng Tử (Tv 89:28), Đấng Cao Cả hơn các vua chúa trần gian (Tv 89:28).  Các Kitô hữu tiên khởi lấy nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh để xây dựng học thuyết của họ.

iii) Nhân danh Chúa Thánh Thần:  Bảy ngọn đuốc, Bảy mắt, Bảy thần khí.
Bảy ngọn đuốc:  Theo sách Khải Huyền 4:5, điều này đã được viết rằng bảy thần khí là bảy ngọn đuốc cháy sáng trước Ngai Tòa Thiên Chúa.  Có bảy bởi vì chúng đại diện cho sự sung mãn của kỳ công Thiên Chúa trên thế gian.  Có bảy ngọn đuốc cháy sáng, bởi vì chúng tượng trưng cho tác động của Chúa Thánh Thần Đấng soi sáng, làm mới và thanh tẩy (Cv 2:1).  Những ngọn đuốc đứng trước Ngai Tòa luôn luôn sẵn sàng đáp ứng bất cứ mệnh lệnh nào của Thiên Chúa.
Bảy mắt:  Sách Khải Huyền 5:6 viết rằng Chiên Con có bảy mắt, tượng trưng cho bảy thần khí Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất.  Thật là một hình ảnh đẹp!  Chỉ cần nhìn vào Chiên Con là có thể thấy Thần Khí Chúa làm việc ở nơi mà Chiên Con nhìn đến, bởi vì mắt của Người là mắt của Thần Khí Chúa. Chính Người là Đấng luôn dõi theo chúng ta!
Bảy Thần Khí:  Số bảy gợi lại bảy ơn của Chúa Thánh Thần được đề cập đến trong sách của ngôn sứ Isaia và sẽ ngự lại trên Đấng Cứu Thế (Is 11:2-3).  Lời tiên tri này chứng thực trong Đức Giêsu.  Bảy Thần Khí của Thiên Chúa đồng thời cũng là của Chúa Giêsu.  Cùng một danh tính của Chúa Thánh Thần với Chúa Giêsu xuất hiện ở cuối của mỗi bảy lá thư.   Chính Đức Kitô đã nói trong những lá thư, và tại cuối mỗi lá thư chúng ta đọc, Người lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần nói với các Giáo Hội.  Chúa Giêsu nói, tức là Chúa Thánh Thần nói.  Cả hai là một.        
                                                                                                                                        
6.  Thánh Vịnh 63:1-9                                                                                                               
Lạy Chúa, linh hồn con khát khao Ngài!
Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.

Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét