17/08/2014
Chúa Nhật 20 Quanh Năm
Năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Is 56, 1. 6-7
"Ta
sẽ dẫn con cái Ta lên núi thánh".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ðây
Thiên Chúa phán: "Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta
đã gần tới, và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện.
"Người
ngoại bang theo Chúa để phụng sự Chúa và mến yêu danh Người, để trở nên tôi tớ
Chúa, tất cả những ai giữ ngày Sabbat, không hề sai lỗi, và trung thành với
giao ước của Ta, Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, và Ta sẽ cho chúng niềm vui
trong nhà cầu nguyện. Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên
bàn thờ, vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Chư dân hãy
ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Xướng:
1) Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin tỏ ra cho
chúng con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu, thiên hạ nhìn biết đường
lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2)
Các dân tộc hãy mừng vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và
Ngài cai quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3)
Chư dân hãy ca tụng Ngài. Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin
Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính
sợ Ngài. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Rm 11, 13-15. 29-32
"Thiên
Chúa ban ơn và kêu gọi Israel, thì Người không hề hối tiếc".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, tôi nói với anh em là những người gốc Dân Ngoại rằng: Bao lâu tôi
là Tông đồ các Dân Ngoại, tôi sẽ tôn trọng chức vụ của tôi, nếu có cách nào làm
cho đồng bào tôi phân bì, mà tôi cứu rỗi được ít người trong họ. Vì nếu do việc
họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì sự họ được thâu nhận sẽ thế nào,
nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?
Vì
Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em
không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương
xót; cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được
thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để
Chúa thương xót hết mọi người.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 15, 21-28
"Này
bà, bà có lòng mạnh tin".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở
Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít,
xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không
đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy
thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời:
"Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy
Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không
nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy
Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống". Bấy
giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà
muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Thiên
Chúa Không Kỳ Thị Hạng Người Nào
Thái
độ và lời nói của Ðức Yêsu Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay có thể khiến chúng
ta thoạt đọc và thoạt nghe thấy không ngon cho lắm. Nhưng đó lại chính là cớ
thúc giục chúng ta tìm hiểu Lời Chúa cho rõ ràng và sâu xa hơn nữa, để xem những
cảm giác đầu tiên có xứng đáng không? Ðể làm công việc này có thể chúng ta cứ
theo phương pháp giáo dục và sư phạm thông thường của Kinh Thánh, tức là hiểu
rõ bài Cựu Ước, chúng ta sẽ dễ tiếp thu được những chiều kích phong phú của Tân
Ước. Bài sách Isaia hôm nay sẽ giúp chúng ta đi vào bài Tin Mừng. Và bài Thánh
Thư đến sau đó sẽ như là một hậu quả tự nhiên.
A.
Thiên Chúa Không Kỳ Thị Hạng Người Nào
Ðoạn
Cựu Ước hôm nay là những lời đầu tiên trong phần thứ III của sách Isaia. Nói
đúng hơn đó là những lời trước hết của một cuốn sách khác, sánh với hai phần
trên của sách Isaia. Sách này đúng ra là của ba tác giả, ở ba thời khác nhau,
bàn về ba vấn đề khác nhau; nên ba phần của sách thật ra là ba sách khác nhau.
Ðoạn trích hôm nay thuộc về cuốn thứ ba, viết vào thời sau lưu đày và để soi
sáng Dân Chúa trong thời hậu Lưu đày này. Thế mà vấn đề đầu tiên đến với Dân
Chúa lúc bấy giờ chính là tương quan giữa đám dân hồi hương và những kẻ xa lạ
đã đến ở trong Thánh địa đang khi Lưu đày. Loại người ngoại bang (hay tha bang)
này có được thâu nhập vào Dân Chúa không? Bởi vì lịch sử Dân Chúa đâu đã kết
thúc. Việc ra khỏi Lưu đày để trở về quê hương tuy đã thực hiện một số Lời Hứa
mà các Ngôn sứ đã tuyên sấm. Nhưng phần lớn các Lời Hứa từ Abraham, qua Môsê và
qua các Tiên tri vẫn đang còn phải chờ mong. Thời đại Ðấng Cứu thế vẫn chưa đến.
Dân Chúa đang sống trong đợi chờ. Hồng ân của thời Cứu độ ấy có được ban cho
ngoại bang không? Sau này họ có kết nạp với con cái Israel làm thành một dân
không, hay là họ vẫn là kẻ xa lạ với ơn cứu độ chỉ dành cho những kẻ đã cắt bì?
Ðó
không phải là những thắc mắc lý thuyết. Trong thực tế tương quan giữa Dothái và
ngoại bang cần được giải đáp sáng sủa. Bởi vì ngoại bang không phải chỉ là ngoại
kiều. Ngoại kiều có cư trú hẳn hoi ở giữa Dân Chúa. Luật pháp cho họ những quyền
lợi và đòi họ những nghĩa vụ. Còn ngoại bang là những dân ngoại không có cư trú
và cũng chẳng muốn có cư trú. Họ muốn được hưởng dùng mọi thuận lợi trong Dân
Chúa nhưng chẳng muốn bị gò bó vào một nghĩa vụ công dân nào. Thế nên họ bị
ghét và có khuynh hướng bị gạt ra khỏi Dân.
Chúa
đối với hạng ngoại bang này thế nào? Người có chương trình gì cho họ không? Hôm
nay Ngôn sứ của Chúa tuyên bố không úp mở?
Trước
hết, Chúa phán dạy Ơn cứu độ của Người đã gần đến nơi và đức nghĩa của Người sắp
rạng rỏ. Người ta phải mau mau đón tiếp. Hãy giữ công minh và thi hành đức
nghĩa. Ðặc biệt hãy giữ ngày Sabbat (Hưu lễ) vì đó là dấu có lòng tin sợ Chúa.
Phúc cho người nào biết thi hành như vậy, vì bất luận họ là ai mà nắm chặt những
điều ấy cũng đều nhận được Ơn Chúa cứu độ. Không có luật trừ nào, kể cả đối với
người ngoại bang. Nếu họ muốn phụng sự và mộ mến Yavê, nếu họ giữ ngày Hưu lễ
và thi hành công chính, thì Thiên Chúa sẽ dẫn họ lên Núi Thánh của Người và Nhà
của Người sẽ là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.
Lời
Chúa thật rõ ràng và vô cùng mới mẻ đối với người ở thời sách Isaia. Trong
tương lai, vào thời Ðấng Cứu thế, sẽ không còn phân biệt cắt bì hay không cắt
bì, Dothái hay dân ngoại, con cái Israel hay ngoại bang. Thiên Chúa sẽ lập một
Dân Mới cho mọi hạng người và cho mọi dân tộc, miễn là họ giữ công minh và thi
hành đức nghĩa, giữ ngày Hưu lễ và không vi phạm Giao ước. Tất cả sẽ được ở
trong Nhà Chúa là Nhà chung cho hết mọi dân tộc.
Giáo
lý phổ quát này dễ hiểu đối với chúng ta, nhưng thật khó chấp nhận cho loài người
ở thời có tầm mắt hạn hẹp. Người ta không quen thấy gì ở ngoài hàng rào các thứ
biên giới. Ngay ở thời Chúa Yêsu và ngay sau Chúa Yêsu, giáo lý về phổ quát
tính của Ơn cứu độ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chống đối. Ðó là điều chúng ta
có thể nhìn thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta hãy thử xem vấn đề đã được
giải quyết như thế nào?
B.
Hội Thánh Thâu Nhận Lương Dân
Chúng
ta không thể đọc bài Tin Mừng hôm nay mà không để ý đến bối cảnh khi nó được viết
ra. Ðành rằng đây là một câu truyện đã xảy ra ở thời Chúa Yêsu, lúc Người còn tại
thế. Và phân tích kỹ, chúng ta vẫn có thể thấy nhiều chiều kích phong phú của
câu truyện này. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải nhớ, câu truyện được kể lại cho
chúng ta dưới hình thức hiện nay không khỏi mang theo nhiều sắc thái của thời đại
hình thành ra nó trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêô. Ðó là thời sau Chúa
Yêsu, thời Hội Thánh bắt đầu lan rộng, thời các Tông đồ đang lúng túng về thái
độ phải có đối với lương dân. Soạn giả của bài Tin Mừng hôm nay vừa viết lại một
câu truyện trong cuộc đời của Chúa Yêsu, vừa muốn dùng câu truyện này để soi
sáng và hướng dẫn Hội Thánh.
Trước
hết, chúng ta thấy Chúa Yêsu bấy giờ lui đến miền Tyrô và Siđôn là những nơi
dân Dothái giáp giới với dân ngoại. Ðó cũng là sự kiện có thể gợi lên việc Hội
Thánh lúc này phải giáp mặt với lương dân. Chúa Yêsu có vẻ như không muốn rời
khỏi biên giới đất Dothái để sang truyền giáo cho dân ngoại. Nhưng một người phụ
nữ từ bên kia biên giới đã chạy sang kêu cầu Người cứu chữa. Chúng ta hãy chú ý
đến lời xin của bà. Ðó là giọng văn hoàn toàn phụng vụ: "Xin thương xót
tôi". Và là những lời công nhận ơn cứu độ từ nơi dân Dothái, vì bà ta xưng
hô Người là Con vua Ðavít. Như vậy, dù là lương dân nhưng bà đã có đức tin và
biết tôn thờ như người Dothái. Lẽ ra Chúa phải ban ơn ngay cho bà. Nhưng Người
lại yên lặng, không đáp lại một lời. Ðể cho người ta suy nghĩ; để cho môn đệ
bày tỏ cảm nghĩ của mình.
Các
ông thưa: "Xin để cho bà ấy về, vì bà cứ kêu gào đàng sau chúng tôi".
Các ông muốn rảnh mình chứ không xét đến quyền lợi của người khác. Chúa Yêsu
không thể đồng ý như vậy. Người kích thích mọi người phải suy nghĩ sâu xa hơn.
Người bảo: "Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi".
Các môn đệ hẳn thấy bế tắc, nhưng chắc chắn họ đang mong có một giải pháp kẻo
như thế này họ cứ bị làm rầy mãi và không được yên. Còn người phụ nữ kia, với
lương dân ở nơi bà, cũng chẳng biết làm gì hơn là nài nẵng thêm: "Lạy Ngài
xin cứu giúp tôi". Chính lúc ấy, Chúa Yêsu đem giải pháp đến cho mọi người.
Người nói một câu có vẻ khó nghe, nhưng thật sự chứa đầy hy vọng. Ơn Chúa vẫn
thường đến trong thử thách. Thiên Chúa ban ơn cứu độ qua mầu nhiệm thập giá.
Chúa Yêsu nói để mọi người nghe thấy: "Không nên lấy bánh của lũ con mà
quăng cho đàn chó". Nhưng ai lại không thấy trong gia đình trẻ con hay
chơi với chó mèo và hay bẹo bánh cho chúng ăn. Lời của Chúa có thể gợi lên hình
ảnh rất thân mật. Nhất là Chúa rất tâm lý. Người biết người Dothái vẫn coi
lương dân là chó. Nhưng ở đây Người thấy các môn đệ đang có cảm tình với người
lương dân này. Người dùng lại từ ngữ "chó" trong hoàn cảnh đặc biệt
này để xóa bỏ hiềm thù và kỳ thị cố hữu giữa hai bên.
Dù
sao, câu nói của Người đã mở ra một lối thoát. Bà kia vội nắm lấy và thưa ngay:
"Vâng! Nhưng đàn chó cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống tự bàn của chủ
chúng nó". Chúng ta bảo bà nhanh trí ư? Ở đây tác giả muốn nói lương dân rất
ý thức địa vị của mình trong Lịch sử cứu độ. Họ vừa đầy lòng tin, vừa rất khiêm
cung. Họ rất xứng đáng được ơn Chúa. Thế nên hết mọi người đều được thỏa mãn
khi nghe Chúa Yêsu nói với bà kia: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà
muốn sao thì hãy được như vậy!".
Và
chúng ta đọc lại câu truyện như thế đã thấy đầy chất sư phạm trong bài tường
thuật trên. Người ta muốn được học với Chúa về thái độ phải có đối với lương
dân. Hội Thánh bấy giờ đang bị dằn vặt về vấn đề không biết có nên thâu nhận
dân ngoại vào sản nghiệp Nước Trời hay không, và nếu có thì phải làm thế nào? Lời
giải đáp trong câu truyện hôm nay có vẻ dè dặt nhưng rất cương nghị. Dè dặt vì
phải ban bài họ cho những con người còn hẹp hòi - và loài người chúng ta thì vẫn
vậy! - Nhưng cương nghị vì cuối cùng ai cũng phải chấp nhận cần phải chia sẻ ơn
cứu độ cho lương dân. Những người này chỉ cần phải có đức tin, một đức tin vững
vàng, một đức tin đúng với truyền thống mạc khải.
Như
vậy bài Tin Mừng hôm nay lại gợi đến bao câu truyện mà chúng ta đã nghe nói về
thời các Tông đồ. Ðặc biệt nhất là bầu khí căng thẳng ở thời bấy giờ giữa hai
khuynh hướng rộng và ngặt trong vấn đề thâu nhận lương dân vào Hội Thánh. Ở đây
giáo lý của tác giả sách Tin Mừng Matthêô, tác phẩm được soạn thảo cho giới
Kitô hữu gốc Dothái, đâu có khác gì với giáo lý của thánh Phaolô, vị Tông đồ của
dân ngoại? Ở đâu chân lý cũng là một, và ở đâu tình bác ái cũng vẫn thắng. Cho
dù loài người có hẹp hòi, tình yêu bao la của Thiên Chúa vẫn mạnh mẽ và làm nổ
tung mọi giới hạn mà loài người đặt ra. Ngay từ đầu Người đã muốn cho cả nhân
loại được hạnh phúc và muôn dân được cứu độ trong Lời Hứa với Abraham. Ðến thời
Isaia, Người lại khẳng định như chúng ta nghe đọc trong bài Cựu Ước hôm nay. Và
nhìn thấy cách cư xử sư phạm của Chúa Yêsu Kitô, Hội Thánh thâu nhận mọi dân tộc
vào Nước Trời miễn là người ta có đức tin vững vàng đúng với truyền thống mạc
khải. Tính cách phổ quát của ơn Cứu Ðộ như thế đã được xác định.
Ðiều
kiện được nhận vào Dân Chúa cũng đã rõ ràng. Tuy nhiên thử hỏi ngày nay đã thật
hết thái độ hẹp hòi chưa? Hay vẫn còn có những người muốn lấy các tiêu chuẩn của
loài người để như phủ nhận một hạng người nào đó được hưởng ơn Cứu độ?
C.
Một Thắc Mắc Sâu Xa
Thánh
Phaolô hôm nay trong bài thư không có não trạng hẹp hòi như thế. Ngược lại người
muốn hết thảy mọi dân tộc được cứu độ. Nhưng chính vì vậy người có một thắc mắc
day dứt, một nỗi buồn sâu xa vô tận. Người thấy Cửa Nước Trời đã rộng mở để đón
các dân ngoại vào lãnh nhận ơn cứu độ dành cho muôn dân. Còn chính Dân cũ của
người và đồng bào huyết nhục của người là Dân Dothái, thì cớ sao lại cứ khép
kín đối với ơn cứu độ? Ðành rằng có một số con cái Israel đã tòng giáo; nhưng
xét về cơ cấu và tổ chức, Dân cũ vẫn như muốn phủ nhận hoài sự nghiệp của Ðức
Yêsu Kitô. Phaolô đầy tinh thần tông đồ, xông pha mọi nơi để rao giảng Tin Mừng
cứu độ, chẳng quản gian nan thử thách. Người đã đưa các dân ngoại vào Nước Trời...
đang khi ấy đồng bào huyết nhục với người lại khư khư từ chối ơn cứu độ trong Ðức
Yêsu Kitô. Phaolô yêu Chúa và yêu đồng bào. Người đau khổ trước sự thật phủ
phàng này. Người thắc mắc không hiểu tại đâu lại như vậy. Giá như người có thể
cứu rỗi được một ít người trong số đồng bào kia!
Người
tưởng khi nhiệt thành phục vụ dân ngoại, làm cho nhiều người được vào Nước Trời,
người có thể khiến đồng bào của người phát ghen lên để họ cũng được cứu rỗi.
Ghen đây không phải là ghen với dân ngoại, nhưng là khi thấy dân ngoại thừa hưởng
được Lời Hứa của Tổ phụ mình, con cái Israel sẽ hồi tâm nhận ra giá trị của kho
tàng mình đang nắm giữ. Ðược như vậy cũng quý lắm. Nhưng dường như sự việc
không diễn tiến như thế. Mặc cho Phaolô nhiệt tình rao giảng cho dân ngoại, đồng
bào của người không ghen mà chỉ tức, đến nỗi luôn mong có ngày làm cho người
không hoạt động truyền giáo được nữa.
Như
vậy họ sẽ không bao giờ được cứu độ sao? Còn đâu tính cách phổ cập của lòng
Chúa xót thương? Chắc chắn việc Israel thay đổi lòng dạ để đón nhận ơn cứu độ sẽ
như là một việc cải tử hoàn sinh và giống như việc sống lại từ cõi chết. Nhưng
có thể hy vọng một việc như vậy không?
Phaolô
tin vào tình yêu lớn lao của Thiên Chúa. Người đưa ra một lý luận để an ủi
mình. Người nghĩ: trước đây dân ngoại bất tuân Thiên Chúa thế mà nhân vì Israel
phủ nhận Tin Mừng mà Tình yêu của Thiên Chúa đã tràn sang dân ngoại; thì rồi
đây Israel cũng sẽ nhận được tình yêu này cho dù bây giờ họ bất tuân, để chứng
tỏ rằng cả dân ngoại cả Israel đều được Tình yêu cứu độ nhưng không của Thiên
Chúa. Ðó là mầu nhiệm, và là mầu nhiệm chứng tỏ tình yêu bao la của Thiên Chúa,
cũng như tỏ hiện kế hoạch khôn ngoan thâm sâu của Người. Như vậy, cho dù không
hiểu rõ, Phaolô vẫn đầy lòng tin, tín nhiệm nơi Thiên Chúa tình yêu muốn cứu độ
hết mọi dân tộc.
Phụng
vụ hôm nay qua các bài Kinh Thánh cũng muốn chúng ta tin yêu vững vàng như thế.
Thiên Chúa khẳng định ý muốn của Người muốn cứu độ mọi người và mọi nước. Người
đã chia sẻ ơn cứu độ cho cả dân ngoại. Người không muốn chúng ta có thái độ hẹp
hòi kỳ thị một ai. Người muốn Nhà của Người là Hội Thánh phải trở thành Nhà cầu
nguyện của hết mọi dân tộc.
Chúng
ta có nghĩa vụ đón mời hết mọi người vào. Chúng ta không được gây cản trở cho một
ai đến với Hội Thánh. Và nếu gặp nơi người nào như có một thái độ cố chấp phủ nhận
nào đó, phải chăng chúng ta không nên đọc lại bài thư Phaolô hôm nay để vẫn tin
tưởng và tín nhiệm vào cách làm việc mầu nhiệm nhưng kỳ diệu của Thiên Chúa?
Chúng ta phải bắt chước Phaolô mà ca tụng: Ôi thâm sâu thay sự giàu có, khôn
ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Người muốn cứu độ mọi người và không phủ nhận
một ai. Nguyên xem việc Con Một Người xả thân cứu thế trong mầu nhiệm cử hành
nơi bàn thờ bây giờ cũng đủ rõ!
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 20 Thường
Niên,
Năm A
Bài đọc: Isa 56:1, 6-7; Rom
11:13-15, 29-32; Mt 15:21-28
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Muôn
dân sẽ được hưởng ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Vì
tình yêu thương, Thiên Chúa có kế hoạch Cứu Độ cho muôn dân. Theo kế hoạch này,
ơn Cứu Độ sẽ bắt đầu từ số nhỏ rồi lan ra đến hết mọi người. Chúa chọn dân tộc
Do-thái từ đầu làm Dân Riêng của Thiên Chúa. Từ dân tộc Do-thái, ơn Cứu Độ được
lan ra hết các Dân Ngoại khắp nơi trên thế giới cho đến tận cùng trái đất.
Các
Bài đọc hôm nay cho chúng ta cái nhìn tổng quan về kế hoạch Cứu Độ này. Trong
bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy trước ngày những người ngoại bang nào gắn
bó cùng Thiên Chúa, yêu mến Thánh Danh của Ngài, tuân thủ giao ước... sẽ được
Ngài chấp nhận và kể như dân của Ngài, và lời của họ cầu xin và lễ vật họ dâng
sẽ được Ngài hoan hỷ chấp nhận. Trong bài đọc II, thánh Phaolô cắt nghĩa cho mọi
người biết kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong giai đoạn đầu, Ngài đã chọn
dân tộc Do-thái như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới. Khi Đấng
Thiên Sai tới, Ngài bắt đầu giai đoạn thứ hai là mang ơn Cứu Độ cho tất cả mọi
người, chứ không còn bị giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái nữa. Lý do một số
người Do-thái không chịu tin Đức Kitô là để cho Tin Mừng được lan rộng đến Dân
Ngoại; nhưng sau cùng, người Do-thái cũng sẽ trở lại và tin vào Đức Kitô để họ
cũng được cứu độ. Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew cho chúng ta một ví dụ cụ thể:
Một người đàn bà Canaan có đứa con gái bị quỉ ám và đến xin Chúa chữa. Sau thử
đức tin của Bà, Ngài đã ban cho Bà theo như ý Bà xin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.
Trình
thuật của Isaiah hôm nay nằm trong phần mà một số học giả gọi là Isaiah đệ tam
(chương 56-66), phần này được viết bởi môn đệ hay trường phái của Isaiah sau thời
gian lưu đày. Hai điểm nổi bật trong trình thuật hôm nay:
1.1/
Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa gần đến. Tác giả tuyên sấm: “Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân
giữ điều chính trực, thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ.”
-
Trên phương diện lịch sử, lời tiên tri này được ứng nghiệm khi Vua Cyrus nước
Ba-Tư, sau khi được Thiên Chúa ban cho đánh bại đế quốc Babylon, đã ra chiếu chỉ
ban phép cho dân Do-thái được hồi hương. Không những thế, ông còn tạo phương tiện
để họ có vật liệu cần thiết xây dựng lại Đền Thờ Jêrusalem. Sự kiện này được
sách Erza ghi lại như sau: “Cyrus, vua Ba-tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên
Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người đã trao cho
ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi nhà ở Jerusalem tại Judah. Vậy ai
trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy
lên Jerusalem tại Judah và xây Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel. Chính Người
là Thiên Chúa ngự tại Jerusalem. Và mọi người còn lại ở bất cứ nơi nào họ đang
trú ngụ, phải được dân địa phương cấp cho bạc vàng, của cải và thú vật, cũng
như lễ vật tự nguyện, để dâng cúng cho Nhà Thiên Chúa ở Jerusalem” (Erz 1:2-4).
-
Trên phương diện của lịch sử cứu độ, lời tiên tri này được ứng nghiệm khi Đức
Kitô, Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đến để chuộc tội và mang ơn Cứu Độ cho muôn
người. Câu này có thể bị cắt nghĩa sai là vì dân chúng sống công chính nên họ xứng
đáng được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cắt nghĩa chính xác và
rõ ràng hơn: Đức Kitô chính là sự công chính của Thiên Chúa (Rom 3:22). Con người
được cứu độ không phải vì họ sống công chính; nhưng vì nhờ họ tin vào Đức Kitô
(Rom 3:28).
1.2/
Ơn cứu độ không còn bị giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái, nhưng lan rộng đến
mọi người: “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu
mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày Sabbath mà
không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi
thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng
nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.”
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân.”
Nhà
cầu nguyện của Thiên Chúa không còn giới hạn phải là Đền Thờ tại Jerusalem, vì
như Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ
các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jerusalem”
(Jn 4:21).
2/
Bài đọc II:
Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi
người.
Thánh
Phaolô cũng quả quyết “Cả người Do Thái lẫn Dân Ngọai đều có thể được hưởng ơn
Cứu Độ trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa.” Để hiểu bài đọc, chúng ta có
thể chia làm ba giai đoạn chính trong kế hoạch này:
2.1/
Từ ban đầu cho tới khi Chúa Giêsu đến: Dân Ngoại là những người không tin và vâng phục
Thiên Chúa. Thánh Phaolô lý luận:
(1)
Tuy chưa được nghe về Thiên Chúa, nhưng Dân Ngọai vẫn bị kết tội vì vinh quang
của Chúa biểu lộ khắp nơi qua việc sáng tạo và quan phòng vũ trụ. Họ có thể
dùng trí khôn ngoan của họ để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và tin vào Ngài
(Rom 1:19-21), nhưng họ đã không làm như thế.
(2)
Người Do Thái rất hãnh diện vì có Chúa Tể trời đất là Thiên Chúa của họ và Ngài
ban cho họ Lề Luật; nhưng có người Do-thái nào tuân giữ tất cả Lề Luật đâu. Vì
thế, họ có thể bị luận phạt nhiều hơn vì có Luật mà không chịu giữ.
2.2/
Từ thời Chúa Giêsu đến cho tới thời Cánh Chung: Vì người Do Thái không tin,
nên Tin Mừng Cứu Độ được rao giảng cho Dân Ngoại.
Thánh
Phaolô được Chúa dùng đặc biệt để rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Chính người
đã thú nhận: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc Dân Ngoại. Với tư
cách là Tông Đồ các Dân Ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy
mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi (người Do-Thái) phải ganh tị, và tôi cứu được
một số anh em đó.”
Nhưng
khi một số Dân Ngoại đã đón nhận Tin Mừng và tin nơi Thiên Chúa, họ lại kiêu
hãnh coi thường hay ghét bỏ người Do-thái. Thánh Phaolô phải giải thích cho họ
biết lý do tại sao họ không nên kiêu hãnh và coi thường chỗ đứng của người
Do-thái trong kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một
bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là
gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?”
2.3/
Giai đoạn sau cùng: Chúa
sẽ đưa người Do-thái trở về và cứu họ vì: “Khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi,
thì Người không hề đổi ý. Lý do tại sao họ không vâng phục Thiên Chúa là để Người
thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.”
Và
thánh Phaolô kết luận: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội
không vâng phục, để thương xót mọi người.” Con người chúng ta không thể hiểu nổi
kế hoạch Cứu Độ nhiệm mầu của Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa, Đấng dựng
nên con người, biết cách xử dụng con người để hoàn tất kế hoạch Cứu Độ của
Ngài.
3/
Phúc Âm:
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Điểm
chính trong Bài Phúc Âm không ở chỗ phép lạ, nhưng ở niềm tin của bà mẹ vào
Chúa Giêsu. Bà phải vượt qua ba trở ngại trước khi con bà được chữa lành.
(1)
Trở ngại thứ nhất: thành kiến. Tyre và Sidon (hai thành phố thương mại phồn
thịnh của ANE ngày xưa,Lebanon ngày nay). Chúa và các tông đồ là người Do
Thái, bà là người xứ Canaan, Dân Ngoại. Theo sử gia Josephus, người Canaan là
kẻ thù của người Do Thái. Vì lòng thương con Bà đã vượt qua hàng rào thành kiến
để đến với Chúa vì Bà biết chỉ có Chúa mới chữa được con Bà. Bà van xin:
"Lạy Ngài là con vua David, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ
ám khổ sở lắm!"
(2)
Trở ngại thứ hai: thinh lặng của Chúa Giêsu và xua đuổi của các môn đệ. Bà đã can đảm vượt
thành kiến nhưng vẫn phải chờ thái độ của Chúa và các môn đệ. Chúa không đáp lại
một lời và khi các môn đệ thúc bách: “Xin Thầy truyền cho bà ấy đi, vì Bà cứ
kêu van đàng sau chúng ta” (câu 23b này có trong bản Hy-lạp, nhưng không có
trong bản dịch của Việt Nam). Ngài đáp: "Thầy chỉ được sai đến với những
con chiên lạc của nhà Israel mà thôi." Đây là lần duy nhất mà Phúc Âm Nhất
Lãm tường thuật Chúa đi ra ngòai lãnh thổ Do-thái gặp người ngọai quốc. Nhưng
không nản chí trước những thái độ khước từ, Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng:
"Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!"
(3)
Trở ngại thứ ba: thử thách của Chúa Giêsu. Chúa thử đức tin bà trầm trọng khi Ngài nói: “Không
nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Thử tưởng tượng phản ứng
của chúng ta thế nào khi nghe người khác gọi con chúng ta là chó! Chúng ta có
can đảm để đứng lại nài van xin ơn? Nhưng bà vẫn không bỏ cuộc và đáp lại:
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn
chủ rơi xuống.” Chúa Giêsu phải nhường bước trước đức tin vững mạnh của Bà và
Ngài bảo: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."
Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Vì tình yêu thương, Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng ơn Cứu Độ. Chúng ta
không được kỳ thị bất cứ một chủng tộc nào vì họ đều là con cái Thiên Chúa và xứng
đáng được hưởng ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
-
Nhân loại ở mọi nơi và mọi thời đều khao khát được nghe Tin Mừng, sứ vụ truyền
giáo phải là sứ vụ của tất cả mọi người. Niềm tin chúng ta có được là do công sức
của các nhà truyền giáo ngọai quốc, vì thế khi đến lượt, chúng ta cũng phải
loan truyền niềm tin này.
-
Năm Thánh Phaolô nhắc chở cho chúng ta biết noi gương Ngài, dám hy sinh tất cả
vì lòng yêu mến Chúa Kitô để rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người.
-
Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội phổ quát, dành cho hết mọi người. Chúng ta đừng
ngại đối thoại với những người của các tôn giáo khác và mời gọi họ tham gia phụng
vụ của chúng ta; nhưng chúng ta phải tôn trọng chân lý và không thể cho họ
thông hiệp những bí-tích mà họ không có cùng niềm tin như chúng ta.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
17/08/14 CHÚA NHẬT TUẦN 20 TN – A
Mt 15,21-28
Mt 15,21-28
Suy niệm: Nếu muốn giới hạn sứ mạng của mình trong phạm
vi dân Ít-ra-en, Chúa Giê-su chỉ cần đơn giản từ chối lời cầu xin của người đàn
bà dân ngoại. Đằng này, chẳng những Ngài từ chối mà còn so sánh bà với lũ chó
con: “Không nên lấy bánh dành cho
con cái mà ném cho lũ chó con.” Thế
nhưng lòng tin của bà thật tuyệt vời! Bà không tuyệt vọng cũng không cho rằng
mình bị xúc phạm; trái lại bà còn tuyên xưng niềm tin vào tình thương vô biên
của Chúa, tình thương lớn đến nỗi cả “lũ chó con cũng được ăn những mảnh
vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đức
tin của bà khiêm
hạnhưng mạnh
mẽ và kiên trì như thế,
nên Chúa Giêsu phải thốt lên: “Này
bà, lòng tin của bà mạnh thật” mạnh
đến độ Chúa đã chấp nhận nhờ đó con bà đã được cứu sống.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su khen lòng tin của người đàn bà dân ngoại “mạnh thật” vì đó là một đức tin không chỉ có trên giấy mà
là đức tin đã phát huy được tất cả sức mạnh vào trong hành động và cả cuộc
sống. Nhiều người sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trở thành Ki-tô hữu, lại
dễ có rơi vào thói quen “có
đạo, giữ đạo mà không sống đạo.” Trái
lại, người có “đức
tin mạnh thật” không
chỉ “đọc kinh, xem lễ” mà còn kiên trì cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa,
để chất Tin Mừng thấm sâu vào từng ý nghĩ hành vi trong cuộc sống của mình.
Sống Lời Chúa: Kiên
trì cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa để xin Ngài ban cho bạn“một
đức tin mạnh thật”.
Cầu nguyện: Cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn “Đức Tin”. Xin cho con luôn biết đào
sâu đức tin trong mỗi ngày sống, để con khám phá ra sự hiện diện đầy yêu thương
của Chúa trong đời con.
Lòng
tin của bà mạnh thật (17.8.2014 – Chúa nhật 20 Thường niên)
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám.
Bà là dân ngoại, còn Ðức Giêsu là người Do thái.
Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà.
Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Ðức Giêsu.
Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến,
con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Bà là dân ngoại, còn Ðức Giêsu là người Do thái.
Ít khi Ngài đến vùng đất quê hương của bà.
Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Ðức Giêsu.
Khi thấy Ngài, bà tin rằng cơ may đã đến,
con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Ðức Giêsu khen bà là người có lòng tin lớn lao.
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó.
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ,
đau vì nỗi đau của đứa con.
Nhưng Ðức Giêsu không đáp lại một lời.
Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau,
lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được?
Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế.
Chúng ta khắc khoải tự hỏi:
Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người mẹ,
đau vì nỗi đau của đứa con.
Nhưng Ðức Giêsu không đáp lại một lời.
Phải chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau,
lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được?
Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế.
Chúng ta khắc khoải tự hỏi:
Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Ðức Giêsu.
Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi.
Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài,
và nài xin Ngài cứu giúp.
Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng:
“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.”
Bà có bị sốc không
khi Ðức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà
không đáng được hưởng phần bánh của con dân Ít-ra-en?
Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng của Ðức Giêsu.
Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi.
Rồi bà trực tiếp giáp mặt Ngài,
và nài xin Ngài cứu giúp.
Kết quả là một lời từ chối không khoan nhượng:
“Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.”
Bà có bị sốc không
khi Ðức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà
không đáng được hưởng phần bánh của con dân Ít-ra-en?
Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Ðức Giêsu.
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con,
chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống.
Bà không dám mong được phần ăn của các con.
Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi.
Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa,
và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Bà chấp nhận lối so sánh của Ðức Giêsu.
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con,
chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ bàn rơi xuống.
Bà không dám mong được phần ăn của các con.
Sức mạnh của lòng tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi.
Tin là chờ đợi tất cả từ tay Chúa,
và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Ðức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ dân ngoại
vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài:
Ngài chỉ được Cha sai đến với người ít-ra-en thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc.
Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ,
nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra,
ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ.
Ngài để cho mình bị chinh phục
và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí.
Thay đổi là trung thành và uyển chuyển
để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày,
và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài:
Ngài chỉ được Cha sai đến với người ít-ra-en thôi.
Nhưng Ðức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc.
Ngài tin Cha vẫn nói với Ngài qua mọi cảnh ngộ,
nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra,
ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ.
Ngài để cho mình bị chinh phục
và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay thiếu ý chí.
Thay đổi là trung thành và uyển chuyển
để có thể nắm bắt được ý Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng ngày,
và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
Cầu
Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ
vì những gì Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
vì những gì Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha
vì những gì Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
vì những gì Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Tâm hồn khiêm tốn
Biến cố chúng ta vừa đọc
lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất
của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích
từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người
con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu
van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Đavít, xin
dủ lòng thương tôi. Đức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa
Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa
không đáp lại? Chúa là Đấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của
những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được.
Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả
lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được
thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau:
"Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi".
Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài
cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy
nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ
như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà
thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái
độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy
Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc
Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn
hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà
sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của
Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện
Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái
mà đem ném cho chó". Đây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt
qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh
vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp
người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu
trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ
được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con
bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng
người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn
đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im
lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của
Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian
nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình.
Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách
hay không.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho tất cả
những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm
ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa,
Xin thương nâng đỡ chúng
con và củng cố đức tin cho chúng con.
Radio
Veritas Asia
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét