05/07/2014
Thứ Bảy sau Chúa Nhật
13 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Am 9, 11-15
"Ta
sẽ đem dân Ta bị lưu đày trở về, và sẽ trồng họ trên đất của họ".
Trích
sách Tiên tri Amos.
Ðây
Chúa phán: "Trong ngày ấy, Ta sẽ dựng lại nhà xếp của Ðavít đã xiêu đổ, Ta
sẽ lấp những lỗ hổng nơi tường, trùng tu lại những gì đổ nát. Ta sẽ xây dựng lại
như ngày xưa, để chúng chiếm hữu những gì còn sót của Êđom và tất cả các dân tộc,
vì chúng đã xưng tụng danh Ta".
Chúa
hoàn thành những việc Chúa đã phán như thế. Và Chúa còn phán: "Ðây đã đến
những ngày mà người cày ruộng tiếp nối người thợ gặt, kẻ ép nho tiếp nối người
gieo giống. Từ các núi non, rượu nho mới sẽ chảy tuôn tràn, và từ các đồi, rượu
sẽ vọt ra lai láng. Ta sẽ đem Israel dân Ta bị lưu đày trở về. Họ sẽ xây lại
các thành phố bị bỏ hoang và cư ngụ tại đó. Họ sẽ trồng nho và sẽ uống rượu
nho. Họ sẽ lập vườn, và sẽ ăn quả sinh ra ở nơi ấy. Ta sẽ trồng họ trên đất của
họ, và không khi nào họ bị nhổ ra khỏi đất Ta đã ban cho họ. Chúa là Thiên Chúa
của ngươi phán như thế".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14
Ðáp: Chúa phán bảo
về sự bình an cho dân tộc của Người (c. 9).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những
ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.
2)
Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau; đức công minh và sự bình an hôn nhau
âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
- Ðáp.
3)
Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông
trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lối bước
của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 9, 14-17
"Làm
sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi:
"Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của
Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc
cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra
đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải
mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới
vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới
thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Thái
độ dứt khoát
Phanxicô
được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất
cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên
bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người
môn đệ: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình". Nếu chính bản thân mà còn
phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được
Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ
Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân
giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước.
Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ
đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi
tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế
mà con người mong đợi.
Theo
truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi
Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ
trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người
thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi
vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống
bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của
Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm
môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống
tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn
nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ
không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu.
Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho
Ngài. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là
chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 14 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Isa 6:1-8; Mt
10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ phải nói những
gì Thiên Chúa truyền.
Các
bài đọc hôm nay tập trung trong ơn gọi ngôn sứ và những gì ngôn sứ phải làm.
Trong bài đọc I, Isaiah tường thuật ơn gọi ngôn sứ của chính mình. Ơn gọi ngôn
sứ bắt nguồn từ Thiên Chúa, không do bởi con người, nhưng họ có tự do đáp trả.
Họ được thánh hiến và giáo huấn trước khi được sai đi để làm phát ngôn viên cho
Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ những gì phải làm và những
gì không được làm trước khi sai các ông lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thiên Chúa gọi Isaiah làm ngôn sứ cho Ngài.
1.1/
Ngôn sứ nhận thức được sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của mình.
Ngôn
sứ Isaiah hoạt động tích cực tại Jerusalem trong 4 đời vua: Uzziah, Jotham,
Ahaz và Hezekiah. Triều đại của vua Uzziah cai trị trong 50 năm chấm dứt một
triều đại an lành và hạnh phúc. Từ đó trở đi, các vua Judah kế tiếp và toàn thể
dân chúng cũng chẳng khác gì các vua của Israel. Họ sống kiêu ngạo xa Thiên
Chúa, sống hưởng thụ, và sống bất công với người nghèo.
Một
trong những điểm đặc biệt trong Sách của ngôn sứ Isaiah là muốn làm nổi bật sự
thánh thiện của Thiên Chúa và sự tội lỗi của con người. Trình thuật hôm nay là
một điển hình. Thị kiến hôm nay có lẽ xảy ra trong Đền Thờ Jerusalem. Hình ảnh
các Seraphim có 6 cánh rất phổ thông trong các quốc gia vùng Cận Đông. Khi các
Seraphim tung hô "Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng
Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!" các Ngài tuyên dương sự
thánh thiện tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, không một ai trên bầu trời này thánh thiện
như Ngài. Đền Thờ tỏa khói mịt mù nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài
người, như Ngài đã từng hiện diện với con cái Israel trong Cột Mây và Lều Hội
Ngộ, khi họ lang thang 40 năm trong sa mạc.
Khi
nhận diện ra sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa cũng là lúc Isaiah nhận ra sự
tội lỗi bất xứng của mình, đến nỗi Isaiah phải thốt lên: "Khốn thân tôi,
tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng
ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!" Truyền thống
Do-thái tin không một ai nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống (Exo 33:20). Isaiah
tin chắc ông sẽ phải chết nếu Thiên Chúa không can thiệp.
1.2/
Ngôn sứ được thánh hiến bằng lửa: Trình thuật kể: “Một trong các thần Seraphim bay về
phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ.”
Thánh hiến bằng than hồng có lẽ là một hành động biểu trưng cho sự thánh hiến
tâm hồn của Isaiah. Chính hành động này đã làm cho ngôn sứ Isaiah được sạch tội
và khỏi phải chết, như lời sứ thần Seraphim tuyên bố: "Đây, cái này đã chạm
đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội." Miệng lưỡi của ngôn sứ là
khí cụ quan trọng nhất trong sứ vụ của ngôn sứ; có lẽ đây là lý do sứ thần đưa
hòn than ấy chạm vào miệng ngôn sứ.
Ơn
gọi ngôn sứ là ơn gọi hoàn toàn tự nguyện: Thiên Chúa gọi và người được gọi đáp
trả. Thiên Chúa mời gọi ngôn sứ qua việc đặt câu hỏi: "Ta sẽ sai ai đây?
Ai sẽ đi cho chúng ta?" Isaiah được sự thúc đẩy từ bên trong đã mạnh dạn
thưa: "Dạ, con đây, xin sai con đi."
2/
Phúc Âm:
Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày.
2.1/
Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành
của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1)
Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người
môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết
Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn
thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm
rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."
Trong
khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người
phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những
điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn
chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang
khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu
cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải
sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2)
Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị
chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng;
ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều
này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ:
"Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được
tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em
lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy
lên mái nhà rao giảng."
Khi
làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả
tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để
làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh
quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.
(3)
Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này,
Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ
chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài
ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ."
Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng
đếm cả rồi." Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu
một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới,
huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.
Trong
sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử
thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn
tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/
Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ
ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."
Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy
trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào không dám tuyên xưng
danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là
môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người
như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Ngôn sứ phải nói những gì Thiên Chúa truyền, cho dù lời ấy người đời không
thích. Khi người ngôn sứ nói ngược lại những lời Thiên Chúa truyền, ông tuyên
án cho chính mình.
-
Mỗi tín hữu đều nhận ơn gọi làm ngôn sứ cho những người có trách nhiệm. Chúng
ta phải chu toàn bổn phận được giao bằng việc trao ban cho tha nhân những lời dạy
của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 13 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 9,14-17
A. Hạt giống...
Nhân dịp trả lời cho các môn đệ của Gioan Tẩy giả
về việc an chay, Chúa Giêsu cho biết ý nghĩa và tinh thần của việc đạo đức này
:
- Ăn chay không phải chỉ để chu toàn quy định của
luật
- Mà là để bày tỏ nỗi buồn khi phải xa cách
"chàng rể", nghĩa là do tội mà phải xa cách Chúa.
- Tâm tình căn bản của người môn đệ Chúa trong
thời Tân Ước là tâm tình vui mừng vì được sống với "chàng rễ".
B.... nẩy mầm.
1. Thánh Phaolô đã kêu gọi "Anh em hãy vui
lên. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui luôn trong Chúa". Kitô
giáo là đạo của niềm vui vì là đạo của ơn cứu thoát và là đạo của Tin Mừng. Tâm
tình thường xuyên của tôi phải là vui mừng trong Chúa. Và niềm vui của tôi còn
phải tỏa lan sang cho những người sống chung quanh tôi nữa.
2. Cho dù cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có là trọng
tâm của Kitô giáo, cho dù hy sinh khổ chế có là con đường tu đức của các kitô
hữu, thì Tin Mừng vẫn là tên gọi của Đạo Chúa. Kitô giáo thiết yếu là một Tin
Mừng, một Tin Mừng để đón nhận, để sống và để loan báo. Mà nói đến Tin Mừng là
nói đến hân hoan (Chờ đợi Chúa).
3. Người ai cập ăn chay để được trẻ trung hơn.
Người hi lạp ăn chay để tinh thần được nhanh nhẹn
hơn.
Người thổ dân Nam mỹ ăn chay để bày tỏ lòng can
đảm.
Người vẻ tượng thánh ăn chay để vẽ cho đẹp hơn.
Người do thái ăn chay để ăn năn tội, để thương
tiếc kẻ chết, để xin Chúa đặc biệt trợ giúp, để chuẩn bị đón Chúa đến.
Người kitô hữu không ăn chay vì những lý do trên,
bởi Chúa đã đến rồi, nhưng ăn chay để đón chờ Chúa lại đến, để Danh Chúa hiển
sáng, Nước Chúa trị đến và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Như thế, ăn chay đối với người kitô hữu cũng có
nghĩa là dấn thân cho một thế giới mới, xây dựng một trật tự và một nếp sống
mới trong những tương quan mới với Chúa và anh em.
Xin cho con biết chết đi cho tội lỗi, để sống lại
với Chúa và cho Chúa (Hosanna).
4. Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà
truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy
nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thoả chí.
Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình
ngài nói :
- Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn
Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.
Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản
nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó.
Đâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui ?
Vì một đàng là biểu hiện của sức khoẻ tâm linh, một đàng là của sức khoẻ thể
xác. (Góp nhặt)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
05/07/14 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 13 TN
Th. An-tôn Ma-ri-a Da-ca-ri-a, linh mục
Mt 9,14-17
Th. An-tôn Ma-ri-a Da-ca-ri-a, linh mục
Mt 9,14-17
Suy niệm: Hình ảnh áo vá và rượu trong bầu da hình như
không còn quen thuộc lắm nữa. Nếu Chúa nói chuyện với thính giả hôm nay, hẳn
Ngài sẽ dùng những hình ảnh khác. Dù sao, cốt lõi sứ điệp vẫn rất rõ: Cần thích
nghi để phù hợp! Ngữ cảnh ở đây là sự giải thích của Đức Giê-su: Vì chàng rể
đang hiện diện, nên các bạn hữu không ăn chay. Như vậy, chính sự hiện diện của
Đức Giê-su, tức của Tin Mừng, của Nước Trời, làm nên yếu tố mới mẻ và đòi người
ta phải ứng xử phù hợp với yếu tố mới mẻ này. Tin Mừng Mát-thêu giới thiệu một
loạt những cái mới nơi Đức Giê-su và nơi giáo huấn của Ngài: yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ (chương 5), không
phô trương khi làm việc lành phúc đức (chương 6)… Người ta chống Đức Giê-su vì họ
thích yên ổn trong nếp sống nếp nghĩ cũ hơn là chấp nhận bị xáo trộn để thay
đổi cho phù hợp với tính mới mẻ mà Ngài đem lại!
Mời Bạn: Đức
Giê-su và giáo huấn của Ngài có đang bị đề kháng bởi chính chúng ta là những
người mang danh môn đệ Ngài? Bài học “rượu mới bầu da mới” hình như vẫn còn đầy
thách đố cho Giáo hội hôm nay. Mỗi khi chúng ta không dung nạp tinh thần của
Đức Giê-su, không suy nghĩ, phản ứng theo Tin Mừng, thì hoặc là chúng ta có vấn
đề, hoặc là Đức Giê-su và Tin Mừng của Ngài có vấn đề. Chúng ta phải sửa cho
phù hợp với Đức Giê-su, hay là Đức Giê-su phải sửa cho phù hợp với chúng ta?
Sống Lời Chúa: Ta
tập tự vấn trong mỗi ý nghĩ và hành động của mình: Tôi đang theo ai đây? Theo
một ai đó, theo chính mình, hay theo Chúa Giê-su?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con biết chọn Chúa và theo Chúa một cách
đích thực hơn. Amen.
Giữ được cả hai
Kitô hữu được định nghĩa là những người luôn sống
trong niềm vui, bất chấp những bách hại và giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Suy niệm:
Mỗi năm người Do thái dành
một ngày chính thức để cả nước ăn chay.
Đó là ngày lễ Xá tội (Lv 23,
29).
Tuy nhiên cũng có những ngày
ăn chay khác có tính tập thể
để kỷ niệm những biến cố đau
buồn của dân tộc.
Ngôn sứ Giôen đã mời người
ta ăn chay, khóc lóc và than van (Ge 2, 12).
Vào thời Đức Giêsu, các môn
đệ của Gioan Tẩy Giả và nhóm Pharisêu
còn ăn chay do lòng đạo đức
riêng, có người hai lần một tuần (Lc 18, 12).
Nhìn chung bầu khí ăn chay
không phải là bầu khí vui tươi phấn khởi.
Bởi đó có người cố mang bộ
mặt rầu rĩ để khoe là mình đang ăn chay.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu bị các môn đệ của
Gioan tra hỏi
về chuyện tại sao các môn đệ
của Ngài lại không ăn chay như họ (c. 14).
Đối với họ ăn chay là một
việc đạo đức quan trọng, không thể thiếu
trong đời sống của một nhóm
như nhóm các môn đệ Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trả lời họ bằng
một câu hỏi khác.
Gián tiếp Ngài nhận mình là
chàng rể, các môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Chính vì thế chuyện ăn chay
than khóc hoàn toàn không hợp chút nào.
Bầu khí vui tươi là nét đặc
trưng của thời kỳ Đấng Mêsia đến.
Đúng là cần phải sám hối, vì
Nước Trời đã đến rồi (Mt 4, 17),
nhưng Nước Trời được ví như
một tiệc cưới lớn (Mt 22, 1-14; 25, 1-13),
nên phải đón lấy Nước này
trong niềm vui của ngày hội.
Chỉ khi nào chàng rể Giêsu
bị đem đi trong cuộc Khổ nạn,
khi ấy các môn đệ của Ngài
mới ăn chay.
Các Kitô hữu sơ khai vẫn giữ
việc ăn chay (Cv 13, 2; 14, 23; 2 Cr 6, 5)
đặc biệt vào những ngày thứ
tư và thứ sáu (sách Điđakhê 8, 1),
thay vì thứ hai và thứ năm
như người Do thái.
Nhưng họ ăn chay không phải
để chờ một Đấng chưa đến,
mà để chuẩn bị lòng mình đón
đợi một Đấng sắp lại đến trong vinh quang.
Đức Giêsu đem đến những giáo
huấn và tinh thần mới mẻ.
Liệu có thể ghép những cái
mới đó vào cái khung của lối sống cũ không?
Bằng hai ví dụ, Ngài cho
thấy điều đó khó thực hiện và gây nguy hại.
Miếng vải mới được vá vào
chiếc áo cũ, sẽ co lại và làm áo rách thêm.
Rượu mới được đổ vào bầu da
cũ, thì bầu sẽ bị nứt mà rượu lại chảy ra.
Đối với Đức Giêsu, muốn giữ
được cả bầu lẫn rượu mới, thì cần có bầu mới.
Bầu mới chính là cách sống
mới Luật Tôra của Thiên Chúa
như đã được Ngài giải thích
lại trong Bài Giảng trên núi.
Kitô hữu được định nghĩa là
những người luôn sống trong niềm vui,
bất chấp những bách hại và
giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Chàng rể đã bị đem đi, nhưng
Chàng rể vẫn đang ở lại (Mt 28, 20).
Bầu khí của tiệc cưới và
rượu mới
vẫn là bầu khí của mọi cộng
đoàn Kitô hữu hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy
niệm
Ăn chay
là một trong ba việc tốt (ăn chay, cầu nguyện và bố thí) mà một người Do thái
đạo đức thường làm. Các nhóm tôn giáo trong thời Chúa Giêsu cũng thường ăn chay
để tỏ lòng thánh thiện.
Các môn
đệ của Gioan Tẩy Giả và những người biệt phái cũng làm như thế. Nhưng họ lại
thắc mắc: Tại sao môn đệ của ông Giêsu nổi tiếng thế này lại không ăn chay như
chúng tôi hay như người biệt phái?
Chúa Giêsu trả lời cho họ
rằng: ăn chay cũng là việc tốt nhưng phải làm đúng thời điểm, nhất là đúng mục
đích. Thời vui mừng (tiệc cưới) thì không nên ăn chay. Hơn nữa ăn chay mà để
phô trương công đức thì lại càng không nên. Hình ảnh bầu da cũ và mới cùng với
rượu cũ và mới muốn nói đến thái độ thích hợp cho mọi việc, ngay cả những việc
đạo đức.
Thái độ thích hợp với thời
đại của Chúa Giêsu là đón nhận Tin mừng và việc ăn chay không phải để phô
trương công đức mà là để biến đổi mình theo Tin mừng của Chúa.
Điều đáng cho chúng ta suy
nghĩ là thái độ của các môn đệ của Gioan. Họ ăn chay và cho rằng đó là họ đạo
đức. Họ cũng muốn người khác giống như họ. Nếu không giống như họ thì không
phải đạo đức.
Nhiều khi đó cũng là thái độ
của chúng ta. Chúng ta tự cho mình là đạo đức và đòi hỏi người khác cũng giống
như mình. Thậm chí, chúng ta còn dùng chính việc đạo đức của mình để làm tiêu
chuẩn xét đoán người khác. Ai không sống theo kiểu của chúng ta thì không đạo
đức.
Xin Chúa giúp chúng con biết
khiêm tốn để biết lắng nghe tiếng Chúa.
Xin giúp chúng con biết cố
gắng làm những việc đạo đức để biến đổi mình mỗi ngày một tốt hơn chứ không
phải làm để phô trương, càng không phải làm để phê phán người khác. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5
THÁNG BẢY
Tính
Tự Trị Của Các Vật Thụ Tạo
Mặc
dù cách diễn tả của Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên
Chúa, chúng ta vẫn có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên
Chúa – Đấng Tạo Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa
nguyên nhân đệ nhất và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt
ra bởi con người thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức
nào? Đâu là vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế
giới?
Theo
đức tin Công Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của
Ngài có thể hiện diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một
sự tự trị nào đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu
nhiệm này. Một đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là
chính chúng: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực,
tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế
mà Thiên Chúa cai quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được
sự tự trị nào đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự
quan phòng của Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của
các loài thụ tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được
thể hiện. Chúng ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên
Chúa sẽ vẫn luôn luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi
sự (“từ chân trời này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi
sự với đầy sức sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa
lại nguyên đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới.
Đó chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
05-7
Thánh
Antôn Maria Zaccaria linh mục
Am
9, 11-15; Mt 9, 14-17.
LỜI
SUY NIỆM: “Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu
sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới; thế
là giữ được cả hai.”
Ăn
chay là điều cần thiết khi sống xa Chúa, ăn chay để chứng tỏ lòng muốn sám hối,
để chuẩn bị tâm hồn và thân xác thanh sạch hơn; để đón nhận ơn Thánh. Nối lại
tương quan với Chúa. Khi người môn đệ của Gioan đến thắc mắc với Chúa Giêsu về
việc các môn đệ của Chúa không ăn chay trong khi môn đệ của Gioan và người
Pharisêu ăn chay. Chúa Giêsu đã cho họ biết: Tất cả những ai dang có Chúa ở
cùng, đều là đang sống trong niềm vui, niềm vui của một tiệc cưới, họ không cần
phải ăn chay.
Lạy
Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết chay tịnh
trong âm thầm trước mặt Chúa bằng những cử chỉ bác ái vì Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh
mục (1502 - 1539)
Thánh
Antôn Maria Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người
góa phụ trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào
tạo tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và
biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác
ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành
Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của
người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn
khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho
người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin
cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân
mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và
Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học
ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải
cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại
là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn
Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao
trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói: - Nào chúng mình đến nghe
thiên thần của Chúa.
Tay
cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc
thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm
1528, lúc được 36 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm
viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các
nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân tộc".
Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản
và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người
bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một
hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc
thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh
Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của những
tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương
bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với
Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình
và cho người khác".
Ngài
dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu
không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống
linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau
lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh
giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc
trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy
vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng
sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một
hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của
Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường
nói: - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự
trên thế gian này nữa.
Năm
1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng
Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các thiên thần".
Năm
1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi
truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc
thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với
tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy
nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui
về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói:- Mẹ ơi ! Mẹ đừng
khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất
tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba
giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở
hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
05
Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại
thi hào Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi
còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực... Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và
hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Thế là tôi hăm hở lên
đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua
và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi:
"Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền
hành". Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ
đi...
Tôi
tiếp tục ra đi và hô lớn: "Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn". Chiều
hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà
âm thanh vang lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên
đành tiếp tục ra đi.
Tôi
tiếp tục ra đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp
chào tôi và đề nghị với tôi: "Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh
nụ cười của tôi". Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ
trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối...
Khi
tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ
và ngủ thiếp. Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa
lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi,
nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó
nói với tôi: "Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh
cả". Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa
với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối,
bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không
gì quý bằng độc lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một
cách rất xác thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta... Chúng ta tuyên xưng Chúa
Giêsu là Ðấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để
làm cho chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu
không phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do
khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét