Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

Nền ngoại giao nghịch thường của Đức Phanxicô

Nền ngoại giao nghịch thường của Đức Phanxicô

Đức Phanxicô đã đặt một nhà ngoại giao chuyên nghiệp đứng đầu Phủ Quốc Vụ Khanh một lần nữa, đó là Đức HY Pietro Parolin. Nhưng dưới triều đại ngài, chính sách ngoại giao của Vatican đã thay đổi hẳn. Nhiều người, như Sandro Magister, gọi đây là nền ngoại giao của những điều bất khả. 

Chiến tranh thế giới đánh và thắng nhờ những người vĩ đại như Đức Gioan Phaooô II đã đi vào quá khứ. Trong thời của những cuộc tranh chấp được cá nhân hóa, của những nhà độc tài, của những phe phái vũ trang, của những quốc bị phân mảnh và thất bại, cả đến nền ngoại giao cũng được cá nhân hóa, trở thành một thứ “thủ công” nghệ, như chính Đức Phanxicô hay nói. Á Căn Đình của ngài không phải là Ba Lan, nơi cả một Giáo Hội vững như bàn thạch và trung thành như chiên con chống lại nền độc tài khát máu. Dưới gót giầy cai trị của quân đội, Giáo Hội Á Căn Đình trở thành hồ đồ và chia rẽ. Nhà tu sĩ trẻ tuổi Dòng Tên Jorge Mario Bergoglio đành hành động theo phán đoán riêng của mình, một cách hết sức âm thầm và cô đơn nhưng rất có hiệu quả. 

Ngày nay, làm gì, ngài cũng làm công khai. Nhưng vẫn với những cử chỉ có tính bản vị cao, xem ra không quen thuộc bao nhiêu đối với những nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Như mời hai nguyên thủ quốc gia Do Thái và Palestine tới cầu nguyện tại Vatican, chẳng hạn.

Chính ngài tâm sự sau này, “tại Vatican, 99 phần trăm người ta cho rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thành công cả”. Hóa ra, cảm thức của 1 phần trăm do ngài đại diện lại không sai chút nào. 

Ngay trong các việc chuẩn bị phức tạp cho cuộc gặp gỡ thượng đỉnh, Đức Phanxicô cũng đã một mình sắp xếp mọi chuyện. Ngài chỉ để các nhà ngoại giao chuyên nghiệp làm những chuyện vụn vặt. Ngài thích được sự giúp đỡ của một tu sĩ Phanxicô, người trông coi Đất Thánh, là Cha Pierbattista Pizzaballa, và của nhà báo Do Thái, phóng viên của tờ “La Vanguardia" ở Barcelona, là Henrique Cymerman.

Nơi nào ngoại giao thất bại, Đức Phanxicô nhập cuộc theo cách riêng của ngài. 

Bằng im lặng, như khi bất ngờ dừng chân trước bức tường phân cách ở Bêlem.

Bằng cầu nguyện và ăn chay, như cho Syria ngày 7 tháng 9, khi ngài quì trước ảnh Đức Mẹ, đọc kinh Mân Côi tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô.

Bằng dâng Thánh Lễ, ngày 8 tháng 7 tại Đảo Lampedusa, trên một bàn thờ làm bằng gỗ của chiếc thuyền bị đắm, cầu nguyện cho di dân và người tị nạn.

Đức Phanxicô tay không đi tới các chiến tuyến xa xôi nhất của thế giới, chỉ đem theo mình các vũ khí thiêng liêng. Điều con người không làm được, ngài đặt vào bàn tay Thiên Chúa. Syria ngày nay tan hoang hơn trước. Địa Trung Hải đầy rẫy thuyền tị nạn hơn bao giờ hết. Chỉ ít ngày sau buổi cầu nguyện của Shimon Peres và Abu Mazen, một phe của Palestine đã bắt cóc ba học sinh Do Thái. Nhưng nền ngoại giao của Đức Phanxicô vẫn sống còn dù chịu các thất bại này. Nó là nền ngoai giao của những điều bất khả. 

Thực ra, trong đạo Công Giáo, từng đã có nhiều tiền lệ như thế. Năm 1969, hai năm sau Cuộc Chiến Sáu Ngày, thị trưởng thánh thiện của Florence, Giorgio La Pira, đã đem được các nhà lãnh đạo Ả Rập và Do Thái tới Hebron để cùng cầu nguyện cho hòa bình cạnh mộ Ápraham. 

Gandhi và Martin Luther King cũng đều là những nhà “duy ảo tưởng” sáng chói, dù họ biết phải kèm giấc mơ của họ với nghệ thuật chính trị ra sao. 

Đức Phanxicô cũng có cùng một tham vọng đó. Ngài không ngây thơ. Ngài kèm lời nói và sự im lặng của ngài với một kỹ thuật tinh xảo, giống bất cứ tu sĩ Dòng Tên nào. 

Ngài vốn nói và từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng số Kitô hữu bị bách hại vì đức tin của mình hiện đông hơn các thế kỷ đầu tiên của Kitô Giáo. Nhưng ngài tránh, không công khai thách thức những người bách hại hiện nay. Ngài nói với tờ “La Vanguardia” rằng: “tôi biết nhiều điều về bách hại nhưng hình như không khôn ngoan cho tôi bao nhiêu khi thuật lại điều này”. 

Giữa tháng 5 vừa qua, giữa ngày có tin tại Sudan Hồi Giáo, một người vợ và là bà me trẻ tên Meriam Yahya Ibrahim bị kết án tử hình chỉ vì là Kitô Hữu, Đức Phanxicô tiếp tân đại sứ của Sudan tại Vatican. Nhưng ngài không nói lời nào nhắc tới việc này. Cả mấy ngày sau cũng thế. Hoàn toàn im lặng, bất chấp cả thế giới xôn xao phản đối đòi giải thoát người đàn bà này. 

Ai cũng đã hay, sau đó, người đàn bà đã được cứu ra sao. Do ai? Chỉ biết nhân dịp này Đức HY Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh giải thích: “Tòa Thánh tìm những cách can thiệp hữu hiệu nhất, mà không phải luôn luôn là cách hò hét”. 

Không lạ gì, Đức Phanxicô là người hết lòng bênh vưc sự im lặng của Đức Piô XII thời Thế Chiến II, nhờ sự im lặng này mà “họ (Quốc Xã) không sát hại thêm người Do Thái”.
Vũ Văn An6/20/2014(vietcatholic)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét