21/07/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật
16 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Mk 6, 1-4. 6-8
"Người
hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi
ngươi".
Trích
sách Tiên tri Mikha.
Các
ngươi hãy nghe Chúa phán: "Ngươi hãy đứng lên, hãy trình bày lời tố cáo của
ngươi trước núi non, và các đồi hãy nghe tiếng của ngươi. Hỡi các núi và nền tảng
kiên cố của địa cầu, hãy nghe Chúa tố cáo dân Người và biện luận với Israel.
"Hỡi
dân Ta, Ta đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời
cho Ta biết. Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi
nhà nô lệ, và sai Môsê, Aaron và Maria đi trước mặt ngươi?"
Tôi
sẽ hiến dâng vật gì lên Thiên Chúa cho xứng đáng? Hay là tôi sấp mình trước
Thiên Chúa Tối Cao? Tôi sẽ dâng lên Người của lễ toàn thiêu và con bê một tuổi
chăng? Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo
tốt chăng? Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi
để đền chính tội tôi chăng?
Người
hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức
là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước
theo Thiên Chúa ngươi.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 49, 5-6. 8-9. 16bc-17. 21 và 23
Ðáp: Ai đi đường
ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng:
1) "Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ".
Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Ngài, vì chính Ðức Thiên Chúa,
Ngài là thẩm phán. - Ðáp.
2)
Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt
ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò con, cũng không nhận
từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
3)
Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh
ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng.
- Ðáp.
4)
Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như
ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen
ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên
Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và
chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 12, 38-42
"Nữ
hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung
ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri
Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con
Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân
thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời
tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến
ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án
nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon,
nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Dấu
Chỉ Yêu Thương
Trong
quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh
nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn
âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất
nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca
tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong
suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người
dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng
liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh
hùng, lại càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng
sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói
khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong
các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những
dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của
mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu
phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con
người.
Chúa
Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan
báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao
giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để
sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn
nói đến con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo
dựng con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho
nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa
thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập
giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi
mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu
luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của
mình, không những qua những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ
đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc
sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của
Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp
nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ
yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn
tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin
cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ,
thử thách, chúng ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Hai Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài
đọc:
Mic 6:1-4, 6-8; Mt 12:38-42
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bụt nhà không
thiêng; gần nhà gọi bụt bằng anh!
Trong
Cựu Ước, ngoài Sách tiên tri Jonah, ông cũng được đề cập đến trong 2 Kings
14:25: ông là con của Amittai, người Gathhepher. Ông hoạt động dưới triều Vua
Jeroboam II, đồng thời hay sớm hơn Hosea và Amos; vì thế ông được kể là tiên
tri sớm nhất trong các tiên tri. Trong Tân Ước, tiên tri Jonah được đề cập đến
trong Matthew 12:38-41 và Luke 11:29-32. Một số học giả chủ
trương chú giải sách của Jonah như một dụ ngôn hay so sánh và loại ra ngoài
tính lịch sử của sách vì 2 lý do: (1) phép lạ quá lớn không thể xảy ra; và (2)
thể loại của sách là tường thuật, không phải là tiên tri. Trong phụng vụ của Do
Thái, Sách Jonah được đọc trong ngày Yom Kippur (Ngày Xá Tội), vào giờ nguyện
ban trưa.
Một
trong những điều quan trọng nhất của thần học Do Thái là (Teshuva): họ có khả năng
ăn năn trở lại và được Thiên Chúa tha thứ. Và đây là điều chính yếu trong sách
của Jonah. Ông không muốn Thiên Chúa tha thứ cho kẻ thù, và vì thế ông đã từ chối
không kêu gọi dân thành Nineveh ăn năn trở lại; nhưng Thiên Chúa lại muốn ngược
lại: Ngài không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối và được
sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Liên hệ giữa Chúa và Israel
1.1/
Thiên Chúa kiện Israel: Thiên
Chúa truyền cho Micah đi nhắc lại cho Dân Chúa biết tình yêu chung thủy của
Ngài dành cho họ với sự chứng kiến của núi đồi. Tại sao cần núi đồi làm chứng?
Vì con người dễ thay đổi mau quên; nhưng núi đồi không thay đổi theo thời gian;
chúng đã chứng kiến từ đầu Chúa đã yêu và làm cho dân Chúa những gì: Ngài đã
mang dân từ đất nô lệ của Ai Cập vào vùng đất tự do đầy sữa và mật; Ngài đã gởi
đến cho dân những nhà lãnh đạo và tiên tri để điều hành và giáo dục dân chúng
như Moses, Aaron và Miram.
Thiên
Chúa chưa một lần bội hứa hay làm phiền lòng Israel, thế mà họ đã quay lưng lại
với Ngài. Họ đã đúc tượng con bê bằng vàng để thờ và nói với nó: Đây là đấng đã
cứu ngươi ra khỏi cảnh nô lệ của người Ai-cập!
1.2/
Israel đáp trả tình yêu Thiên Chúa thế nào? Họ chỉ chú trọng tới hình thức
và các lễ nghi bên ngoài. Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng việc giữ các ngày lễ
và dâng những của lễ toàn thiêu như: con đầu lòng, trâu bò một tuổi, không tì vết
… Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng ngàn chiên cừu hay vạn những con sông đầy dầu
ôliu để Thiên Chúa tha thứ cho những xúc phạm và tội lỗi của họ. Thiên Chúa
không muốn những điều này. Ngài không đòi Israel điều gì khác ngoài việc có
lòng yêu mến nhân từ, thực thi công chính, và ăn ở khiêm nhường.
2/
Phúc Âm:
Một số biệt phái và ký lục đòi Chúa làm một phép lạ để họ có thể tin vào Ngài.
2.1/
Dấu lạ Jonah: Những
người này có thể đã chứng kiến hay ít nhất đã được nghe những lời Chúa dạy và về
các phép lạ Chúa đã làm trong Israel. Đất Israel không lớn lắm; chỉ cần những
tiếng đồn loan đi là mọi người đều biết. Hôm nay họ muốn thử thách Chúa để họ
thấy tận mắt dấu lạ thì họ mới tin. Chúa từ chối không thỏa mãn lời yêu cầu của
họ; nhưng Ngài hứa sẽ cho thấy một dấu lạ cả thể sau này.
Dấu
lạ Jonah: Ông đã từ chối không đi giảng dạy tại Nineveh. Thay vì đó, đáp tàu đi
Tarsus; và sau đó đã bị ném xuống biển và bị nuốt bởi một con cá voi. Ông ở
trong bụng cá 3 ngày đêm và sau đó cá đã nhả ông ra trên bờ biển. Phép lạ nữa
Chúa sẽ làm là họ sẽ chứng kiến Chúa cũng sẽ ở trong mồ 3 ngày 3 đêm và sau đó
sẽ sống lại và ra khỏi mồ: một phép lạ chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là cái chết,
an táng, sống lại và lên trời của chính Ngài.
2.2/
Bụt nhà không thiêng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã thân hành đến và sống giữa dân để
mặc khải, dạy dỗ những lời khôn ngoan chưa từng nghe của Thiên Chúa; đồng thời
làm những phép lạ chưa từng thấy xảy ra từ tạo thiên lập địa đến giờ. Thế mà họ
vẫn coi thường và thử thách Ngài như trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế, Chúa cảnh
cáo họ:
-
Dân thành Nineveh sẽ tố cáo những người này cứng lòng vì họ đă ăn năn trở lại
khi nghe Jonah giảng chỉ một lần; trong khi những người này đã được nghe và chứng
kiến bao nhiêu phép lạ Người đã làm và vẫn không tin!
-
Nữ Hoàng Phương Nam đã lặn lội từ xa và mang biết bao lễ vật đến triều công để
được nghe sự khôn ngoan của Vua Solomon; trong khi thế hệ này đã không phải lặn
lội đi xa; đã không phải trả một đồng, mà vẫn từ chối nghe lời khôn ngoan của
Con Thiên Chúa!
Tại
sao bụt nhà không thiêng? Có nhiều lý do; sau đây là một vài lý do chính:
(1)
Đã quá quen nên không cảm thấy quí nữa và nghĩ đó là chuyện tự nhiên phải đến. Nghe Chúa giảng hay
làm phép lạ lần đầu tiên, họ có thể sửng sốt và tin; nhưng nếu nghe và chứng kiến
nhiều lần, họ sẽ nhàm chán và mất đi niềm tin ban đầu.
(2)
Kiêu căng và vọng ngoại: Cái
gì của người ngoài mới hay mới tốt; còn cái gì ở trong gia đình, làng mạc, quốc
gia thì xem thường (Nathanael nói: ở Nazareth thì có gì hay? Những người Biệt
phái tuy nhận ra sự khác thường nơi Chúa Giêsu; nhưng vẫn gạt đi và nói: người
này không phải con ông thợ mộc Giuse và bà Maria; và anh em của ông không phải
là người đồng hương với chúng ta sao? Và họ vấp phạm vì Ngài).
(3)
Dạy và bắt thực hành những gì họ không thích; nhất là bắt phải từ bỏ những gì họ đã quá quen thuộc;
nhất là lại tố cáo những bất công tội lỗi của họ. Con người có khuynh hướng chiều
theo những gì dễ thực hành và lối sống dễ dãi hưởng thụ hơn.
Đức
tin nhờ phép lạ là đức tin nhất thời. Chúa Giêsu nói với Thánh Thomas: “Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải sống mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, biểu tỏ qua cuộc sống
công chính và bác ái với tha nhân. Mọi lễ nghi bên ngoài sẽ vô ích nếu chúng ta
không sống những mối liên hệ này.
-
Trong cuộc đời, chỉ một mình Thiên Chúa là Người yêu chúng ta đích thực và các
vô vị lợi. Chúng ta đừng bao giờ phản bội tình yêu trung thành của Ngài.
-
Chúng ta cần phải luôn biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không phải như một con người
để rồi khi đã chán ngán chúng ta có thể gạt qua một bên. Ngài là Thiên Chúa duy
nhất của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 16 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 12,38-42
A. Hạt giống...
Những người biệt phái không nhận Chúa Giêsu là
Messia vì họ cố chấp, nhưng họ viện cớ là vì họ không thấy dấu lạ. Thực ra Chúa
Giêsu đã cho họ biết bao dấu lạ mà họ có chịu thấy đâu. Vì thế Ngài nói chẳng
cần cho họ dấu lạ nào khác nữa ngoài dấu lạ Giôna, tức là ám chỉ việc Ngài sẽ
chết và sống lại. Nhưng Ngài cũng biết là dấu lạ đó chẳng mở mắt nổi họ, cho
nên Chúa Giêsu bảo đến ngày phán xét tội của họ sẽ rất nặng.
B.... nẩy mầm.
1. “Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ” :
Nhiều lần chúng ta cũng mong Chúa làm một phép lạ vĩ đại và tỏ tường. Chẳng hạn
hiện ra trước mắt nhiều người. Chúng ta nghĩ nếu có những dấu lạ vĩ đại ấy thì
mọi người đều sẽ tin thờ Chúa.
Thực ra Chúa thừa sức làm những dấu lạ như thế.
Nhưng những dấu lạ như thế sẽ là một áp lực, một bó buộc, khiến người ta phải
tin thờ Ngài, không cách nào khác được. Và như thế thì con người không còn tự
do, Chúa không còn phải là một Thiên Chúa yêu thương mời gọi nữa.
Chúa ít khi làm dấu lạ, nhưng thích ban những dấu
chỉ. Những dấu chỉ kín đáo, đơn sơ là những tiếng mời gọi nhẹ nhàng và yêu
thương. Và những dấu chỉ như thế có rất nhiều. Chỉ cần ta biết mở mắt và mở
lòng ra để đón nhận.
2. Một cụ già suốt ngày ngồi trên ghế xích đu và
thề sẽ không bao giờ đứng dậy cho đến khi nào gặp được Chúa. Một cô bé đang
chơi với một quả bóng thấy thế hỏi :
- Suốt ngày cụ ngồi đong đưa trên chiếc ghế này
để chờ đợi Chúa sao ?
- Đúng thế. Trước lúc nhắm mắt lìa đời, ta muốn
tin chắc rằng có một Thiên Chúa. Ta cần một dấu chỉ. Nhưng tới nay ta chưa nhận
được dấu chỉ nào.
- Thưa cụ, Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ hít
thở, mỗi khi cụ ngửi một cánh hoa thơm, mỗi khi cụ nghe tiếng chim hót, mỗi khi
có một đứa bé chào đời. Chúa cho cụ một dấu chỉ mỗi khi cụ cười hay mỗi khi cụ
khóc, mỗi khi cụ cảm thấy nước mắt lăn trên gò má cụ. Chúa ban cho cụ một dấu
chỉ trong mưa gió và khi thời tiết thay đổi. Có biết bao nhiêu dấu chỉ, nhưng
tại sao cụ chưa tin ? Cụ ơi, Chúa ở trong cụ, Chúa ở trong cháu. Không cần phải
tìm kiếm, vì Ngài luôn có đó. Má cháu luôn căn dặn cháu : “Này Lily, nếu con
tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi, bởi vì thấy Chúa là thấy
những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất cả”.
Cụ già ngạc nhiên trước những lời như thế thốt ra
từ miệng một cô bé nhỏ xíu. Phần cô bé, cô vừa chạy vừa nói lớn : “má cháu luôn
căn dặn : Này Lily, nếu con tìm những cái vĩ đại thì con đã nhắm mắt lại rồi,
bởi vì thấy Chúa là thấy những điều đơn sơ. Thấy Chúa là thấy sự sống trong tất
cả…” (Chờ đợi Chúa)
3. Vấn đề của chúng ta ngày nay không phải là
không có những dấu chỉ mà là không biết đọc ý nghĩa của những dấu chỉ ấy. Có mắt
mà không thấy, có tai mà không nghe, có trí mà không hiểu. Chẳng hạn, tôi có
hiểu ý nghĩa những dấu chỉ mà Chúa cho xảy ra nơi chính bản thân mình không :
tôi bị bệnh… tôi bị người ta phê phán… tôi vừa gặp thất bại… Tại sao ? Qua
những điếu ấy, Chúa muốn nói gì với tôi ?
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ
21/07/14 THỨ HAI TUẦN
16 TN
Th. Lô-ren-xô Brin-đi-xi, linh mục
Mt 12,38-42
Th. Lô-ren-xô Brin-đi-xi, linh mục
Mt 12,38-42
Suy niệm: Câu
chuyện ông Giô-na không muốn đến Ni-ni-vê rao giảng phản ảnh não trạng cho rằng
ơn cứu độ chỉ dành cho dân Ít-ra-en. Trái lại, việc dân Ni-ni-vê mau chóng nghe
lời rao giảng là lời nhắc nhở rằng Thiên Chúa không đóng khung ơn cứu độ chỉ
nơi con cái Ít-ra-en và hơn nữa, mọi người không trừ ai đều cần phải sám hối để được hưởng ơn cứu độ.
Đáng buồn thay khi Đấng Cứu Thế đến thì chính người nhà của Ngài – dân Ít-ra-en
– lại không muốn sám hối để hưởng ơn cứu độ. Chúa Giê-su đem chuyện Giô-na và
nữ hoàng Phương Nam ra làm bằng chứng để trách khéo họ: Giô-na chỉ đến giảng;
còn Chúa Giê-su không chỉ dạy cho họ con đường trọn lành… mà còn làm bao nhiêu
phép lạ, thế mà họ không chịu nghe. Thật là đáng trách và đáng tiếc!
Mời Bạn: Không
ít người ngày nay giống như người Do Thái xưa đòi dấu lạ theo ý muốn vụ lợi của
họ. Nhưng sứ điệp của Đức Ki-tô “Sám hối và tin vào Phúc Âm” vẫn còn nguyên giá trị. Vì thế người Ki-tô hữu
trong sứ mệnh Phúc Âm hoá chẳng những phải đem Tin Mừng đến cho mọi người, “cho kẻ ở xa cũng như ở gần, cho người lành
cũng như kẻ dữ” mà
còn dùng đời sống mình làm chứng tá đức tin để nhiều người được cảm hoá, hoán
cải và được cứu độ.
Sống Lời Chúa: Để
thực thi sứ mạng Phúc Âm hoá, bạn phải được Phúc Âm hoá trước đã. Mời bạn trung
thành việc học hỏi Lời Chúa và suy niệm Phúc Âm mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng để con đòi hỏi Chúa làm gì cho con, nhưng trước
hết giúp con tự hỏi mình đã làm gì cho Chúa.
Đòi dấu lạ
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn
làm cho đời ta, để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa, nhưng mãn nguyện với những
gì mình nhận được?
Suy niệm:
Sinh
trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh
Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai
năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã
đi thám hiểm nước Ma rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau
thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời
sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh
đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này:
“Lạy
Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa
đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi
được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng
cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh
ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và
bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời
Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa
đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng
qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn
hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng
đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ
ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức
Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn
thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ
chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến
họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc
rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài
không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài
chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu
lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức
Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và
còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng
khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng
có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức
Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài
cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào
ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì
họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm
thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để
ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng
mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm
thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì
vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn
được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn
hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là
chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được
bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho
con,
hay vì Cha muốn ban cho con
một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Kinh
nghiệm cho thấy: "Người buồn cảnh có vui bao giờ".
Việc thay
đổi con người không hệ tại ở hình thức bên ngoài, nhưng trước hết là phải thay
đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái nhìn.
Mặc dù
chứng kiến bao là phép lạ Chúa Giêsu đã làm, mặc dù đã nhiều lần vỗ tay ca ngợi
những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu, nhưng rốt cùng nhiều người Do Thái, đặc
biệt là nhóm người Pharisêu và kinh sư vẫn không tin.
Hết cách,
Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng
xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông
Giôna”. Và như một cố gắng cuối cùng, Chúa Giêsu đã dùng lại hai câu
chuyện ngày xưa với hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay đổi não trạng.
Nhắc lại
chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe
lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn sứ Giona. Vậy mà cả thành, từ vua đến dân, từ
già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay sám hối và khẩn xin sự tha thứ
của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona, vậy mà họ lại không để tâm ăn
năn hối cải. Thật đáng buồn!
Nhắc lại
câu chuyện nữ hoàng Phương nam vượt đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn
kém đến để diện kiến vị vua khôn ngoan là Salômon. Bà ta đã toại nguyện, hết
lòng cảm phục sự khôn ngoan của nhà vua. Nhưng ở đây còn có Người cao trọng hơn
vua Salomon nữa, vì Người chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là vua trên
hết các vị vua. Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau lòng!!
Chính lòng
tự mãn làm cho họ trở nên mù quáng và đã làm hỏng hết mọi ơn phúc. Vì thế họ
không đến được với ơn cứu độ.
Xin cho
chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa, mù quáng và tự mãn. Nhưng hãy trở nên
giống dân thành Ninivê và nữ hoàng Phương nam có cái nhìn ngay chính để nhận ra
chân lý mà theo đuổi; cũng như biết khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết,
thiếu sót, tật xấu và tội lỗi, để theo sự khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa
đổi đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21
THÁNG BẢY
Hồng
Ân Nghĩa Tử
Sự
chọn lựa đầy yêu thương của Thiên Chúa và hệ quả nhất định của nó luôn luôn gắn
liền với sự sống mật thiết của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống đầy sống hoạt trong
tình yêu này liên quan đến Chúa Cha cũng như Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Con người chia sẻ sự sống thần linh này vì con người được mời gọi tham dự vào kế
hoạch sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Con người được tiền định ơn tuyển chọn
thần linh này ngay cả trước khi vũ trụ được tạo thành (Ep 1,5).
Con
người – ngay cả trước khi được dựng nên – đã được Thiên Chúa “chọn lựa”. Sự chọn
lựa này xảy ra nơi Người Con Đời Đời (Ep 1,4). Nghĩa là, nó xảy ra nơi Ngôi Lời
Vĩnh Cửu, nhờ Ngài mà thế giới được tạo thành. Như vậy, con người được tuyển chọn
trong Chúa Con để nhờ chức phận làm con của Người mà con người được Thiên Chúa
nhận làm nghĩa tử. Đây chính là cốt lõi của mầu nhiệm tiền định. Và đây chính
là sự biểu lộ tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha đối với chúng ta. Như Kinh Thánh
nói: “Vì yêu thương, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Đức Giê-su
Kitô” (Ep 1,5).
Như
vậy, sự tiền định cho thấy từ đời đời Thiên Chúa kêu gọi con người tham dự vào
bản tính của Ngài. Đó là một ơn gọi tiến tới sự thánh thiện thông qua ơn nghĩa
tử – trở thành những người con “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Ngài”
(Ep 1,4).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
21-7
Thánh
Laurensô Brinđisi, linh mục
tiến
sĩ Hội Thánh
Mk
6, 1-4.6-8; Mt 12, 38-42.
LỜI
SUY NIỆM: “Bấy giờ có mấy
kinh sư và mấy người Pharisêu nói với Đức Giêsu rằng: Thưa Thầy, chúng tôi muốn
thấy Thầy làm một dấu lạ.”
Không
phải chỉ những người Pharisêu và kinh sư đòi Chúa Giêsu làm một dấu lạ, họ mới
tin. Ngay ngày hôm nay khi con người đang sống và nhìn thấy sự tiến bộ về khoa
học, kỷ thuật, với muôn vàng cái mới lạ; kỳ diệu trong thiên nhiên; cũng như
trên thân thể con người và từng chi thể của con người, từ những cái lớn nhất
hay nhỏ nhất. Nhưng rồi có nhiều kẻ đã không tin có Đấng Sáng Tạo, không tin có
Thiên Chúa để tôn thờ.
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng con qua các Thánh
Tông Đồ, các tiền nhân và Giáo Hội của Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận ra những
dấu lạ chung quanh chúng con để biết có Chúa. Tin Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
21-07: Thánh LAURENSÔ BRINDISTIÔ
Linh
Mục Và Tiến Sĩ Hội Thánh (1559 - 1619)
Cesare
de Rossi sinh tại Brindisi vùng Aquila, miền nam nước ý năm 1559, Ngài được
giáo dục tại Venise và gia nhập dòng thánh Phanxicô ở Verôna. Năm 1575, Ngài được
mặc áo dòng với tên gọi là Laurensô Brindisiô.
Những
năm theo học tại Padua đã giúp Ngài trở thành những học giả, thông thạo các thứ
tiếng Pháp, Đức, Hy lạp, Syria và Do thái. Những khả năng này đã góp phần mang
lại nhiều thành công khi Ngài làm việc với anh em Do thái và khi Ngài phải
đương đầu với sự bành trướng của Thệ phản. Danh tiếng Ngài lan rộng khắp vùng
Trung Âu.
Trong
dòng, Laurensô Brindisiô đã được bầu làm bề trên cả.
Ngoài
ra, Ngài còn hăng say với đạo binh Thánh giá dẫn đầu đoàn quân Hung Gia Lợi chống
lại quân Thổ Nhĩ Kỳ. Với thánh giá cầm tay, Ngài đã mang lại chiến thắng năm
1601.
Phần
đời còn lại, Ngài hiến mình cho việc truyền giáo và ngoại giáo. Với khả năng đặc
biệt này, Ngài đã là một nhà ngoại giao tài giỏi của nhiều vị giáo hoàng. Tuy
nhiên, giữa những hoạt động bên ngoài, thánh nhân vẫn dành nhiều thời gian cho
việc cầu nguyện và thực tập các nhân đức. Chính đời sống nội tâm sâu sắc đã đưa
Ngài lên đỉnh cao đời sống thánh thiện.
Năm
1619, đang khi thi hành sứ mạng được trao phó ở Lisbonne, thánh Laurensô đã từ
trần trong sự nghèo khó đơn sơ và thánh thiện. Ngài để lại nhiều tác phẩm giá
trị cho kho tàng đức tin công giáo.
Năm
1881, Đức Lêô XIII đã suy tuyên Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1959 Đức
Gioan XXIII đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
21
Tháng Bảy
Lúa Mì Và Hoa Mồng
Gà
Hòa
Lan là một nước nổi tiếng về hoa. Ở phía bắc Hòa Lan, có những cánh đồng hoa chạy
dài tắp tít vượt cả tầm nhãn giới. Nhiều loại hoa sặc sỡ tuyệt đẹp làm say mê
khách du lịch. Phía nam của Hòa Lan, trái lại, chỉ có những cánh đồng lúa mì
bát ngát và khi lúa chín thì khắp nơi chỉ còn là một màu vàng ối làm nổi bật
màu đỏ tím của những bông hoa mồng gà.
Cảnh
đó đẹp với thi sĩ và họa sĩ nhưng rất đáng buồn đối với nông gia vì mồng gà
càng sặc sỡ thì vụ lúa càng kém. Chẳng có cách nào nhổ hết được những cây mồng
gà này mà không làm hư hại lúa, đằng khác hoa mồng gà càng nhiều và càng đẹp
thì khách du lịch càng làm hư hại lúa nhiều, mỗi khi họ nhảy xuống ruộng để hái
hoa.
Sự
chung đụng của lúa mì và hoa mồng gà: đó là bức tranh tuyệt hảo của nhân loại
chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng lúa mì để nuôi sống chúng ta, nhưng Người cũng
cho hoa mồng gà mọc lên để làm vui mắt chúng ta. Có lúa mì thì cũng có hoa mồng
gà. Có nhà nông thì cũng có thi sĩ, họa sĩ.
Thiên
Chúa cho nắng mưa hòa nhịp với nhau. Người nông gia không thể đòi hỏi chỉ có
mưa cho lúa tốt. Người nghệ sĩ không thể đòi hỏi chỉ có ánh mặt trời... Sống là
biết chấp nhận sự đa diện của vũ trụ như một bức tranh tuyệt hảo. Sống là biết
lấy đau khổ, mất mát của mình làm hạnh phúc cho người khác.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét