16/11/2014
CHÚA
NHẬT XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
Kính
trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(phần II)
GLPÂ
CHÚA NHẬT XXXIII QUANH NĂM A
Sách
Châm Ngôn 31.10-13, 19-20.30-31; Thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô gửi tín hữu
Tessalonica 5.1-6 và Phúc Âm Thánh Matthêô 25.14-30
I.
Giáo Huấn P.Â.:
Nén
bạc tài năng: Được Chúa trao ban để sinh lợi cho Chúa.
Được
Chúa trao ban để mang phần thưởng nước thiên đàng chính mình.
Nén
bạc được trao ban cho thấy: Chúa tin tưởng tất cả mọi người.
Những
gì con người có là được ban tặng từ tình thương của Chúa.
Chôn
nén bạc là thoái thác sự tín nhiệm và tình thương Chúa ban.
Chôn
nén bạc là ích kỷ và phí phạm ơn Chúa.
II. Vấn nạn
P.Â.
Giáo huấn của Bài đọc thứ nhất từ
sách Châm Ngôn?
Người đàn bà mẫu mực là người biết xử dụng khả năng của mình để phục vụ Chúa và
người khác: Bà ăn ở được lòng chồng
con.
Bà xây dựng gia đình bằng đồi tay cẩn mẫn chăm sóc cửa nhà.
Bà sống một tương quan thật tốt với Thiên Chúa, với chồng con và mọi người.
Bà rộng tay bố thí cho người nghèo khó và giơ tay hướng dẫn kẻ bần cùng.
Bà chủ động trong công việc chăm sóc nhà cửa và làm cho cuộc đời thêm tốt đẹp.
Hình ảnh nầy khác với người đàn bà trong thân phận hẫm hiu, làm nô lệ hay chỉ
là sở hửu chủ hoàn toàn tuỳ thuộc đàn ông.
Giáo Huấn của sách Châm Ngôn hôm nay là: Tận dụng những tài năng Chúa ban để biến
mình thành người hữu dụng, người cầnj thiết cho mọi ngưiời. Đó là đời sống của
người đàn bà khôn ngoan và mẫu mực, một đời sống mang lại hạnh phúc cho người
khác và chi chính mình.
Giáo
huấn của Bài đọc thứ hai: Thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Tessalonica.
Thánh Phaolô đề cập đến giá trị thời giờ.
Có
nhiều người nghĩ rằng ngày tận thế đã gần kề. Nên chờ tận thế để về với Chúa.
Hãy làm việc, đừng ngủ mê! Thánh Phaolô khuyên giáo dân thời ấy.
Là
người công giáo, chúng ta luôn nghĩ đến đời sau và hướng về đời sau. Tuy nhiên
trong hiện tại, cuộc sống ở trần gian nầy vẫn có giá trị cứu độ. Chúng ta phải
tận dụng mọi hoàn cảnh để sinh lợi cho vinh quang Thiên Chúa và mang lợi ních
cho trần gian.
Tại
sao đem nén bạc đi chôn mà lại bị khiển trách nặng nề và bị phạt trong hoả ngục?
Có
lần chúng ta đã nói về cách thức diễn tả “cực mạnh” gây ấn tượng nơi người
nghe, như chuyện chặt bỏ tay chân hay khoét mắt quăng nếu mang dịp tội.
Đầy
tớ đem nén bạc đi chôn bị khiển trách và bị phạt, có thể hiểu như thế nầy:
Gia sử như có ba người con trong một gia đình. Cha mẹ làm lụng vất vả để có tiến
cho con mình đi học. Hai người tận dụng vốn liếng đầu tư của Chúa ban như trí
thông minh để chăm chỉ học hành. Hai người nầy cũng nghĩ đến công lao khó nhọc
của Cha Mẹ để làm sinh lợi cho kiến thức của mình.
Người con thứ ba biếng nhác không thèm đến trường. Anh ta viện dẫn lý do rằng:
Chúa cho sao thì cứ giữ nguyên như vậy. Tại sao phải học hành để gây gánh nặng
cho Cha Mẹ. Anh ta không quan tâm đến chuyện học. Ngày qua ngày anh ta thành
người vô dụng cho bản thân và cho người khác: Trí óc không mở mang và không ai
cần đến anh. Đem chôn nén bạc là vô ơn với những tài năng Chúa ban. Chúa ban
cho chúng at sức khoẻ, tài năng và sự thông mình không phải để chúng ta làm mai
một nhưng để làm lợi thêm gấp nhiều lần. Một người biết học hành chăm chỉ mang
hữu ích cho bản thân và cho người khác. Chôn nén bạc tài năng là coi thường sự
kỳ vọng của người khác. Ai có con hay có người thân thương mà không muốn họ
thành đạt và thành công?
Tại
sao lại tước đoạt nén bạn của người có chỉ một nén mà đem cho người có nhiều
nén? Làm sao “có thị được thêm, người không có thì cái đang có cũng bị tuớc đoạt”?
Chúa là Đấng
công bình vô cùng, chắc chắn Ngài không đối xử bất công: Lấy của người nghèo
khó ban bố cho kẻ dư dật. Tuy nhiên, ý nghĩa của Phúc Âm là: Nếu biết tận dụng
tài năng của mình thì càng sinh lợi nhiều hơn. Còn nếu không biết tận dụng ơn
Chúa thì sẽ nghèo hơn cũng như là bị tước đoạt. Kied63u diễn tả nầy khá đúng
trong cách thức kinh doanh mua bán, Nguyên tắc là tiền sinh tiền, vốn sinh lkời.
Người không có tiền hay nghèo vốn thì không sao khấm khá nỗi. Người đã phí phạm
đem chôn nén bạc mình được trao ban thì có khác nào tự mình tước đoạt phần lợi
nhuận dành cho mình. Người biết tận dụng tài năng thì được tín nhiệm bvà trao
ban thêm vốn liếng để sinh lời.
Nên Chúa không là Ông chủ bất công đi tước đoạt của người nầy mang cho người
khác, nhưng là cách diễn tả rằng: Phí phạm tài năng là tự tước đoạt chính mình.
Phí phạm tài năng là bị bất tín. Nếu bất tìn thì làm sao được trao ban thêm. Ai
có tiền lại đem trao cho người không biết làm ăn. Trái lại nén bạc trao cho người
đã có mười nén là nói lên sự tín nhiệm được gia tằng nơi người biết tận dụng ơn
Chúa ban.
III. Thực hành P.Â.:
Linh
mục cần được tín nhiệm
Trong
lần đại hội Liên Đoàn Linh Mục Công Giáo Canada, chúng tôi có dịp nghe thuyết
trình về: linh mục cần đáng tín nhiệm.
Người trình bày khai thác chủ đề qua những chi tiết sau:
Linh mục phải đúng giờ.
Linh mục phải hiểu biết thần học, tín lý, luân lý, phụng vụ và cách đối xử.
Linh mục phải chu toàn bổn phận được trao ban: Cha sở, cha phó hay cha giáo.
Đúng giờ cho thấy mình có chuẩn bị và quan tâm đến công việc sắp làm.
Hiểu biết cho thấy mình đã tận dụng trí khôn và khả năng hiểu biết
Chu toàn bổn phận cho thấy mình biết mình làm linh mục để làm gì.
Tôi nghe trình bày mà tự xấu hỗ cho bản thân mình.
Người không đúng giờ thường tạo sự hấp tấp và bận bị giả tạo.
Người thiếu hiểu biết làm giảm uy tín nơi giáo dân. Giáo dân nghi ngờ về sự hiểu
biết của mình, nên không bàn hỏi hay coi thường những gì mình chia sẻ. Nếu
chúng ta bảo giáo dân rằng: Không đi lễ ngày Chúa Nhật là có tội trọng, xuống tận
đáy hoả ngục. Nếu người ta hỏi luật nào vậy thưa Cha? Chúng ta thấy khó trả lời.
Đâu phải khi không đi lễ ngày Chúa Nhật là cầm chắc xuống hoả ngục đâu.
Linh mục phải biết mình làm linh mục để làm gì? Có người đi tu làm linh mục
vì thấy tương đối thảnh thơi và nghề nghiệp cũng vững chắc, ổn định. Có người
đi tu làm linh mục để được gọi là Cha. Có người đi tu làm linh mục để lo cho
gia đình. Có người đi tu làm linh mục vì không có khả năng lập gia đình…
Tôi tử hỏi: Những nén bạc Chúa cho, tôi có sinh lợi không?
Cho đến giờ nầy, Chúa còn tìn nhiệm tôi không?
Giáo dân còn đến với tôi không?
Chôn
nén bạc cho chắc ăn
Người Việt Nam chúng ta thường
hay tích góp tiền để mua vàng, cất trong hủ hay nơi kín đáo nào đó để đề phòng
khi cần đến. Điều nầy làm cản trở sự phát triển kinh tế.
Tiền phải lưu chuyển cũng như tài năng phải được xử dụng.
Có nhiều người đem chôn tài năng của mình: Bao lần Cha xứ kệu gọi tham gia,
đóng góp.. làm việc chung. Nhưng rồi người ta vẫn đùa đẩy cho nhau. Nếu những
chức vụ có chút ít tiếng tăm hay có chút danh dự thì có người dòm ngó. Nếu cứ
âm thầm thiện nguyện thì ít người hy sinh.
Sau cùng: Cũng chỉ những khuôn mặt quen thuộc của ngày nào.
Tội nghiệp các Cha xứ hay Cha quản nhiệm lắm anh chị em ơi! Kêu gọi nhiều lần
thì cũng bị than phiền là “nói mãi!” Không kêu gọi thì “một thân một mình!”
Năm nén, hai nén hay một nén… ai cũng có tài năng.
Đừng đem chôn. Đừng làm mai một ơn Chúa ban.
Xin mạnh dạn tham gia đóng góp. Ánh sáng chia sẻ càng nhiều càng mang ánh sáng
đến mọi người. Ánh sáng ngọn đèn bị trùm kín thì có mang ích gì cho ai? Trùm
kín quá sinh tai hại. Ích kỷ quá sinh cùn mần và đời thành vô nghĩa.
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
Tôi tớ trung thành
Tất cả chúng ta đều là
những người tôi tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã trao gửi.
Những nén bạc ấy chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm
lại, là tất cả những gì chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng thế, tất cả không phải
là của riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta
vay mượn trong một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Những sự
anh em có, há chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao? Và nếu đã nhận lãnh, thì tại
sao anh em lại tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì thế, chúng ta
không được toàn quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách nhiệm vễ những
nén bạc ấy. Chẳng hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè
chén say sưa có hại cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác mình,
hay tự ý đi tìm cái chết.
Với linh hồn, chúng ta phải
cương quyết chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng
ta phải dứt khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình được hoàn thiện, nhờ
Lời Chúa, nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện gắn bó mật thiết với
Chúa.
Tuy nhiên, điều quan trọng,
đó là một ngày kia chúng ta sẽ phải tính sổ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng
ta không biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không
ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc
đời, để rồi chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.
Thế nhưng, đó lại là một sự
kện chắc chắn, như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự chết thì chắc chắn, nhưng
giờ chết lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đã là người
thì ai cũng phải chết.
Đó là qui luật chung của
muôn đời. Và sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật
công bằng và chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự
đều được ghi chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài
nào che dấu nổi.
Chính vì thế, chúng ta phải
quyết tâm làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đã trao gửi, bằng
cách thực hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó chính là những vị
trạng sư âm thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước tòa án tối
cao của Thiên Chúa.
Đồng thời, bằng cách trung
thành với những công việc bổn phận của mình, tùy theo vai trò, tùy theo đấng
bậc, tùy theo chức vụ mình nắm giữ trong cuộc sống.
Và sau cùng, bằng cách sử
dụng thời giờ một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã được cân đo đong
đếm. Hãy sử dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu
chúng ta quản lý tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút
tính sổ cuộc đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định
số phận đời đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến đâu chăng nữa, cũng
sẽ lìa bỏ chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn
kể lại rằng: Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn
thứ nhất thấy vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo
người ấy, nhưng đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong
khi đó anh bạn thứ đã cùng đi với người ấy đến trước tôn nhan Chúa, trình bày
những lý chứng và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người bạn thứ nhất là tiền
bạc vật chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. Còn người bạn
thứ ba, luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động
bác ái yêu thương.
Hãy làm cho những nén bạc
Chúa đã trao gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với
Chúa sẽ không phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng
vui và hạnh phúc.
Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn Năng
TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN
1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ
lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và
đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô
giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm
chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ
tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những
năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại
dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó
không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách
hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp
mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng
ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô
hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng
170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam
thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo
dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng
vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà
Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm
ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một
thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị
ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh
giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài
là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn
ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em
không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế
gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại
anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,
19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở
cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng
nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn
khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng
nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã
tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị
ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết
chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ
thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính
thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết
giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết
nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì
các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua
quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi
kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như
hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm
đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong
hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị
giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của
đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những
cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp
phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa
là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo
không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng
đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống
đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức
tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời
sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê
vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung
thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu
đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy,
Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả
đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.
Các thánh chu toàn bổn
phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào
thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian
này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối
cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy
cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ
phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc
đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao
cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung
giữ đạo”.
Về phần thánh Anê Lê Thị
Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa
ngài làcô Anna Năm xác nhận:“Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người
thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và
khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con
lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ
chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên
vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con
cãi nhau bao giờ".”
Kế đến, sống đức tin là
sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa
rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa
bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công
bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều
kiện", nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người
cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống
lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô
nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn
sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời
sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp
các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc
than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với
những vị anh hùng vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự
chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng.
Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức
Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân
tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi
phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi
chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh
làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các
quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của
các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam
thân yêu này.
Chính đời sống của các
thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều
đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái
với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan
là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử,
mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua
truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về
trời cụ nhớ đến cháu nhé”.
Trong vụ án thánh linh
mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn
kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ
quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc
bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt
giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang
thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý
Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử
đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta.
Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao
nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn
phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải
đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức
mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã
làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội
Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này,
chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý
thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai”
(2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng
ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa
chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người
chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
16/11/14 CHÚA NHẬT TUẦN
33 TN – A
Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam
Mt 25,14-30
Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam
Mt 25,14-30
Suy niệm: 1/
Ông chủ trong dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài giao cho mỗi người một
phận vụ và không đòi hỏi ai quá sức mình. Ngài không coi trọng người được giao
năm yến hon người được giao một yến. Tài sản Ngài có bao nhiêu, Ngài giao tất
cả. Hết sức tin tưởng. Ngài lên đường đi xa. 2/ Có vẻ như cái lỗi lớn nhất của
người đầy tớ thứ ba là không làm việc, không sinh lời. Xét kỹ hơn, nguyên nhân
sâu xa chi phối những hành động này là anh ta đã có một hình ảnh méo mó về
Thiên Chúa: đối với anh, ông chủ là một người hà khắc, đòi hỏi, gặt chỗ không
gieo, thu nơi không vãi. Anh sợ hãi chứ không yêu mến. 3/ Ngày tính sổ, Thiên
Chúa – ông chủ – xuất hiện như một người Cha: vui mừng thấy vốn đã sinh lời.
Nhưng… Ngài không giữ lại cho mình, mà giao hết cả vốn lẫn lãi cho người biết
làm việc; ai sinh lời Ngài lại ban thêm. Niềm vui của Ngài, đó là thấy rằng
chúng ta đã làm việc và sinh lời cho chính chúng ta.
Mời Bạn: Những
gì bạn đang có chính là những yến bạc mà Thiên Chúa giao cho bạn để sinh lời.
Đối với bạn Thiên Chúa là ai, là ông chủ hà khắc hay là Người Cha yêu thương?
Chia sẻ: Có
phải Thiên Chúa đã bất công khi lấy yến bạc của người đầy tớ thứ ba mà giao cho
người có mười yến không? Nếu người này sinh lời, đâu là lời khen mà anh sẽ nhận
được?
Sống Lời Chúa: Chu
toàn bổn phận của ngày hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm cho con lòng tin tưởng và yêu mến, đừng để
con nhìn xuôi ngó ngược, phân bì với người khác, nhưng hết lòng hết sức thi
hành phận vụ Chúa đã giao.
Lectio Divina: Chúa
Nhật XXXIII Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 16 Tháng 11, 2014
Dụ ngôn về những nén bạc
Sống trong cách có trách nhiệm
Mt 25:14-30
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến
giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ
trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá
tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng
con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức
mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang
sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã
mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 25:14-15: Ông chủ giao phó tài
sản cho các đầy tớ
Mt 25:16-18: Phương cách hành động
của từng người đầy tớ
Mt 25:19-23: Tính sổ với người đầy
tớ thứ nhất và thứ hai
Mt 25:24-25: Tính sổ với người đầy
tớ thứ ba
Mt 25:26-27: Câu trả lời của ông
chủ với người đầy tớ thứ ba
Mt 25:28-30: Phán quyết cuối cùng
của ông chủ làm sáng tỏ dụ ngôn
b) Chìa khóa để hướng dẫn bài đọc:
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ ba mươi
ba Thường Niên tuần này, chúng ta sẽ suy niệm về Dụ Ngôn những Nén Bạc có liên
hệ đến hai chủ đề rất quan trọng và rất thực
tiễn: (i) Những ân sủng mà mỗi người nhận được từ Thiên
Chúa và cách thức mà người ấy tiếp nhận chúng. Mỗi người có những
phẩm chất, tài năng mà người ấy có thể và cần phải phục vụ người
khác. Không ai chỉ là học trò mãi, không ai mãi chỉ là thày
dạy. Chúng ta cùng học hỏi lẫn nhau. (ii) Thái
độ mà người ta đặt mình trước Thiên Chúa, Đấng đã ban tặng cho chúng ta những
ân sủng của Người. Trong khi đọc, chúng ta sẽ cố gắng để ý tới hai
điểm này: đâu là thái độ của ba người đầy tớ liên quan đến những món
quà nhận được và dụ ngôn này mạc khải cho chúng ta hình ảnh nào về Thiên Chúa?
c) Phúc Âm:
14 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này
rằng: “Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao
phó tài sản của ông. 15 Ông trao cho người này năm
nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi
người, đoạn ông ra đi. 16 Người lãnh năm nén bạc, ra
đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. 17 Người
lãnh hai nén cũng đi làm lợi được hai nén khác. 18 Còn
người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn dấu tiền của chủ mình. 19 Sau
một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. 20Vậy
người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói
rằng: ‘Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi
được năm nén khác.’ 21 Ông chủ bảo người ấy rằng: ‘Hỡi
đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt
ngươi làm những việc lớn; ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ
ngươi.’ 22 Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và
nói: ‘Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi
được hai nén khác.’ 23 Ông chủ bảo người ấy
rằng: ‘Hỡi người đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín
trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn; ngươi hãy vào hưởng sự vui
mừng của chủ ngươi.’ 24 Còn người lãnh một nén bạc
đến và nói: ‘Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không
gieo, và thu nơi ông không phát; 25 nên tôi khiếp sợ đi
chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại
ông.’ 26 Ông chủ trả lời người ấy
rằng: ‘Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác! Ngươi đã biết ta
gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: 27 Vậy lẽ ra
ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả
vốn lẫn lời. 28 Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc
lại mà trao cho người có mười nén. 29 Vì người có sẽ
cho thêm và sẽ dư dật; còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy
đi. 30 Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó
ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến
răng.’”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời
sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào của bài Tin Mừng này tôi thích nhất và phần
nào đánh động tôi hơn? Tại sao?
b) Trong dụ ngôn, ba người đầy tớ lãnh nhận tài sản
theo khả năng của họ. Mỗi người có thái độ nào khi nhận lãnh được
tài sản của
chủ?
c) Ông chủ có phản ứng như thế nào? Ông đòi
hỏi những người đầy tớ của ông phải làm gì?
d) Câu nói sau đây phải được hiểu như thế nào: “Người
có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật; còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó,
cũng lấy đi”?
e) Bài dụ ngôn đã mạc khải cho chúng ta hình ảnh gì về
Thiên Chúa?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu hơn
vào trong chủ đề
a) Bối cảnh đoạn Phúc Âm này trong
Tin Mừng Mátthêu:
“Dụ ngôn Nén Bạc” (Mt 25:14-30) là một phần
của bài giảng thứ năm về Lề Luật Mới (Mt 24:1-25, 46). Ba dụ ngôn
này làm rõ bối cảnh đối với thời điểm sắp đến của Nước Trời. Bài dụ
ngôn mười cô trinh nữ khẳng định về sự cảnh giác: Nước Thiên Chúa có
thể đến bất cứ lúc nào. Dụ ngôn những nén bạc quy hướng về sự phát
triển Nước Trời: Nước Trời phát triển khi chúng ta dùng các ân sủng
nhận được để phục vụ. Dụ ngôn Ngày Phán Xét dạy cho cách làm thế nào
để có được Nước Trời: Nước Trời có được khi chúng ta chấp nhận những
kẻ bé mọn.
Một trong những điều có ảnh hưởng lớn hơn
trong cuộc sống của chúng ta là ý tưởng chúng ta có về Thiên
Chúa. Trong số những người Do Thái của giai cấp Biệt Phái, có người
đã tưởng tượng Thiên Chúa như là một vị quan tòa nghiêm khắc đối xử người ta
theo giá trị đạt được qua việc tuân giữ lề luật. Điều đó đã gây ra
nỗi sợ hãi và ngăn trở người ta không phát triển. Nó ngăn trở họ
không dọn chỗ trong chính họ để chấp nhận kinh nghiệm mới về Thiên Chúa mà Đức
Giêsu đã rao giảng. Để giúp những người này, Mátthêu kể lại dụ ngôn
những nén bạc.
b) Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
Mt 25:14-15: Cánh cửa dẫn vào câu chuyện dụ ngôn.
Dụ ngôn kể về câu chuyện một người kia, trước
khi trẩy đi xa, phân phối tài sản của mình cho các đầy tớ, người năm nén bạc,
người hai nén và người một nén, tùy theo khả năng của mỗi người. Mỗi
nén bạc tương đương với 34 kg vàng, đó không phải là một số lượng
nhỏ! Trong trường hợp cuối cùng, tất cả đều nhận cùng một thứ, bởi
vì mỗi người nhận “theo khả năng của mình”. Người có khả năng nhận
lãnh nhiều, ông cho đầy đủ, người có khả năng nhận lãnh ít, ông cũng cho đầy
đủ. Sau đó, ông chủ trẩy đi phương xa và ở đó một thời gian lâu
dài. Câu chuyện tạo cho ta một chút bối rối! Chúng ta
không biết tại sao ông chủ này lại phân phó tài sản của ông cho các đầy tớ,
chúng ta không biết câu chuyện sẽ kết thúc như thế nào. Có lẽ, mục
đích là để tất cả những ai nghe bài dụ ngôn phải bắt đầu đối diện cuộc đời họ
với câu chuyện được kể trong dụ ngôn.
Mt 25:16-18: Phương thức hành động của mỗi
người đầy tớ.
Hai người đầy tớ đầu đã làm việc và làm tăng
số nén bạc lên gấp đôi. Nhưng người đầy tớ nhận được một nén thì đi
đào lỗ chôn, để bảo tồn nén bạc và khỏi mất nó. Đó là vấn đề về của
cải Nước Trời được ban phát cho người ta và các cộng đoàn theo khả năng của
họ. Tất cả mọi người đều nhận được của cải Nước Trời, nhưng không
phải tất cả mọi người đều đáp trả giống nhau!
Mt 25:19-23: Tính sổ với người đầy tớ thứ nhất và thứ hai
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở về và
cho gọi các đầy tớ đến tính sổ. Hai người đầu cùng thưa một
điều: “Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm/hai nén bạc. Đây tôi
đã làm lợi được năm/hai nén khác!” Và ông chủ cùng bảo cả hai
rằng: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong
việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng
của chủ ngươi.”
Mt 25:24-25: Tính sổ với người đầy tớ thứ ba
Người đầy tớ thứ ba đến và
nói: “Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo
và thu nơi ông không phát, nên tôi khiếp sợ đã đi chôn dấu nén bạc của ông dưới
đất. Đây của ông, xin trả lại ông!” Trong câu nói này, có
một ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa và bị Chúa Giêsu chỉ trích. Người
đầy tớ nhìn thấy Thiên Chúa là một ông chủ khắc nghiệt. Trước một
Thiên Chúa như vậy, loài người sợ hãi và chạy trốn đàng sau việc tuân thủ lề
luật chính xác và tỉ mỉ. Người ta cho rằng hành động theo cách ấy họ
sẽ tránh khỏi sự luận phạt và vị quan tòa nghiêm khắc sẽ không trừng phạt
họ. Đây là cách suy nghĩ của một số người Biệt
Phái. Trong thực tế, những kẻ như thế không có lòng tín thác vào
Thiên Chúa, mà họ chỉ tin vào chính họ và trong việc tuân giữ các giới
luật. Đó là một người sống thu hẹp trong chính bản thân, xa rời
Thiên Chúa và không quan tâm đến kẻ khác. Người này trở nên kẻ không
có khả năng phát triển như người sống tự do. Hình ảnh sai lạc này về
Thiên Chúa cô lập con người, giết chết cộng đoàn, không giúp ích gì cho một
cuộc sống vui tươi và đơn sơ.
Mt 25:26-27: Câu trả lời của ông chủ với người đầy tớ thứ ba
Phản ứng của ông chủ thật là châm
biếm. Ông nói: “Hỡi đầy tớ hư thân và biếng
nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không
phát. Vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và
khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời!” Người đầy tớ thứ ba đã không
liên tưởng đến hình ảnh nghiêm khắc anh ta có về Thiên Chúa. Nếu anh
ta mường tượng được Thiên Chúa nghiêm khắc đến như thế, thì lẽ ra, ít nhất anh
ta cũng đã giao bạc cho người đổi tiền. Đây là lý do tại sao anh ta
đã bị kết án bởi Thiên Chúa, ý tưởng sai lầm mà anh ta có về Thiên Chúa đã
khiến anh ta trở nên sợ hãi và kém chín chắn hơn. Đầu óc anh ta
không thể minh mẫn đủ để có hình ảnh của Thiên Chúa mà anh ta đã có, bởi vì sự
sợ hãi đã làm tê liệt sự sống.
Mt 25:28-30: Lời cuối cùng của ông chủ làm sáng tỏ dụ ngôn
Ông chủ ra lệnh lấy lại nén bạc mà trao cho
người đã có mười nén: “Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật;
còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi”. Đây là
chìa khóa làm sáng tỏ mọi việc. Trong thực tế, những nén bạc, “gia
tài của ông chủ”, kho tàng của Nước Trời, là tình yêu thương, sự phục vụ, chia
sẻ và quà tặng cho không. Nén bạc là tất cả mọi thứ khiến cho cộng
đoàn phát triển và mặc khải sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi người
ta tự thu mình bởi vì sợ bị mất đi chút ít của cải họ có, thì họ sẽ mất cả
những của cải ít oi ấy, bởi vì tình yêu sẽ tàn lụi, công lý sẽ bị suy yếu, sự
chia sẻ sẽ biến mất. Thay vào đó, một người mà không nghĩ đến cho
riêng mình và xả thân vì người khác, sẽ thăng hoa, và đáng ngạc nhiên là được
nhận lãnh lại mọi thứ mà người ấy đã cho đi và còn nhiều hơn thế
nữa. “Vì ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10:39).
c) Đào sâu hơn:
Loại tiền tệ khác nhau của Nước Trời:
Không có sự khác biệt giữa những người nhận
nhiều hơn và những người nhận ít hơn. Tất cả nhận lãnh tùy theo khả
năng của họ. Điều quan trọng là món quà được đặt ở sự phục vụ Nước
Trời và làm cho gia tài Nước Trời triển nở, đó là tình yêu thương, tình huynh
đệ, sự chia sẻ. Chìa khóa chính của dụ ngôn không bao gồm việc làm
lợi các nén bạc, nhưng là chỉ ra cách thức trong đó mối liên hệ của chúng ta
với Thiên Chúa mới là điều quan trọng. Hai người đầy tớ đầu tiên
không đòi hỏi điều gì; họ không tìm kiếm sự an nhàn cho bản thân họ; họ không
giữ các nén bạc cho riêng họ; họ không tính toán, so đo. Rất tự
nhiên, gần như là phản xạ tự nhiên và không mong mỏi bất kỳ công trạng nào cho
họ, họ ra tay làm việc, để cho món quà nhận được mang đến kết quả cho Thiên
Chúa và cho Nước Trời. Người đầy tớ thứ ba thì sợ hãi, và bởi vì điều này,
nên không làm gì cả. Dựa theo các tiêu chuẩn của lề luật cổ xưa, anh
ta đã làm đúng. Anh ta vẫn ở trong tình trạng thấp thỏm có từ
trước. Anh ta không mất mát gì, mà cũng chẳng đạt được
gì. Cũng chính bởi vì điều này, anh ta đã mất ngay cả những cái anh
ta có. Nước Trời là một sự mạo hiểm. Nếu người ta không
muốn mạo hiểm, thì sẽ vuột mất cả Nước Trời!
6. Thánh Vịnh 62
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi linh hồn tôi mới được nghỉ ngơi
Chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
Chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về
Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện
xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức
mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho
chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng
nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng
với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét