Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Phúc Trình của THĐ Đặc Biệt về Gia Đình (12-28)

Phúc Trình của THĐ Đặc Biệt về Gia Đình (2)

Phần II

Nhìn xem Chúa Giêsu: Tin Mừng Gia Đình

Nhìn xem Chúa Giêsu và khoa sư phạm thần linh trong lịch sử cứu rỗi

12. Để “bước đi giữa các thách đố đương thời, điều kiện có tính quyết định là phải duy trì một cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu Kitô, phải dừng lại để chiêm niệm và thờ lạy gương mặt của Người… Thực vậy, mỗi lần ta trở về với nguồn cội kinh nghiệm Kitô Giáo, nhiều ngả đường mới và chưa ai dám mơ uớc mở ra nhiều khả thể cho ta” (Đức GH Phanxicô, Diễn Văn, ngày 4 tháng Mười, năm 2014). Chúa Giêsu nhìn những người đàn bà và đàn ông Người gặp bằng một cái nhìn đầy yêu thương và dịu dàng, luôn theo dõi bước đi của họ một cách kiên nhẫn và từ nhân, trong khi vẫn công bố các đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. 

13. Vì trật tự tạo dựng được xác định bởi xu hướng hướng về Chúa Kitô của nó, nên cần phải phân biệt mà không tách biệt các bình diện khác nhau qua đó Thiên Chúa thông truyền ơn thánh giao ước của Người cho nhân loại. Vì lý do sư phạm thần linh, theo đó, trật tự tạo dựng được khai triển qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau cho tới thời khắc được cứu chuộc, nên ta cần hiểu sự mới mẻ của Bí Tích Hôn Nhân trong sự liên tục của nó đối với cuộc hôn nhân tự nhiên từ lúc khởi thủy, nghĩa là, cung cách Thiên Chúa thi hành việc cứu rỗi cả trong tạo dựng lẫn trong cuộc sống Kitô hữu. Trong tạo dựng, vì mọi sự đề đã được dựng nên nhờ Chúa Kitô và vì Chúa Kitô (xem Cl 1:16), nên các Kitô hữu “hân hoan và cung kính làm hiển hiện các hạt giống lời Chúa vốn ẩn tàng nơi các đồng loại mình; họ phải chăm chú theo dõi các thay đổi sâu xa đang diễn ra nơi các dân tộc” (Ad Gentes, 11). Trong cuộc sống Kitô hữu, việc tiếp nhận Phép Rửa đem tín hữu vào Giáo Hội qua Giáo Hội tiểu gia, nghĩa là, qua gia đình; nhờ thế trở nên “một diễn trình năng động vẫn đang phát triển, một diễn trình từ từ tiến lên bằng cách tích nhập một cách tiệm tiến các ơn phúc của Thiên Chúa” (Familiaris Consortio, 9), trong một cuộc hồi tâm liên tục hướng về tình yêu cứu vớt khỏi tội lỗi và ban cho ta sự sống viên mãn.

14. Chính Chúa Giêsu, khi nói tới kế hoạch nguyên thủy dành cho cặp vợ chồng nhân bản, đã tái khẳng định sự kết hợp bất khả tiêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà; và Người nói với người Biệt Phái rằng “chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã cho phép các ông ly dị vợ, nhưng từ nguyên thủy, không phải như thế” (Mt 19:8). Tính bất khả tiêu của hôn nhân (“cho nên, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không thể phân ly” Mt 19:6) không nên hiểu như một “cái ách” áp đặt lên con người mà như một “hồng phúc” dành cho chồng và vợ kết hợp với nhau trong hôn nhân. Bằng cách này, Chúa Giêsu muốn cho thấy hành vi khiêm hạ Thiên Chúa xuống trần gian đã luôn đồng hành ra sao với con người lữ thứ và đã chữa lành và biến đổi như thế nào các tâm hồn chai đá bằng ơn thánh của Người, hướng chúng về ơn ích thực sự của chúng, qua con đường thập giá. Các sách Tin Mừng khiến ta hiểu rõ: gương sáng của Chúa Giêsu là mẫu mực đối với Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình; Người bắt đầu làm các dấu lạ tại tiệc cưới Cana; và công bố ý nghĩa của hôn nhân như là sự viên mãn của mạc khải nhằm phục hồi kế hoạch thần linh nguyên thủy (Mt 19:3). Tuy nhiên, cùng một lúc, người đem các điều Người giảng dạy ra áp dụng và biểu tỏ ý nghĩa thực sự của lòng từ bi, được minh họa rõ ràng trong cuộc gặp gỡ của Người với người phụ nữ Samaria (Ga4:1-30) và với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:1-11). Qua việc nhìn người tội lỗi một cách đầy yêu thương, Chúa Giêsu dẫn họ tới thống hối và hồi tâm (“hãy đi và đừng phạm tội nữa”), những điều vốn làm căn bản để được tha thứ.

Gia đình trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa

15. Các lời lẽ đem lại sự sống đời đời, mà Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ, có bao hàm giáo huấn của Người về hôn nhân và gia đình. Giáo huấn này giúp ta phân biệt ba giai đoạn căn bản trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình. Khởi thủy, có một gia đình nguyên khởi, lúc Thiên Chúa Tạo Hóa thiết lập nên cuộc hôn nhân đầu hết giữa Ađam và Evà làm nền tảng vững chắc cho gia đình. Thiên Chúa không chỉ dựng nên những hữu thể nhân bản có nam có nữ (St 1:28), mà Người còn chúc lành cho họ để họ sinh hoa kết trái và lan tràn mặt đất (St 1:28). Vì lý do này, “người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình và dính kết với vợ và cả hai trở nên một thân xác” (St 2:24). Sự kết hợp này đã bị hủ bại bởi tội và trở thành hình thức hôn nhân lịch sử nơi Dân Chúa, khiến Môsê phải ban cho họ khả thể cấp chứng thư ly dị (xem Đnl24:1 tt). Đó là thực hành chính vào thời Chúa Giêsu. Với việc xuất hiện của Chúa Kitô và việc Người hòa giải thế giới sa ngã bằng việc cứu chuộc của Người, thời kỳ do Môsê khởi đầu đã chấm dứt. 

16. Chúa Giêsu, Đấng hoà giải mọi sự trong chính Người, đã khôi phục hôn nhân và gia đình trở lại hình thức nguyên thủy của chúng (Mc10:1-12). Hôn nhân và gia đình đã được Chúa Kitô cứu chuộc (Eph 5:21-32), được phục hồi trở lại hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm mà tứ đó, mọi tình yêu chân thực đã phát khởi. Giao ước phu thê, bắt nguồn trong tạo dựng và được mạc khải trong lịch sử cứu rỗi, tiếp nhận được ý nghĩa trọn vẹn của nó trong Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Qua Giáo Hội, Chúa Kitô ban cho hôn nhân và gia đình ơn thánh cần thiết để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa và sống cuộc sống hiệp thông. Tin Mừng Gia Đình trải dài suốt lịch sử thế giới từ lúc tạo dựng con người giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1:26-27) cho tới lúc tận cùng thời gian, nó đạt được sự viên mãn trong mầu nhiệm Giao Ước của Chúa Kitô với lễ cưới của Chiên Con (xem Kh 19:9; xem Gioan Phaolô II, Giáo Lý về Tình Yêu Nhân Bản).

Gia đình trong các văn kiện của Giáo Hội

17. “Trong nhiều thế kỷ qua, Giáo Hội đã và đang duy trì giáo huấn thường hằng của mình về hôn nhân và gia đình. Một trong các phát biểu cao cả nhất của giáo huấn này do Công Đồng Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, là hiến chế đã dành trọn cả một chương để cổ xúy phẩm giá của hôn nhân và gia đình (xem Gaudium et Spes, 47-52). Văn kiện này định nghĩa hôn nhân là cộng đồng sự sống và yêu thương (xem Gaudium et Spes, 48), đặt tình yêu vào tâm điểm gia đình và cùng một lúc cho thấy rõ sự thật của tình yêu này qua việc phản phân (counter distinction) các hình thức khác nhau của chủ nghĩa giản lược đang có mặt trong nền văn hóa đương thời. ‘Tình yêu đích thực giữa chồng và vợ’ (Gaudium et Spes, 49) hàm nghĩa việc tự hiến hỗ tương và bao gồm cũng như tích nhập các khía cạnh tính dục và cảm giới, phù hợp với kế hoạch thần linh (xem Gaudium et Spes, 48-49). Hơn nữa, Gaudium et Spes, 48 còn nhấn mạnh tới cơ sở của vợ chồng là Chúa Kitô. Người ‘bước vào cuộc sống của vợ chồng Kitô hữu qua Bí Tích Hôn Nhân’ và ở lại với họ. Lúc Nhập Thể, Người mặc lấy tình yêu con người, thanh tẩy nó và đem nó tới thành toàn. Qua Thần Khí của Người, Người giúp cô dâu chú rể sống tình yêu của họ và làm cho tình yêu ấy thấm nhiễm mọi thành phần trong cuộc sống đức tin, đức cậy và đức mến của họ. Bằng cách này, có thể nói: cô dâu chú rể được thánh hiến và nhờ ơn thánh của Người, họ xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và là Giáo Hội tiểu gia (xem Lumen Gentium, 11), đến nỗi, để hiểu được trọn vẹn mầu nhiệm của mình, Giáo Hội nhìn vào gia đình là thực tại vốn biểu lộ Giáo Hội một cách chân thực” (Instrumentum Laboris, 4).

18. “Liền ngay sau Công Đồng Vatican II, huấn quyền giáo hoàng đã làm tinh tế hơn nữa tín lý của mình về hôn nhân và gia đình. Một cách đặc biệt, Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, trong thông điệp Humanae Vitae, đã trình bày mối liên kết thâm hậu giữa tình yêu phu thê và việc sinh sản sự sống. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dành sự chú ý đặc biệt cho gia đình trong các bài giáo lý của ngài về tình yêu con người, như trong Gratissimam Sane (Thư Gửi Các Gia Đình) và nhất là trong tông huấn Familiaris Consortio. Trong các văn kiện này, Đức GH gọi gia đình là ‘đường đi của Giáo Hội’, đưa ra một cái nhìn khái quát về ơn gọi của người đàn ông và của người đàn bà hướng tới tình yêu và đề xuất các chỉ dẫn nền tảng cho một nền chăm sóc mục vụ gia đình và cho việc hiện diện của gia đình trong xã hội. Khi đặc biệt bàn tới ‘tình yêu phu thê’ (xem Familiaris Consortio, 13), ngài mô tả việc vợ chồng lãnh nhận ơn phúc của Thần Khí Chúa Kitô ra sao qua tình yêu hỗ tương của họ và sống ơn gọi nên thánh của họ như thế nào (Instrumentum Laboris, 5).

19. “Đức GH Bênêđíctô XVI, trong thông điệp Deus Caritas Est của ngài, một lần nữa đã nối tiếp chủ đề sự thật về tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà, một sự thật chỉ được hiểu một cách trọn vẹn dưới ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh (xem Deus Caritas Est, 2). Đức GH nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân đặt căn bản trên tình yêu độc chiếm và dứt khoát trở thành biểu tượng cho mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Dân Người và ngược lại. Cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo tình yêu con người’ (Deus Caritas Est, 11). Ngoài ra, trong thông điệp Caritas in Veritate, ngài nhấn mạnh tới tầm quan trọng của tình yêu, coi nó như nguyên lý của đời sống trong xã hội (xem Caritas in Veritate, 44), một nơi để con người học biết cảm nghiệm thiện ích chung” (Instrumentum Laboris, 6).

20. “Đức GH Phanxicô, trong thông điệp Lumen Fidei, khi nói tới mối liên kết giữa gia đình và đức tin, đã viết rằng: ‘Việc gặp gỡ Chúa Kitô, việc tự để họ (người trẻ) được tình yêu của Người chiếm hữu và hướng dẫn sẽ mở rộng chân trời hiện sinh, đem lại cho nó một niềm hy vọng vững chắc sẽ không bao giờ làm họ phải thất vọng. Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những người yếu lòng, mà là một điều gì đó nâng cao đời sống ta. Nó làm ta ý thức được lời mời gọi tuyệt diệu, tức lời mời gọi yêu thương. Nó đảm bảo với ta rằng tình yêu này đáng tin cậy và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung tín của Thiên Chúa, vốn mạnh mẽ hơn sự yếu đuối của ta’ (Lumen Fidei, 53)” (Instrumentum Laboris, 7).

Tính bất khả tiêu của hôn nhân và niềm vui chung chia cuộc sống với nhau

21. Việc tự hiến hỗ tương trong Bí Tích Hôn Nhân đặt cơ sở trên ơn thánh Phép Rửa, là bí tích thiết lập, nơi tất cả những ai lãnh nhận nó, một giao ước nền tảng với Chúa Kitô trong Giáo Hội. Khi chấp nhận nhau và với ơn thánh Chúa Kitô, các cặp đính hôn đoan hứa sẽ hiến mình trọn vẹn, sẽ trung thành và cởi mở đối với sự sống. Cặp vợ chồng thì nhìn nhận các yếu tố này như thành tố cấu tạo ra hôn nhân, như ơn phúc Thiên Chúa ban cho họ, những ơn phúc được họ coi trọng trong cam kết hỗ tương của họ, nhân danh Thiên Chúa và trước mặt Giáo Hội. Đức tin làm dễ khả năng coi các ơn ích của hôn nhân như những cam kết mà ta có thể duy trì được nhờ sự trợ giúp của ơn thánh Bí Tích. Thiên Chúa thánh hiến tình yêu vợ chồng và củng cố tính bất khả tiêu trong tình yêu của họ, đem lại cho họ sự trợ giúp để họ sống sự trung thành của họ, sự bổ túc lẫn nhau của họ và sự cởi mở đón chào sự sống mới. Bởi thế, Giáo Hội luôn hướng về các cặp vợ chồng như là trái tim của cả gia đình, và gia đình, ngược lại, luôn hướng về Chúa Giêsu. 

22. Từ cùng một cách nhìn như trên, phù hợp với giáo huấn của Thánh Tông Đồ, người từng nói rằng toàn bộ tạo dựng đã được lên kế sách trong Chúa Kitô và vì Chúa Kitô (xem Cl 1:16), Công Đồng Vatican II muốn bày tỏ sự đánh giá cao của mình đối với hôn nhân tự nhiên và các yếu tố có giá trị hiện hữu trong các tôn giáo (xem Nostra Aetate, 2) và các nền văn hóa khác, bất chấp các giới hạn và thiếu sót của chúng (xem Redemptoris Missio, 55). Sự hiện hữu của các hạt giống lời Chúa trong các nền văn hóa này (xem Ad Gentes, 11) cũng có thể áp dụng cách nào đó vào hôn nhân và gia đình tại rất nhiều xã hội và dân tộc không theo Kitô Giáo. Bởi thế, các yếu tố có giá trị quả có hiện hữu dưới một số hình thức ở bên ngoài hôn nhân Kitô Giáo, đặt căn bản trên mối liên hệ bền vững và chân thực giữa một người đàn ông và một người đàn bà, một mối liên hệ, dù sao, vẫn có thể qui hướng về hôn nhân Kitô Giáo. Với việc lưu ý tới sự khôn ngoan bình dân nơi các dân tộc và các nền văn hóa khác, Giáo Hội cũng nhìn nhận loại gia đình này như là đơn vị nền tảng, cần thiết và sinh hoa trái của đời sống nhân loại. 

Sự thật và vẻ đẹp của gia đình và lòng từ bi đối với các gia đình tan vỡ và dễ vỡ

23. Với niềm vui và niềm an ủi sâu xa nội tâm, Giáo Hội hướng về các gia đình luôn trung thành với giáo huấn Tin Mừng, khuyến khích họ và cám ơn họ về chứng từ họ hiến dâng. Thực vậy, họ đang làm chứng, một cách đầy khả tín, vẻ đẹp của cuộc hôn nhân bất khả tiêu, nhờ luôn sống trung thành với nhau. Bên trong khung cảnh gia đình, “mà ta có thể gọi là Giáo Hội tiểu gia” (Lumen Gentium, 11), con người bắt đầu cảm nghiệm Giáo Hội như một hiệp thông giữa người với người, một hiệp thông, nhờ ơn thánh, phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. “Trong gia đình, người ta học được sự chịu đựng, niềm vui làm việc, tình yêu anh em, và lòng quảng đại tha thứ cho người khác, được lặp đi lặp lại nhiều lần, và trên hết việc thờ phượng Thiên Chúa qua cầu nguyện và hiến dâng sự sống mình” (Sách Giáo Lý của GHCG, 1657). Thánh Gia Nadarét là mẫu mực tuyệt vời làm trường học để ta “hiểu lý do tại sao ta phải duy trì kỷ luật thiêng liêng, nếu ta muốn tuân theo các giáo huấn Tin Mừng và trở thành môn đệ Chúa Kitô” (Chân Phúc GH Phaolô VI, Diễn Văn tại Nadarét, 5 tháng Giêng, 1964). Tin Mừng Gia Đình cũng nuôi dưỡng các hạt giống vẫn còn đang đợi để mọc lên; và được dùng làm căn bản để chăm sóc cây cối nào đang úa héo, cần được chữa trị. 

24. Như bà thầy chắc chắn và như bà mẹ chăm sóc, Giáo Hội thừa nhận rằng chỉ có sợi dây hôn phối của những ai đã chịu phép rửa mới có tính bí tích và bất cứ sự vi phạm nào vào sợi dây này là chống lại thánh ý Thiên Chúa. Cùng một lúc, Giáo Hội hiểu rõ sự yếu đuối của nhiều đứa con mình đang lao đao trong cuộc hành trình đức tin của họ. “Thành thử, không hề đi trệch ra ngoài lý tưởng Tin Mừng, họ cần được đồng hành với lòng từ bi và kiên nhẫn trong các giai đoạn có thể có của cuộc hành trình lớn lên của bản thân khi chúng tiệm tiến diễn ra. […] Một bước nhỏ giữa muôn vàn giới hạn lớn lao của con người cũng có thể làm vui lòng Thiên Chúa hơn cả một cuộc đời bề ngoài xem ra thứ tự và ngày qua ngày không phải đương đầu gì với những khó khăn lớn lao. Mọi người đều cần được đánh động bởi ơn an ủi và sức lôi cuốn của tình yêu Thiên Chúa cứu rỗi, một tình yêu luôn hành động một cách mầu nhiệm trong mỗi con người, bên trên và vượt hơn hẳn các lỗi lầm và thất bại của họ” (Gaudium Evangelii, 44).

25. Khi xem xét để tìm ra một phương thức mục vụ cho những người đã ký kết hôn nhân dân sự, những người ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống với nhau, Giáo Hội có trách nhiệm phải giúp họ hiểu khoa sư phạm ơn thánh của Thiên Chúa trong đời họ và đề nghị với họ sự giúp đỡ để họ vươn tới sự viên mãn trong kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ. Nhìn lên Chúa Kitô, Đấng có ánh sáng chiếu soi mọi người (xem Ga 1: 9; Gaudium et Spes, 22), Giáo Hội yêu thương quay nhìn những người đang tham dự vào đời sống của mình một cách không trọn vẹn, thừa nhận rằng ơn thánh Chúa cũng hành động trong đời họ bằng cách ban cho họ sự can đảm để làm điều thiện, để yêu thương chăm sóc lẫn nhau và phục vụ cộng đồng nơi họ sinh sống và làm việc.

26. Giáo Hội quan tâm xem xét việc nhiều người trẻ không tin tưởng dấn thân vào hôn nhân; Giáo Hội cũng đau đớn trước sự vội vàng của nhiều tín hữu muốn kết thúc bổn phận họ từng đảm nhận để bắt đầu một bổn phận khác. Những tín hữu giáo dân này, vốn là chi thể của Giáo Hội, cần một sự chú ý về phương diện mục vụ biết tỏ lòng từ bi và khích lệ, để họ định đoạt được tình huống của họ cách thỏa đáng. Những người trẻ đã nhận phép rửa nên được khích lệ để hiểu rằng bí tích Hôn Nhân có thể phong phú hóa các viễn tượng yêu thương của họ và họ có thể được nâng đỡ bằng ơn thánh Chúa Kitô trong bí tích này và bằng khả năng tham dự đầy đủ vào đời sống Giáo Hội. 

27. Ngày nay, về phương diện này, một khía cạnh mới trong thừa tác vụ gia đình cần được chú ý, đó là thực tại hôn nhân dân sự giữa một người đàn ông và một người đàn bà, những cuộc hôn nhân theo truyền thống và cả việc sống chung nữa, tuy có nhiều dị biệt. Khi một cuộc kết hợp đạt tới một mức độ bền vững đặc thù nào đó, được luật pháp thừa nhận, có đặc điểm của một tình âu yếm mặn nồng và có trách nhiệm với con cái cũng như biểu tỏ khả năng vượt qua thử thách, thì những cuộc kết hợp này có thể đem tới cơ hội để hướng dẫn họ với viễn tượng cuối cùng dẫn tới việc cử hành bí tích hôn nhân. Đôi khi, một cặp chỉ sống với nhau không có bất cứ khả thể hôn nhân nào trong tương lai và không có bất cứ ý hướng nào muốn có mối liên hệ trói buộc theo luật. 

28. Để phù hợp với lòng từ bi hay thương xót của Chúa Kitô, Giáo Hội phải chăm chú và quan tâm đồng hành với những người yếu đuối nhất trong số con cái mình, khi họ cho thấy những dấu chỉ của một tình yêu bị thương tổn hay mất mát, bằng cách phục hồi nơi họ niềm hy vọng và tự tin, giống như đèn hải đăng tại bến cảng hay như ngọn đuốc mang theo giữa mọi người để soi sáng cho những ai lạc đường hay đang gặp sóng gió. Ý thức rằng điều từ bi nhất là nói sự thật về tình yêu, nên ta phải đi quá bên kia lòng thương xót. Tình yêu thương xót, vì luôn có tính lôi cuốn và kết hợp, phải biến cải và nâng cao. Đây là lời mời gọi hồi tâm. Ta hiểu cùng cách này về thái độ của Chúa; Người không kết án người đàn bà ngoại tình, nhưng yêu cầu nàng đừng phạm tội nữa (Ga 8:1-11). 

Còn tiếp

Vũ Văn An10/31/2014(vietcatholic)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét