08/08/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
18 Quanh Năm
Thánh Đaminh linh mục. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh quãng năm
1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi
làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại
Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết
Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc
giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả
quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải
xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở
Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Bài
Ðọc I: (Năm II) Nk 1, 15; 2, 2; 3, 1-3. 6-7
"Khốn
cho thành khát máu".
Trích
sách Tiên tri Nakhum.
Kìa
xem, trên núi có người đưa tin mừng chạy đến. Hỡi Giuđa, hãy mừng các ngày lễ
trọng của ngươi, hãy thi hành lời ngươi khấn nguyện. Vì Bêlial từ nay sẽ không
còn đi qua đất ngươi: nó đã bị hoàn toàn tận diệt.
Vì
Chúa sẽ trồng lại cây nho Giacóp, cũng như cây nho Israel, bởi quân phá phách
đã tàn phá chúng và đã bẻ cành chúng.
Khốn
cho thành khát máu, tràn đầy gian dối, hung bạo, người ta không ngừng cướp phá
ngươi. Hãy nghe tiếng roi quất, tiếng bánh xe lăn, ngựa hí, xe phóng nhanh,
quân kỵ binh xông đến, gươm lấp lánh, giáo sáng ngời, nhiều người bị giết, tàn
phá nặng nề, xác chết vô vàn, ngã quỵ trên nhau.
Ta
sẽ vứt đồ ô uế trên mình ngươi, làm nhục ngươi, bêu xấu ngươi. Lúc bấy giờ, hễ
ai thấy ngươi cũng ngoảnh mặt mà nói: "Ninivê thật tiêu điều! Ai thương được
ngươi? Tìm đâu ra người an ủi ngươi".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Ðnl 32, 35cd-36ab. 39. 41
Ðáp: Ta sẽ giết chết
và sẽ làm cho sống lại (c. 39c).
Xướng:
1) Ngày huỷ diệt đã gần rồi, và kỳ hẹn lại chóng đến. Chúa sẽ phán xét dân Người,
và xót thương kẻ làm tôi Chúa. - Ðáp.
2)
Các ngươi hãy xem có một mình Ta, và ngoài Ta, không có Chúa nào khác: Ta sẽ giết
chết và sẽ làm cho sống lại; Ta sẽ đánh đập và sẽ chữa lành. - Ðáp.
3)
Nếu Ta mài sáng gươm Ta như chớp, và nắm giữ phán quyết trong tay Ta, Ta sẽ trả
oán những kẻ thù nghịch, sẽ trả thù những kẻ ghen ghét Ta. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 16, 24-28
"Người
ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy
từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống
mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu
ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người
ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi
vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của
Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật,
Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết
trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Giá
Trị Của Khổ Ðau
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm
môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều
đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là
đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành
cho Ngài.
Chúa
Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử
nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái
giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những
ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau
khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy
cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà
thôi.
Chúa
Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về
nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của
yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa
Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá,
không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy,
chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm
Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
Bức
tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện
và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về
sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng;
thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc
thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con
người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến
khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải
là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Nơi
nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh
thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những
giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
Veritas Asia
Lễ Thánh Tổ Phụ Đaminh (Ngày 8 tháng 8)
Bài
đọc:
Isa 52:7-10; 2 Tim 4:1-8; Mt 5:13-19.
1/
Bài đọc I: 7 Đẹp
thay trên đồi núi
bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an,
người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị."
bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an,
người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị."
8 Kìa
nghe chăng quân canh gác của ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được thấy tận mắt ĐỨC CHÚA đang trở về Xi-on.
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được thấy tận mắt ĐỨC CHÚA đang trở về Xi-on.
9 Hỡi
Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế,
hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,
vì ĐỨC CHÚA an ủi dân Người, và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng,
vì ĐỨC CHÚA an ủi dân Người, và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
10 Trước
mặt muôn dân, ĐỨC CHÚA đã vung cánh tay thần thánh của Người:
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy.
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy.
2/
Bài đọc II: 1 Trước mặt
Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất
hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh:
2 hãy
rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện;
hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.
3 Thật
vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những
dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe.
4 Họ
sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.
5 Phần
anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người
loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.
6 Còn
tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi.
7 Tôi
đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm
tin.
8 Giờ
đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán
chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho
tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.
3/
Phúc Âm: 13 "Chính
anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?
Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
14 "Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu
được.
15 Cũng
chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi
chiếu cho mọi người trong nhà.
16 Cũng
vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những
công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
17 "Anh
em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến
không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.
18 Vì,
Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề
Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.
19 Vậy
ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm
như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy
làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Tổ Phụ Đaminh
(Ngày 8 tháng 8)
Bài đọc: Isa 52:7-10; 2 Tim
4:1-8; Mt 5:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Rao giảng Tin Mừng
để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Cuộc
đời của Thánh Đa-minh có thể tóm gọn trong chủ đề: “Rao giảng Tin Mừng để đưa
các linh hồn về cho Chúa.” Thánh Đa-minh yêu mến Thiên Chúa nên muốn đem tất cả
linh hồn về cho Ngài, và cách thức Ngài dùng là “rao giảng Tin Mừng.” Câu châm
ngôn trong cuộc đời của thánh nhân là: “Chỉ nói với Chúa và về Chúa.” Khi ngài
nói với Chúa là lúc ngài cầu nguyện; khi ngài nói về Chúa là lúc ngài rao giảng
Tin Mừng cho tha nhân. Thánh Đa-minh kết hợp cả hai chiều kích của đời tu:
chiêm niệm và hoạt động. Người tu sĩ Đa-minh là người chiêm niệm và sau đó đem
những gì mình đã chiêm niệm chia sẻ cho tha nhân.
Đường
lối dùng Tin Mừng để đem các linh hồn về cho Thiên Chúa được đặt căn bản trên Lời
Chúa trong ba bài đọc hôm nay. Trong bài đọc I, ngôn-sứ Isaiah được Thiên Chúa
cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ cứu độ dân của Ngài, và để cho Tin Mừng này
được loan đi, ngôn sứ thấy sự cao đẹp của những người rao giảng Tin Mừng. Còn
gì đẹp hơn bước chân của những người mang Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho dân của
Ngài đang đau khổ! Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ của ngài là
Timothy phải kiên trì trong việc rao giảng, vì ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc rao giảng Tin Mừng. Các nhà giảng thuyết phải kiên nhẫn vượt mọi gian khổ
mới có thể đưa các linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, để có thể chu
toàn thành công sứ vụ rao giảng, nhà giảng thuyết phải kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa, lắng nghe tiếng của Ngài, và thực thi những gì Ngài dạy trước khi
loan báo những lời này cho tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố ơn cứu độ.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1)
Công bố bình an: Bình
an là một trong những chữ được tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải
là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con
người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2)
Loan tin tốt lành: Tin
Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người,
nhất là tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3)
Công bố ơn cứu độ: Ơn
Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng
dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội
lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên
Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của
Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai
trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/
Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: Sự kiện Chúa giải
phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ
mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức
cố gắng của dân Do-thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, vua Ba-tư vào
Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của
Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc
Rôma.
2/
Bài đọc II:
Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện.
2.1/
Những khó khăn trong việc rao truyền Lời Chúa
(1)
Lý do phải trung thành rao giảng: Phaolô đưa ra hai lý do chính để chỉ thị Timothy phải
trung thành rao giảng Tin Mừng: Thứ nhất, Đức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết;
không một ai và không một hành động nào của con người thoát khỏi sự phán xét của
Ngài. Thứ hai, Ngài sẽ xuất hiện và nắm vương quyền; lúc đó, Ngài sẽ trả công
cho mỗi người tùy theo việc làm của họ. Vì thế, anh “hãy rao giảng Lời Chúa,
hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm
đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.”
Nhiều
người chủ trương: “gió chiều nào che chiều đó.” Khi hoàn cảnh xã hội đã đổi, họ
cũng phải thay đổi sao cho phù hợp; vì nếu không thay đổi sẽ bị người khác ghét
và không trở thành phổ thông. Vì thế, nhiều nhà rao giảng có khuynh hướng thay
đổi cách giảng dạy: họ chỉ nói những gì khán giả thích và tránh đề cập những tội
mà khán giả đang mang trong mình. Tiên tri Jeremiah đã tuyên sấm nặng nề cho
các ngôn sứ giả này: Họ sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả.
(2)
Khuynh hướng thay đổi của con người: Phaolô nói trước cho môn đệ mình biết về sự thay đổi
của khán giả: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành
mạnh, nhưng vì ngứa tai, họ sẽ tìm kiếm cho họ những nhà rao giảng thích hợp với
sở thích của họ, và sẽ quay lưng lại với sự thật và hướng về những chuyện hoang
đường.” Điều này không lạ, vì theo tâm lý con người, họ không muốn ai làm cho họ
phải cắn rứt về những chuyện họ đang mang trong lòng; nhưng chỉ muốn ai khen những
chuyện họ làm hoặc nói những chuyện vui cười để giải trí. Nhà rao giảng Tin Mừng
chân chính không được chiều theo thị hiếu của khán giả, như Phaolô khuyên nhủ
Timothy: “anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc
của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.”
2.2/
Hãy cố gắng dành cho được phần thưởng không hư nát: Câu hỏi quan trọng
đặt ra cho mọi người: Họ muốn làm vừa lòng ai? Thiên Chúa hay con người? Họ muốn
làm vừa lòng Thiên Chúa để lãnh phần thưởng bất diệt là sự sống đời đời, hay
làm vừa lòng con người để lãnh phần thưởng mau hư nát. Thánh Phaolô cho chúng
ta một tấm gương để soi chung: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến
giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường,
đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công
chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy,
và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người
xuất hiện.”
3/
Phúc Âm:
Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
3.1/
Công dụng của muối: Không
có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho
trong sạch tinh tuyền: vì
được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển. Kitô hữu là những người đã được
rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi quà tặng của Thánh Thần, họ phải
trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa đồ
ăn cho khỏi hư: Vì
đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho lương thực khỏi hư: thịt
cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi, trái cây cần muối nếu muốn để
lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên sự cần thiết của con cái phải
vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu
điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy dỗ của Đức Kitô còn cần thiết
hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể
“ướp mặn lòng người.
+ Muối dùng để thêm gia vị
cho thực phẩm: Muối
không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon tới đâu mà nếu không có chất
mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở thành vô vị. Người Kitô hữu
đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần chú ý ở đây là Chúa Giêsu
dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người Kitô hữu đã và luôn có. Bản
chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế gian trở nên tốt.
3.2/
Công dụng của ánh sáng: Biểu
tượng này còn gần gũi với con người hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi
sáng: Khi
trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người Kitô hữu
có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi ấm:
Khi trời lạnh, con
người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay lửa. Người Kitô hữu có
Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con người
khỏi nguy hiểm: Tội
lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm tội lỗi ghét ánh sáng vì họ
sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày...
Chúa
Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không
thể che giấu; nhưng phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có
ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho
mọi người trong nhà.” Mục đích của việc soi sáng là để những người chưa biết
Thiên Chúa “thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh
em, Đấng ngự trên trời.”
3.3/
Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ: Tất cả Luật và Lời
Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất từ Thiên
Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở phía con người.
Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1)
Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày
Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ không phải
để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên chữa bệnh
nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc
lãnh vực bảo vệ sự sống.
(2)
Tạo thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật
Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô
tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do
con người làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi
Chúa tranh luận những việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu
là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với
Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên
Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của
Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là lo sao cho chúng ta và mọi người được về
hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, chứ không phải lo tìm của cải đời này.
-
Chúng ta phải học hỏi và sống Tin Mừng của Thiên Chúa trước khi có thể loan báo
Tin Mừng đó cho tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Mt
16,24-28
A.
Hạt giống...
Sau
khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói
thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải
đi theo : “Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà
theo”
Khi
giải thích ý nghĩa con đường thập giá ấy, Chúa Giêsu đưa ra một nghịch lý : “Ai
muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ
được sống”.
B....
nẩy mầm.
1.
“Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo” :
Chúa không ép tôi theo Ngài, Chúa không buộc tôi bỏ mình và vác thập giá. Ngài
chỉ mời tôi thôi và cho tôi tự do. Nếu tôi muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập
giá, nếu không thì thôi.
Nhưng
vì thương tôi, nên Ngài cho biết những sự lợi hại : “Ai muốn cứu mạng sống mình
thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời
lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì ?”
2.
Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một
cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…) Đau khổ
không là một đày đoạ mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên
thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng
đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được
kết hiệp với Chúa mật thiết hơn ("Mỗi ngày một tin vui")
3.
Nơi nào có thập giá, nơi đó có Thiên Chúa.
4.
Hai cách đi theo Chúa :
Chính
Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây : Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và
Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ
một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi ; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác
cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến
nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan : “Sao anh nhọc công
vác tảng đá to như thế !”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài
đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một
chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần
khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh
nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ.
Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang
theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu”. Rồi Ngài nói riêng
với Phêrô : “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán”.
Lạy
Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến
đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết
mình đã làm theo ý Chúa. (Chờ đợi Chúa)
5.
“Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy.” (Mt 16,25)
Thượng
úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình Vtv1 ca ngợi về lòng can đảm,
hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào
vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những
công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình
để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người
và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.
Chính
lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình
Yêu. Ngài đã huỷ mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.
Lạy
Chúa, xin dạy con hiểu được : Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản
thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
08/08/14 THỨ SÁU TUẦN 18 TN
Th. Đa-minh, linh mục
Mt 16,24-28
Th. Đa-minh, linh mục
Mt 16,24-28
Suy niệm: Đa số chúng ta nghĩ rằng từ bỏ có vẻ như điều
bất thường, là nhu nhược, lép vế hay thua trận. Thật ra, từ bỏ là điều rất bình
thường và cần thiết. Từ bỏ là quy luật phát triển, trưởng thành của con người.
Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Tội nhân
biết hối lỗi, chừa bỏ tình trạng hiện tại, chắc chắn sẽ thành người tốt. Ki-tô
hữu càng từ bỏ cái “tôi”, từ bỏ tội lỗi bao nhiêu, thì càng thánh thiện và
giống Chúa bấy nhiêu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định điều
kiện để làm môn đệ Ngài là từ bỏ mình mỗi ngày và vác thập giá theo Chúa, nghĩa
là không sống theo ý riêng mình mà sống theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc
đời, dù phải hy sinh, thiệt thòi.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su từ bỏ địa vị Thiên Chúa, xuống thế làm người để con người trở thành con
cái Chúa. Ngài từ bỏ sự cao sang để sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy
tội lỗi của loài người, chết trên thập giá để cho con người được sống muôn đời.
Mời bạn từ bỏ một tật xấu để gia đình mình được ấm êm; từ bỏ lời nói gian dối
để tha nhân bớt khổ; từ bỏ thói nói xấu, vu oan để cộng đoàn được hiệp nhất, và
từ bỏ một tội lỗi nào đó để nên thánh thiện.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày tôi quyết tâm dành thời gian đọc hoặc lắng nghe 5 phút Lời Chúa, để có
những giây phút sống với Chúa, để Chúa dạy dỗ mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn can đảm, để con dám ra khỏi chính
mình, khỏi cái tôi ích kỷ, và vui lòng vác thập giá mình theo Chúa mỗi ngày.
Nhờ vậy, con sống an bình bên Chúa và an hòa với tha nhân. Amen.
Từ bỏ chính mình
Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận
mỗi ngày, vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.
Suy niệm:
Con đường của người môn đệ
Thầy Giêsu là con đường không êm ả.
Ngay sau khi Thầy Giêsu loan
báo lần đầu về số phận sắp đến của mình,
Ngài đã nói đến số phận của
các môn đệ (cc. 24-28).
Họ được mời chia sẻ cùng một
thân phận với Thầy và như Thầy.
Thầy trò
sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết.
Nhưng cuối
cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21).
Phục sinh,
sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng.
Chiến
thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện.
Như thế
điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này.
Đây thật là một liều lĩnh
của đức tin,
vì nếu
không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng.
Cuộc đời
này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng.
Nhưng lắm
khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn,
cho Đấng
là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị.
Cái tôi
của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi.
Chẳng có
hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa.
Cùng với
cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác…
Chúa còn
ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ,
và cả một
thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em.
Cái tôi là
món quà quý nhất Chúa ban cho tôi.
Cái tôi
cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa.
Nhiều tôn
giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã.
Đức Giêsu
cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình,
không phải
vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét,
nhưng chỉ
vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó.
Từ bỏ
chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm,
và để cái
tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.
Thầy Giêsu
đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế.
Ngài luôn
sống như một người con thảo, một người được Cha sai.
Lạ thay,
chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không,
thì Ngài
lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9).
Trong Kitô
giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ.
Cái tôi ấy
cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan.
“Ai mất
mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25).
Như
thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn.
Chẳng thể
nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình.
Có khi từ
bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng,
cũng khó
như một hy sinh mạng sống.
Vác thập
giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày,
vác yếu
đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.
Thầy Giêsu
đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết.
Vì Thầy là
Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống,
nên chúng
ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
trước khi con tìm Chúa, Chúa
đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa,
Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa,
Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa
đã mến yêu con.
Trước khi con thuộc về Chúa,
Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa,
Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì
Chúa, Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết
cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi con đặt Chúa lên
trên hết,
Chúa đã
coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của
con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa
đòi hỏi nơi con
đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu
của con mà thôi.
Xin cho con đón nhận những
cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất
nhiều tình yêu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
ĐIỀU KIỆN
THEO CHÚA
Khi Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của Ngài, Phêrô không chấp nhận
điều đó nên ông đã can ngăn Chúa. Nhân dịp này, Chúa Giêsu nói tiếp: "Ai
muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy".
"Theo
Thầy" có nghĩa là làm môn đệ của Chúa. Làm môn đệ không đơn giản là
nói "tin vào Ngài" mà phải là đi theo con đường Ngài đã đi,
sống theo những lời Ngài đã dạy. Đi theo con đường của Chúa đó là con đường
thập giá đến vinh quang. Sống theo lời Ngài dạy là sống giới luật yêu thương.
"Bỏ
mình và vác thập giá" chính là từ bỏ những suy nghĩ cá nhân để chấp
nhận ý của Chúa.
Phêrô đã
tuyên xưng Chúa nhưng ông chưa thật sự là môn đệ của Chúa vì ông chưa từ bỏ suy
nghĩ riêng tư của mình để chấp nhận ý của Chúa. Ông chưa từ bỏ con đường của
mình để chấp nhận và bước theo con đường của Chúa.
Tuy nhiên,
con đường đau khổ mà Chúa đã đi không kết thúc trong đau khổ mà dẫn đến vinh
quang bất diệt. Đó là vinh quang mà Chúa Giêsu đã tỏ cho các môn đệ thấy khi
hiển dung, và cũng chính là vinh quang của Ngài khi Ngài trở lại trong ngày sau
hết. Đó cũng là vinh quang mà Chúa dành cho những ai chấp nhận theo con đường
của Ngài vì "Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
Hôm nay
Chúa cũng mời gọi chúng ta: "Hãy từ bỏ mình và vác thập giá theo Thầy".
Chúng ta nói: "tôi tin Chúa" thôi chưa đủ và chưa hẳn là môn
đệ của Chúa. Chỉ khi chúng ta biết đi theo con đường thập giá của Chúa, biết từ
bỏ những ý riêng để đón nhận ý Chúa, chúng ta mới mong trở thành môn đệ đích
thực của Ngài.
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết đón nhận con đường khổ giá trong đời sống và luôn biết
vâng theo Thánh Ý của Ngài để con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TÁM
Tìm Kiếm Câu Trả Lời Bằng Con Mắt
Đức Tin
Sự đau khổ được nhìn qua con mắt đức tin –
ngay cả dù vẫn có vẻ thật ảm đạm – sẽ cho phép chúng ta nhận ra mầu nhiệm quan
phòng của Thiên Chúa. Mầu nhiệm này được tóm kết trong mạc khải Đức Kitô, nhất
là trong cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người. Con người vẫn không ngừng
đặt ra những vấn nạn về sự dữ và đau khổ trong thế giới thụ tạo, song chắc chắn
con người không thể nào tìm thấy những lời giải đáp trực tiếp được. Không thể
tìm thấy sự giải đáp trực tiếp nếu không có một đức tin sống động vào Đức
Giê-su Kitô.
Nhưng dần dần, với sự giúp đỡ của đức tin
được nuôi duỡng bằng cầu nguyện, chúng ta có thể khám phá ra ý nghĩa đích thực
của những nỗi thống khổ mà mọi con người kinh nghiệm trong đời. Sự khám phá này
phụ thuộc vào lời mạc khải thần linh và vào “lời của thập giá” Đức Kitô (1Cr
1,18) – thập giá chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr
1,24).
Công Đồng Vatican II dạy chúng ta: “Nhờ Đức
Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta được soi sáng về bí ẩn của sự đau khổ và sự chết,
bí ẩn này sẽ đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm” (MV 22). Nếu
nhờ đức tin, chúng ta khám phá ra sức mạnh và “sự khôn ngoan” này, thì đấy là
chúng ta đang bước đi trên con đường cứu độ của sự quan phòng của Thiên Chúa. Ý
nghĩa của lời Thánh Vịnh bấy giờ sẽ thành hiện thực hoàn toàn đối với chúng ta:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi …
Dù tôi đi trong thung lũng tối tăm,
tôi vẫn không lo sợ gì,
vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23,1-4).
Vâng, trong sự quan phòng của Thiên Chúa,
chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa luôn sóng bước cùng với con người.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
08-8
Thánh
Đa-Minh, linh mục
Nk
2, 1-4;3,1-3.6-7; Mt 16, 24-28.
LỜI
SUY NIỆM: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo”.
Chúa
Giêsu rất yêu thương con người, và chỉ vì yêu thương con người, Người đã mạc khải
tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với con người, qua sự nhập thể của Người,
qua sự Thương khó và Phục Sinh, Thăng Thiên và ban Thánh Thần đến bảo trợ và
soi sáng cho con người. Chỉ vì yêu thương , Người muốn con người có được sống đời
đời với Người bằng cách: “Phải từ bỏ chính mình” “Phải vác thập giá mình hằng
ngày” và “Phải đi theo Chúa”
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, là Chúa, là Đấng cứu độ
con. Xin cho mọi người trong gia đình chúng con được ơn luôn luôn tin vào Chúa,
trông cậy vào Chúa, đi theo Chúa bất cứ nơi nào và bất cứ hoàn cảnh nào.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
08-08
Thánh
ĐAMINH
Linh
mục (1170 - 1221)
Thánh
Đaminh sinh tại Castille, Tây Ban Nha, năm 1170. Truyện về tuổi trẻ của Ngài
nói tới nhiều điềm báo lạ lùng. Mẹ Ngài, bà Aza mơ thấy con mình như một con
chó ngậm đuốc chạy khắp cả thế gian. E ngại vì giấc mơ này bà làm tuần cửu nhật
xin cho được sinh nở vuông tròn đến ngày thứ bảy, vị chánh sở nói với bà : - Đừng
sợ gì vì đứa trẻ sinh ra sẽ trở thành ánh sáng thế gian và niềm an ủi cho Giáo
hội, nhờ sự thánh thiện và giáo thuyết của nó.
Khi
trẻ Đaminh còn nằm trong nôi, một bầy ong mật lượn quanh rồi êm ái đậu xuống
nơi nôi Ngài. Điều này báo trước rằng lời lẽ miệng Ngài sẽ êm dịu như mật ngọt.
Ngày chịu phép rửa tội, vú nuôi Ngài thấy một vì sao chói sáng trên trán Ngài.
Đó là dấu ơn thánh Ngài sẽ tỏa chiếu để thu hút các linh hồn.
Được
cưng chiều, thánh Đaminh sớm sống đời khổ hạnh. Ngài học hãm mình cầu nguyện
khi vừa thôi nôi. Người vú nuôi nhiều lần thấy Ngài âm thầm thức dậy trong đêm
tối để cầu nguyện. Ngài chọn một nơi thanh vắng ở cuối vườn làm nơi tâm sự với
Chúa. Đức Trinh nữ thường hiện ra với Ngài, dạy Ngài lần chuỗi. Việc đạo đức
này về sau trở thành phương thế hữu hiệu để cải hóa những người theo lạc giáo.
Đến
tuổi đi học, Đaminh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là tổng linh mục ở
Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại học ở Palencia và đã tiến triển rất
nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn
đến thăm Đaminh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán
để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn
các giáo sư bắt chước.
Sau
khi hoàn tất việc học, Đaminh được đức Chadiegô, giám mục Osma truyền chức linh
mục. Vị giám mục đạo đức này đang muốn canh tân lòng đạo đức trong giáo phận,
đã đặt cha Đaminh làm kinh sĩ. Khi lo chuyện nhà nước qua Châu Au, đức cha Diegô
dẫn cha Đaminh đi theo. Tại Languedoc, các Ngài được chứng kiến được tàn phá mà
bè rối Albigeois gây ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ.
Sự hoàn thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ
trương này dẫn tới sự lãnh cảm. Chẳng hạn đối với việc hôn nhân và chôn vùi mọi
cơ cấu xã hội gia đình. Họ còn có lễ nghi, và phẩm trật riêng. Người ta bị phân
thành hai loại: một bên gồm những người hoàn thiện và những nhà lãnh đạo sống rất
khắc khổ; bên kia là quần chúng tìm thấy nơi giáo thuyết mới lý do bào chữa cho
sự tự do luân lý không bị kiềm chế của mình.
Trên
đường về, đức cha Diegô và cha Đaminh đến Roma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc
truyền giáo quanh vùng Dniepen. Đức giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có
người ra đi rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối
Albigeois, thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền
nam nước Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước
kia. Tại Montpellier, đức cha Diegô đã nhận thấy sự khác biệt giữa các nhà giảng
thuyết công giáo đầy xa hoa với các nhà giảng thuyết phái Albigeois đầy khiêm tốn
giản dị. Các Ngài chọn đường lối khác, lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương
sáng thu hút mọi người. Tháng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xitô đến trợ lực. Trong
vòng một năm trời, có đến 40 vị dấn thân vào hoạt động. Những thành công sơ khởi
bắt đầu tới, nhưng không kéo dài được lâu. Các tu sĩ Xitô nản lòng. Đức cha
Diegô trở về Tây Ban Nha kiếm thêm người trợ lực và qua đời tại đây. Một vị sự
thần cũng từ trần. Tệ hại hơn cả là Phêrô Castelman, vị sự thần khác, bị bọn lạc
giáo ám sát.
Còn
lại mình cha Đaminh. Ngài vẫn tiếp tục nhiệt tình hoạt động trong đường lối khổ
hạnh và cầu nguyện. Không chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gióng chiêng,
Ngài nói : - Không thể đến với kẻ thù như vậy được. Hãy trang bị bằng kinh nguyện
và chân không mà đến với tên khổng lồ Goliath.
Trong
sáu năm, cha Đaminh trải qua nhiều sóng gió, ngay khi mới tới, đức cha Diegô và
Ngài đã thiết lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Bây giờ Ngài chỉ còn là trợ
lực duy nhất, một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở
tại sao số người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện
ra và dạy Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn
nỗ lực vào việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này, thay vì tranh luận như trước,
Ngài dạy dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải
cho họ các mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh
Đaminh đã được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc
giáo được đưa trở về với Giáo hội.
Hoàn
thành sứ mệnh, thánh Đaminh có ý định thành lập một dòng tu làm vườn ươm các
tông đồ. Ngài trình bày dự tính với Đức giáo hoàng Innocentê III. Nhưng đức
giáo hoàng ngần ngại. Đêm sau Ngài mơ thấy đại giáo đường Lateranô bị rung chuyển
và thánh Đaminh đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết ý Chúa Ngài
cho gọi thánh nhân đến và chấp thuận cho lập dòng mới. Đây là dòng giảng thuyết.
Khi
còn ở Roma, một đêm kia, trong lúc cầu nguyện, thánh Đaminh thấy Chúa Giêsu giận
dữ muốn phóng ba ngọn đuốc xuống thiêu hủy thế gian: - Loài người lao mình vào
nết xấu kiêu căng nhục dục và biển lận, nên Ta muốn hủy diệt chúng bằng 3 ngọn
lửa này.
Nhưng
đức trinh nữ cản lại: - Con ơi, hãy thương xót thế gian. Này đây có hai người sẽ
làm sống dậy các nhân đức.
Đaminh
biết mình là một, nhưng người kia là ai thì chưa rõ. Hôm sau khi đến nhà thờ
Ngài gặp một tu sĩ, mặc đồ người ăn xin ngồi ngay cửa. Đó là thánh Phanxicô.
Hai người chưa gặp nhau, nhưng đã ôm choàng lấy nhau và gọi tên nhau. Các Ngài
hợp nhất với nhau trong công cuộc của Chúa.
Thánh
Đaminh đề cao việc học, Ngài gởi các tu sĩ đến các đại học, Ngài truyền : - Chớ
gì các tu sĩ chuyên cần học tập ngày đêm. Lúc ở nhà cũng như khi đi ngoài đường,
họ phải không ngừng đọc sách và suy gẫm.
Thánh
Đaminh rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài
đã học cách nào, Ngài nói : - Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi
sách dạy bảo tất cả.
Một
năm trước khi qua đời, các cha dòng Đaminh đã được sai tới Oxford, Hungaria,
Đan Mạch và Hy lạp. Thánh Đaminh qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221.
(daminhvn.net)
08
Tháng Tám
Vị Thánh Của Kinh
Mân Côi
Ðaminh,
vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha
trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Ðaminh đã tập quen sống hãm
mình. Ngoài ra, Ðaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý
đến việc trau dồi kiến thức.
Khi
làm linh mục, rồi kinh sĩ, Ðaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh
thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ
lạc bên nước Nga, nhưng Ðức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse
bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Ðaminh
xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một
hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao
giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Ðaminh đã là
người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất,
ăn chay và sống bằng của bố thí.
Vào
năm 1216, Ðức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Ðaminh sámg lập mang tên
"Dòng anh em giảng thuyết" thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là
dòng Ðaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Ðaminh 5 năm vắn vỏi để chu
toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước
Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với
Giáo Hội.
Trong
suốt cuộc sống, Ðaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài
còn truyền bá lòng sùng kính Ðức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập
một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha
Ðaminh qua đời tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm
1234, Ðức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có
một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Ðaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án
công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Ðức
Maria. Ðức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Ðaminh và
hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày
hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Ðaminh thấy người ăn mày trong mộng
xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Ðaminh và nói: "Anh là người đồng hành với
tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng
chúng ta". Nhìn kỹ, Ðaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành
Assisi.
Cuộc
gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Ðaminh và Phanxicô mừng
mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó
ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho
Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế
kỷ nay.
Lý
tưởng mà dòng Ðaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính
phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống
trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng
lời. Ðó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy
hoàn cảnh và địa vị của mình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét