20/08/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật
20 Quanh Năm
Thánh Bênađô, viện
phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần
Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập
dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng
hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự
phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và
hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời
năm 1153.
Bài
Ðọc I: (Năm II) Ed 34, 1-11
"Ta
sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi tay chúng, và đoàn chiên sẽ không làm mồi ngon
cho chúng nữa".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Có
lời Chúa phán cùng tôi rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri về các chủ chăn
Israel, hãy nói tiên tri và bảo các chủ chăn rằng: Chúa là Thiên Chúa phán thế
này: Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân: chớ thì các
chủ chăn không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao? Các ngươi đã uống sữa chiên,
đã mặc áo lông chiên, hễ con nào béo tốt, các ngươi làm thịt: nhưng các ngươi
không chăn nuôi đoàn chiên của Ta. Con nào yếu đuối, các ngươi không bổ dưỡng;
con nào đau ốm, các ngươi không chạy chữa; con nào bị thương, các ngươi không
băng bó; con nào đi lạc, các ngươi không đem về; con nào đi mất, các ngươi
không tìm kiếm; nhưng các ngươi chăn dắt chúng bằng bạo lực và nghiêm khắc. Các
chiên Ta tản mác vì thiếu chủ chăn: chúng làm mồi cho thú dữ ngoài đồng. Các
chiên Ta lang thang khắp núi, trên mọi đồi cao, các chiên Ta tản mác khắp mặt đất,
và chẳng có ai tìm kiếm. Ta nói, chẳng có ai tìm kiếm.
Vì
thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Thiên Chúa phán: Nhân danh mạng sống của
Ta, các chiên Ta đã bị cướp mất, các chiên Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, vì
không có chủ chăn: các chủ chăn của Ta không lo lắng cho đoàn chiên Ta, nhưng
chúng chỉ nuôi chính bản thân, mà không chăn nuôi các chiên Ta, vì thế, hỡi các
chủ chăn, hãy nghe lời Chúa: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta
sẽ đến với các chủ chăn, đòi lại đoàn chiên khỏi tay chúng, và sẽ không cho
chúng chăn nuôi đoàn chiên nữa, các chủ chăn không còn nuôi chính bản thân nữa.
Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi miệng chúng, và đoàn chiên sẽ không còn làm
mồi ngon cho chúng nữa.
Vì
Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và
Ta sẽ thăm viếng chúng.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn
nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả
tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi,
người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2)
Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy
Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3)
Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì
Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4)
Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong
nhà Chúa, tôi sẽ định cư, cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 118, 135
Alleluia,
alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con
những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay
mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như
chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những
người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng
giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo
họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các
ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở
ra và làm như vậy.
"Ðến
khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng:
"Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng:
"Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi
cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Ðến
chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà
trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy
những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những
người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi
người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những
người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt
ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong
nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã
không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn
trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn
sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như
thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lòng
Quảng Ðại Của Thiên Chúa
Dụ
ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà
chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ
những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu
truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu
truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính
của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong
lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc
lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ
ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và
chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt
thòi.
Chúa
Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với
người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời,
bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ
không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu
cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa:
"Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi
một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của
cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi
người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen
tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng
ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ
được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống
quảng đại với mọi người.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 20 TN2
Bài đọc: Eze 34:1-11; Mt
20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mục Tử Tốt Lành.
Bổn
phận của những người lãnh đạo là phải lo cho tất cả mọi người dưới quyền mình,
không chỉ những người có tài đức, tốt lành, trẻ trung, mạnh khỏe; nhưng còn cả
những người bất tài, già yếu, bệnh tật… Các Bài đọc hôm nay cho thấy sự khác biệt
giữa Thiên Chúa, người Mục Tử Tốt Lành với những mục tử giả hiệu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Các mục tử giả hiệu không chịu săn sóc đòan chiên của mình.
Bổn
phận của người mục tử là coi sóc đòan chiên của mình, họ phải chịu trách nhiệm
trước mặt chủ vì số phận của đòan chiên. Nếu đòan chiên tốt lành, mạnh khỏe, họ
sẽ được chủ khen ngợi và thưởng công xứng đáng. Nếu đòan chiên yếu nhược, tan
tác, họ sẽ bị chủ nghiêm khắc trị tội và lấy đi quyền mục tử để trao cho người
khác biết cách chăm sóc đòan chiên tốt hơn. Cũng vậy, những người lãnh đạo
trong tôn giáo cũng như ngòai xã hội, họ có bổn phận coi sóc những người dưới
quyền họ, và họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa, Đấng đã ban quyền
và trao cho họ những người họ phải chăm sóc.
Người
mục tử giả hiệu chỉ biết lo cho bản thân họ như tiên tri Êzêkiel đã tuyên sấm
hôm nay: Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử
không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên
béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu,
các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành;
chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về;
chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách
tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho
mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh
đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai
kiếm tìm.
Hậu
quả của việc chăn chiên vô trách nhiệm là họ sẽ bị Thiên Chúa trừng trị xứng
đáng. Ngài sẽ tước đọat quyền mục tử bằng cách lấy đòan chiên lại để trao vào
tay người khác: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ
không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải
thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho
chúng nữa.
Vì
không kiếm được những mục tử tốt lành trong Israel, nên Đức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.”
Người Mục Tử Tốt Lành trong Tân Ước là chính Chúa Giêsu vì chính Ngài đã tuyên
bố: “Ta là Mục Tử Tốt Lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Jn
10:11a). Điểm nổi bật của người Mục Tử Tốt Lành là ông “dám phó mạng sống mình
vì đòan chiên” (Jn 10:11b). Chính Chúa Giêsu đã thân hành huấn luyện các Tông Đồ
để trở thành những người Mục Tử Tốt Lành theo gương và đường lối của Ngài.
2/
Phúc Âm:
Người Mục Tử Tốt Lành săn sóc tất cả các con chiên của mình.
Điểm
chính trong dụ ngôn hôm nay không phải ở chỗ công bằng hay bất công xã hội: làm
ít ăn ít, làm nhiều ăn nhiều; nhưng ở chỗ mọi người đều có của ăn. Người lãnh đạo
tài đức là người sắp xếp làm sao cho mọi người đều có việc và có của ăn xứng với
phẩm giá con người. Khởi đầu bằng lời Chúa Giêsu nói: "Nước Trời giống như
chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của
mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào
vườn nho làm việc.”
Những
người đến sau Phúc Âm không cho biết lý do tại sao; nhưng trong đời sống con
người, rất nhiều chuyện không dự tính có thể xảy ra. Thay vì mất công tìm ra lý
do tại sao họ không cùng nhóm với những thợ từ sáng sớm (ngay cả việc lười biếng
cũng là một chứng bệnh), chúng ta có thể xếp họ vào nhóm không có cơ may (bệnh
tật, ít tài, tai nạn…). Nhà lãnh đạo giỏi có thể khắc phục và tìm ra cách dùng
những người không có cơ may. Phúc Âm tường thuật: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở
ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ:
"Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng."
Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y
như vậy.
Sau
cùng, khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó,
ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Họ
đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa,
hãy đi vào vườn nho!" Phúc Âm ở đây nói rõ hơn lý do tại sao họ không làm
việc vì không ai mướn họ. Những người này chỉ làm có một tiếng mà thôi vì bắt đầu
giờ thứ 12 là hết ngày làm việc.
Công
nhật của người Do-Thái trong thời gian này là một denari một ngày, và ông chủ
đã giao kèo với họ từ đầu. Ông chủ không đối xử bất công với bất cứ nhóm thợ
nào nên họ không có lý do nào để khiển trách ông. Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo
người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người
vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." Vậy những người mới
vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến
lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng
cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền.
Ghen
tị là bản chất của con người, họ không muốn ai bằng họ nhất là lại làm ít giờ
hơn họ.
Họ
vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ,
thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc
nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
Tại
sao ông chủ như thế? Câu trả lời của ông chứng tỏ ông là người Mục Tử Nhân
Lành, ông thực thi cả công bằng và nhân từ. Ông lo cho tất cả mọi người có việc
làm và có tiền để sinh sống khi ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ:
"Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi
là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người
vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ
ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra
ghen tức?"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa trao cho một, hai, hay cả đòan chiên để
chăm sóc tùy khả năng của mỗi người trong các chức vụ cha mẹ, thầy cô, cha xứ,
lãnh đạo trong tôn giáo cũng như ngòai xã hội.
-
Khi trao quyền Chúa cũng trao luôn trách nhiệm, chúng ta phải chịu trách nhiệm
trước Chúa về những người Chúa trao.
-
Người Mục Tử Tốt Lành biết khả năng của chiên mình, và chăn dắt chiên sao cho
phù hợp với từng chiên. Ông biết cách vượt lên trên mọi ghen tị của các chiên
khác và luôn tỏ lòng nhân từ cho hết mọi con chiên.
-
Phải bắt chước Chúa để thương đến các anh chị em không có cơ may như chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 20
Mt 20,1-16a
A. Hạt giống...
Dụ ngôn những thợ làm vườn nho. Điểm nhấn mạnh
của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ :
- Lối suy nghĩ của một số thợ làm nhiều giờ : làm
nhiều thì phải được trả công nhiều.
- Lối suy nghĩ của ông chủ : ông trả công vì thương
(nhưng không hại đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng
kẻ làm suốt ngày.
Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm
khác nhau của người do thái và của Chúa Giêsu :
- Người do thái làm việc đạo đức đề tính công với
Chúa. Họ nghĩ họ làm càng nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ càng nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu : Thiên Chúa ban ơn cho ta
không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không song
hành với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải
theo lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình
thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình
nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà cư xử với con
cái theo lý lẽ của công bình thì không biết con cái sẽ ra sao ?
Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử
theo công bình thì không biết chúng ta sẽ ra sao ?
2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, tôi
không nên ganh tị với những người làm từ giờ thứ 11 (những người lương trở lại
sau, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh
phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để
ganh tị với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì
ai nào đứng vũng được !”. Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không cư xử theo
công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi
người hơn lẽ công bình, vươn tới tình thương.
4. Một người do thái nọ qua đời. Sau khi khám
nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học, và
đã cấp giấy chứng thực để chôn cất. Giữa lúc chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng
nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc
nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết sống lại
như sau : “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo
giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ
thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài
lại và tiếp tục chôn.
Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy
móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các lể luật tôn giáo cũng như khi
cư xử với nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông
lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả
ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12)
Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm
nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ mà không quay
xung quanh được.
Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai
phút một người khác chạy lên, và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một
người khác nữa lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu
tranh chấp. Bỗng từ phía dưới một người lên tiếng : “Tốt hơn, hãy tắt cái quạt
máy đi !” Và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy đã tắt hẳn.
Tôi suy nghĩ và tự hỏi : Tại sao đến với Chúa mà
người ta vẫn còn tranh chấp, ganh tị ? Nhưng dường như cuộc sống con người
thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn
nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân.
Lạy Chúa, Tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán,
xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng
dừng ở chính những con người để biết yêu thương. (Hosanna)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
20/08/14 THỨ TƯ TUẦN 20 TN
Th. Bê-na-đô, viện phụ
Mt 20,1-16a
Th. Bê-na-đô, viện phụ
Mt 20,1-16a
Suy niệm: Đức hồng y Ph.X. Nguyễn Văn Thuận đã nói rằng
mình yêu Đức Giê-su, vì Ngài có 10 khuyết điểm “dễ thương”, mà một trong những khuyết điểm ấy là Đức
Giê-su không biết làm kinh tế. Làm kinh tế mà trả công cho người làm cả ngày
cũng như những người mới làm vài giờ, thậm chí chỉ có một giờ, bằng công một
ngày lao động thì trước sau gì cũng phá sản! Đó lại là cách Thiên Chúa đối xử
với con người, một cách đối xử vượt xa mọi thứ công bình của con người, vì đó
là cách đối xử của tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Nhớ
đến cách đối xử dựa trên tình yêu của Chúa vượt quá mọi quan điểm công bình của
con người, để luôn đối xử với người khác dựa trên tình người: không dựa trên
lợi ích kinh tế, nhưng trên tình anh em.
Chia sẻ: Tôi
đối xử với người khác dựa trên tiêu chuẩn nào? Lợi ích kinh tế, lợi ích tinh
thần, hay dựa trên tình yêu mến và phục vụ cách vô điều kiện như Đức Giê-su dạy?
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày cố gắng làm một nghĩa cử yêu thương, hay cho, tặng cách vô vị lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con cảm tạ Chúa đã ban phát bao ơn lành cho
chúng con vô điều kiện, không dựa trên công trạng cỏn con của chúng con, nhưng
trên lòng yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết sống với nhau trong
tình yêu mến vượt xa mọi lý lẽ, và cả sự công bình. Amen.
Vì tôi tốt bụng
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế
chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Suy niệm:
Sau
khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông
Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng
con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy
Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ
sẽ được xét xử các chi tộc Ítraen, được gấp trăm về mọi sự,
và
nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như
thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một
sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các
môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài
Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới
một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên
Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng
công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người
còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ
ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật
ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong
thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và
trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương
công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền
này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ
ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông
chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những
người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại
không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ
nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn
ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối
cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ
ngôn này trở nên hết sức khác thường
với
việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những
người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả
ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều
này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã
làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng
rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng
ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để
xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có
lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản
ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi
biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối
với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất
công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng
ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì
ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những
câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những
câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi
muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi
muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó
là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình
thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người
làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng
lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên
Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng
ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng
ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay
mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con
mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen
tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức
Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc
biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh
trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh
được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói
cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng
ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh
phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn
là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên
Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không
phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha
thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm
chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông
chủ vườn nho thương cả những người
đứng
ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có
thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người
thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc
chẳng được bao nhiêu.
Nhưng
anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế
giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những
người không được ai mướn” (c.7),
những
người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những
người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra
sao.
chỉ
biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những
người này khác với những người làm từ sáng,
biết
chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ
ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng
chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên
đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh
ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng
có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì
thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá
nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người
ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà
ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên
Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người
còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều
khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng
cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng
hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì
lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy
vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng
ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy
đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như
thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Dụ ngôn trong bài Tin
Mừng hôm nay cho chúng ta 3 đối tượng để nhìn ngắm.
Cái nhìn thứ nhất là
về những người được vào làm vườn nho trước nhất. Họ có thỏa thuận,
có điều kiện hẳn hoi mới chịu vào làm việc: “Sau khi đã thỏa
thuận với họ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm
việc”. Như vậy đây là sự công bằng. Những người thợ này có lẽ
đã tìm kiếm nhiều chỗ, nhưng những chỗ khác không đáp ứng được nhu
cầu của họ, vì thấy ông chủ này đáp ứng được nhu cầu của mình nên
họ đã đồng ý vào làm việc. Chính vì làm việc có thỏa thuận, có
hợp đồng nên họ chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân họ chứ không
nghĩ đến công việc của ông chủ, và nhất là không hề biết ơn ông chủ
là người đã cho mình được vào vườn nho làm việc.
Cái nhìn thứ hai là về
những người được vào làm vườn nho sau hết. Họ muốn có việc làm, họ
đứng chờ đợi từ sáng sớm. Họ không phải là những người lười biếng,
vì nếu lười biếng họ đã đi chơi hoặc về nhà nằm ngủ, nhưng họ vẫn
kiên trì chờ đợi giờ này qua giờ khác. Cuối cùng cũng có người đến
“nhờ” họ làm việc. Khi nghe ông chủ nói: “Cả các anh nữa, hãy đi
vào vườn nho”, họ đã vui mừng, vội vàng đi làm việc mà chẳng
cần thỏa thuận giá cả. Họ biết rằng ông chủ này vì thương mình nên
đã kêu mình đi làm việc, chứ không phải ông chủ nhắm đến công việc
vì chỉ còn rất ít thời gian để làm việc. Nghĩ như vậy nên họ cố
gắng hết sức để đạt hiệu quả cao nhất trong công việc, không phải để
họ được thưởng, nhưng để đáp lại tình yêu thương của ông chủ.
Hai thái độ khác nhau:
một đàng nghĩ đến tiền lương của mình, một đàng nghĩ đến công ơn ông
chủ, nên sẽ dẫn đến hai cách làm việc và hai tâm tình. Thái độ thứ
nhất làm sao cho hết giờ. Còn khôn ngoan tính toán làm sao để mình
làm càng ít càng tốt. Thái độ thứ hai vì biết đã gần hết giờ nên
sẽ cố gắng hết sức. Có thể khi hết giờ họ còn nán lại làm thêm
chút đỉnh vì thấy công việc của ông chủ nhiều quá. Vì vậy hiệu quả
của cả hai có thể tương đương nhau. Vào trước nhưng làm ít, làm cầm
chừng. Vào sau nhưng làm quyết liệt, làm hết mình.
Cái nhìn thứ ba là về
ông chủ. Trước hết ông là một người công bằng. Thỏa thuận làm sao
thì trả công như vậy. Kế đến ông là một người dạt dào tình yêu
thương. Công việc của ông nhiều thật đấy, nhưng không ai 4 giờ chiều
còn đi tìm người làm để 5 giờ nghỉ. Giả dụ có mướn thì cũng tính
tiền công trong vòng một giờ, nhưng ông lại tính cho những người sau
hết bằng những người trước hết. Như vậy rõ ràng ông có một tình yêu
thương. Chẳng những thương những người làm công, mà còn thương người
nhà của họ, vì ông biết tiền lương trong một giờ không thể nuôi nổi
gia đình của họ.
Qua dụ ngôn ông chủ và
những người làm công cho chúng ta thấy ông chủ là hình ảnh của Thiên
Chúa. Ngài là tình yêu, nên Ngài đối xử với chúng ta bằng tình yêu.
Còn chúng ta là những người thợ nào, những người làm đầu ngày hay
những người làm cuối ngày? Dù làm lúc nào chúng ta cũng hãy làm
với tất cả tình yêu chứ đừng làm để được trả công. Vì việc chúng
ta được vào làm trong vườn nho của Chúa đã là một ân huệ rồi. Vì
vậy, hãy biết trân trọng điều đó để làm tất cả vì tình yêu. Đừng
tính toán thiệt hơn với Chúa, vì không bao giờ chúng ta xứng đáng.
Lạy Chúa, con được Chúa
chọn gọi trong vườn nho Giáo hội để làm những công việc mà Chúa đã
trao phó. Xin cho con làm với tất cả nhiệt tâm để góp phần xây dựng
Nước Chúa chứ không nghĩ đến phần thưởng của Chúa.
Lm. Thiện Duy
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG TÁM
Hiệp Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của
Giáo Hội
Công Đồng xác nhận những xác tín của các
tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận tất cả những điều thiện hảo có thể
được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay: nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự
phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa các dân tộc, và một sự nhấn mạnh
về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy, “sự thăng tiến hiệp nhất tương ứng
với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi trong Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở
thành một bí tích và một dấu chỉ của sự hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp
nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện
đại là năng lực đức tin và tình yêu được sống cụ thể, chứ không phải năng lực của
một thế lực bên ngoài xuyên qua duy chỉ những phương tiện của con người” (MV
42).
Vì những lý do này, một mối gắn kết sâu sắc
và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi nhận giữa -một đàng – sự phát triển
và tiến bộ của con người trong xã hội và – đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế hoạch
cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng thực và trong những mối quan tâm
sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận ơn cứu chuộc không ngừng được
loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội luôn luôn đứng trước thế giới
khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những ưu tư của con người.
Vâng, lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch
sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới làm lịch sử của chính mình theo một
nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng. Những thành tựu vĩ đại của con người
và những chiến thắng thật sự của lịch sử cũng chính là nền móng của triều đại
Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất chính là mục đích của kế hoạch Thiên
Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở trong mọi sự.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
20-8
Thánh
Bernarđô, viện phụ tiến sĩ Hội Thánh
Ed
34, 1-11; Mt 20, 1-16a.
LỜI
SUY NIỆM: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người
vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Trong
câu chuyện “ông chủ tìm người làm công” cho chúng ta thấy sự quan tâm của Chúa
đối với Giáo Hội của Chúa, Chúa không ngừng tìm kiếm những con người đang sống
trong những hoàn cảnh của riêng họ, Chúa đều mời gọi cọng tác với Giáo Hội. Với
sự chu toàn bổn phận thì sẽ được ân thưởng. Chúa không phân biệt thời gian phục
vụ và công việc khi hoàn thành. Tất cả sẽ được ân thưởng với sự yêu thương của
Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa đang kêu mời và ban ơn cho từng người trong gia đình chúng
con, xin Chúa cho chúng con chu toàn bổn phận của mình, để đem lại hạnh phúc
cho gia đình và mọi người chung quanh chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
20-08
Thánh
BERNADÔ
Tu
Viện Trưởng, Tiến Sĩ Hội Thánh (1090 - 1153)
Bernađô
sinh năm 1090, tại lâu đài Phontaine gần Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin
khôn ngoan và đạo đức. Mẹ Ngài là bà Aleth Thánh thiện. Một đêm kia bà mơ thấy
Bernađô đang nô đùa bỗng hoá thành con chó sủa vang. Giấc mơ này tiên báo
Bernađô sẽ trở thành tông đồ, thành nhà giảng thuyết đại tài. Bernađô luôn luôn
khẩn cầu Thiên Chúa cho lòng mình khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nhìn người phụ
nữ, Ngài đã dìm mình xuống hồ giá lạnh cho tới tận cổ.
Năm
22 tuổi, cả một tương lai sáng mở ra rước mắt, tại triều đình, nơi quân ngũ,
trong toà án, mỗi nơi có thể ao ước, Ngài đều có thể thành công. Nhưng một đêm
Giáng sinh, Ngài được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài, kỷ niệm này
in dấu sâu đậm suốt đời Ngài. Một ngày khác vào thánh đường, tha thiết cầu xin
Chúa cho Ngài biết thánh ý Chúa, cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành
thánh ý ấy. Chỗi dậy, Ngài quyết định gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng
khắc khổ. Thế là giã từ danh vọng thế gian và các niềm vui giả tạo.
Một
hiệp sĩ trẻ trung sắp chôn vùi đời mình trong tu viện. Sẽ hiến mình cầu nguyện
liên lỉ, làm việc cực nhọc và hãm mình hết mực. Điều đặc biệt là Ngài đã chọn một
tu viện xa nhà và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng vật và ảnh
hưởng của gia đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.
Bernađô
trình bày ý định với cha, Ngài đã bị phản đối, anh em trong gia đình cũng không
chấp nhận được ý kiến này. Ngài nói: - Này hãy tin tôi đi, cuộc chinh phục linh
hồn không được đáng giá sao ?
Cương
quyết và nhiệt tình, Bernađô không những đã làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ,
lại còn lôi cuốn họ vào dòng theo chân mình nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi
chơi, Guy người anh cả nói: - Giã từ em nhé. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng
lòng chứ ?
Người
em út nói lớn: - Sao ? Trời cho các anh, còn đất cho em, phân chia chẳng đồng đều
tý nào.
Rồi
người em út cũng theo cha và các anh vào dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của
Bernađô, cả thẩy trên 30 người đã theo chân Ngài vào dòng.
Sự
gia nhập đông đảo này đã tiêm một nhiệt huyết mới vào dòng Citeaux. Thái độ của
Bernađô và của các bạn còn được một số đông các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ
của dòng lúc ấy là thánh Têphanô Harding, một người gốc Anh, thánh hiện, khôn
ngoan và uyên bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ đi lập các tu viện mới rập theo khuôn
mẫu của nhà mẹ. Ba năm sau, tới phiên Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12
người đến một thung lũng gần Langres. Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm
những cái hòm giống như quan tài để ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như
vùng thung lũng trở thành thung lũng ánh sáng hay là Claivaux.
Thánh
Bernađô sẽ là đan viện phụ của tu viện này cho đến hết đời. Lúc đầu Ngài tỏ ra
đòi hỏi gắt gao. Nhưng rồi về sau, Ngài đã hiểu và nhân hậu hơn. Danh tiếng
Ngài lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ, hay xin Ngài phân xử cho
những vụ tranh chấp. Việc này không được mọi người bằng lòng, vì Ngài không biết
sợ ai cả. Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen
mình vào chuyện đời. Không gì làm Ngài vui mừng bằng được ở yên trong tu viện.
Nhưng vì cảm thấy mình có liên hệ tới lợi ích của Giáo hội nên đã không ngại viết
một lá thư hồi âm rất can đảm nhiệt tình.
Ngài
là người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng:
sự tập quyền trong Giáo hội đã đi quá xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà
thánh, Ngài không tin là phải phỉnh nịnh Đức giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ
đe dọa làm rạn nứt Giáo hội, Ngài được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã
đánh bại vị phản giáo hoàng. Lúc này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Au. Cả
thế giới đều như muốn quay về Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được
người ta viết thư và Ngài đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ
trong số thư tín khổng lồ này con sót lại, nhưng cũng là một trong những nguồn
tài liệu lịch sử chính yếu về thời đó.
Như
nhà dẫn đầu trong cuộc cải tổ dòng Citeaux, Ngài tranh luận với các tu sĩ dòng
Bênêdictô thuộc cộng đoàn chung. Rất tôn trọng cách sống của họ, Ngài không thể
tha thứ cho những lạm dụng đang thịnh hành trong một vài nhà dòng. Dầu vậy đối
với Đan viện phụ Cluny, cha đáng kính Phêrô, Ngài vẫn giữ được một tình bạn
nghĩa thiết. Nhưng sự chống đối của thánh Bernađô với Phêrô Abelardô mới thật nổi
bật. Không những chống lại các chủ trương của ông, Ngài còn chống lại cả cách
thức ông kiêu hãnh tranh luận về các vấn đề thánh nơi chợ búa. Thánh Bernađô
luôn nghĩ tới đức tin của những người dân đơn sơ và đứng về phái bảo thủ, nhưng
vẫn là bạn của người học thức đỡ đầu cho các học giả như Robertô Pullen và
Gioan miền Sabisbury.
Đối
với Đức Maria, thánh Bernađô có một lòng sùng kính đặc biệt. Một ngày kia tại
nhà thờ chính tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình
thêm vào:
- Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
- Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
Chính
Ngài cũng Ngài viết thánh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ngài cũng
là tác giả kinh "Hãy nhớ" nữa.
Suốt
thời gian làm đan viện phụ của thánh Bernađô dòng Clairvaux phát triển mạnh và
sinh ra 60 nhà khác nữa rải rác khắp Âu Châu. Rất bận rộn công việc, Ngài không
sao lãng việc chăm sóc cho các tu sĩ của mình. Suốt đời, Ngài là một tu sĩ và
là một nhà thần bí. Ngài trước tác những bài chú giải sách Nhã Ca và nhiều tác
phẩm thần học và thần bí khác nữa.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.
Dầu
không thể quy trách được cho thánh Bernađô, nhưng như các thánh nhân khác và
như chính Chúa Kitô, Ngài đã qua đời ngày 20 tháng năm 1153, dưới bóng mây mù
vì thất bại đã quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài : - Cha không phải giải
quyết thế nào. Tình thương yêu con cái đời cha ở lại nhưng tình yêu Thiên Chúa
kéo cha lên cao.
Cả
Âu Châu thương tiếc Ngài. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ngài lên bậc hiển
thánh. Năm 1830, Ngài được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi
hình thành thuyết kinh viện và bởi vì giáo huấn của Ngài còn nằm trong truyền
thống các giáo phụ, người ta thường coi Ngài là thánh giáo phụ cuối cùng.
(daminhvn.net)
20
Tháng Tám
Hai Vì Sao Mỉm Cười
Một
vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước
uống.Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban
ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.
Ngày
nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ
chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo.
Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời
vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn
cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của
mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước.
Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một
mình.
Họ
càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy
cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy
nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông.
Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh
ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ
đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông
ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười
với ông.
Ðể
mặc khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa,
Chúa Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những
kẻ tội lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy
Matthêô. Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do
Matthêô khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy
thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau:
"Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người
đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ".
Qua
thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt
lõi của Tin Mừng, cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc
ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên
Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ
chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật
ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người
phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành
động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.
Nói
như mẹ Têrêxa Calcutta: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một
điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị.
Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.
Khi
tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một
hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của
người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những
người xúc phạm đến tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi
một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ
hy sinh đích thực".
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét