Ngày 31 tháng 12
(Trong Tuần Bát Nhật Lễ
Chúa Giáng Sinh)
Bài
Ðọc I: 1 Ga 2, 18-21
"Các con được Ðấng
Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Hỡi
các con, đây là giờ sau hết. Các con đã nghe biết là sẽ có Phản-Kitô đến, thì
nay đã có nhiều Phản-Kitô xuất hiện, do đó chúng ta biết rằng đây là giờ sau hết.
Họ ở giữa chúng ta mà ra, nhưng không thuộc về chúng ta, vì nếu họ thuộc về
chúng ta, thì họ vẫn còn ở với chúng ta. Như vậy để chứng tỏ rằng không phải tất
cả mọi người đều thuộc về chúng ta.
Còn
các con, các con được Ðấng Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự. Ta viết cho
các con, không phải vì các con không biết sự thật, nhưng vì các con biết sự thật,
và phàm là dối trá thì không (thể) do sự thật mà có.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 95, 1-2. 11-12. 13
Ðáp: Trời xanh hãy
vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người, ngày ngày hãy loan truyền
ơn Người cứu độ. - Ðáp.
2)
Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó
hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui, các rừng cây hãy vui
tươi hớn hở. - Ðáp.
3)
Trước nhan Thiên Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người
sẽ cai quản địa cầu cách công minh, và chư dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia:
Dt 1, 2
Alleluia,
alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ
lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 1, 1-18
"Ngôi
Lời đã làm người".
Bắt
đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ
nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn
là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do
Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi
cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của
nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có
một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng
minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông
không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực,
sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế
gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người
đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người.
Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên
con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không
do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng
do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và
Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi
đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như
của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan
làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến
sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự
sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác.
Bởi
vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu
Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong
Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ngôi
Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
Khởi
đầu Tin Mừng của thánh Gioan đã cho chúng ta thấy xuất xứ của Ðức Giêsu Kitô bởi
Thiên Chúa mà ra. Ðức Giêsu Kitô được sinh ra không do xác thịt, cũng không bởi
ý muốn của người đàn ông kết hợp với người đàn bà, nhưng bởi Thiên Chúa. Cho
nên Ðức Maria đã thắc mắc với thiên thần Gabriel: "Chuyện ấy xảy ra thế
nào được vì tôi không biết đến người nam". Thiên thần Gabriel đã giải
thích cho Ðức Maria: "Chúa Thánh Thần đến với Trinh Nữ và uy quyền Ðấng Tối
Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. Vì thế, Ðấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được
gọi là Con Thiên Chúa".
Vậy,
Ðức Kitô sinh ra bởi quyền phép Thiên Chúa và được gọi là Ngôi Hai Thiên Chúa
Nhập Thể, Ngài mặc lấy thân xác con người như chúng ta và như Gioan Tẩy Giả đã
giới thiệu với các môn đệ của ông: "Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội
trần gian" và ông cũng làm chứng bằng lời nói sau đây: "Ðây là Ðấng
tôi tiên báo, Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước
tôi".
Theo
lẽ thường bà chị họ của Ðức Maria là Elizabeth mang thai Gioan Tẩy Giả trước
sáu tháng, thì Gioan được nhìn nhận là sinh ra trước Chúa Giêsu. Nhưng Gioan Tẩy
Giả lại nói: "Ngài có trước tôi", nghĩa là Gioan muốn nói lên bản
tính Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô.
Như
vậy qua đoạn Tin Mừng này, Gioan Tẩy Giả muốn dẫn chứng cho chúng ta con người
của Chúa Giêsu Kitô có hai bản tính:
-
Bản tính Thiên Chúa.
-
Bản tính nhân loại.
Xét
theo bản tính Thiên Chúa: thì từ nguyên thủy đã có Ngài, Ngài vẫn ở với Thiên
Chúa và Ngài vẫn là Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa cho nên mọi vật đều
được Người làm nên, và nếu không có Người thì không có vật chi đã được tác
thành trong mọi cái đã được tác thành. Nơi Ngài có sự sống và chính Người là
Thiên Chúa.
Theo
bản tính nhân loại: Chúa Giêsu đã được sinh ra ở làng quê Belem bé nhỏ, nước Do
Thái do một Trinh Nữ tên là Maria và một dưỡng phụ là Giuse. Chúa Giêsu đã sống
ẩn dật ba mươi năm ở Nazareth, ba năm đi rao giảng nước Thiên Chúa rồi cũng bị
bắt bớ, đánh đập và chết trên Thập Giá, an táng trong huyệt đá như mọi người đều
biết.
Trong
cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn nhắc nhở đến sứ mệnh là phải
chu toàn công việc Cha Ngài ủy thác, Ngài luôn luôn đề cao sự kết hợp mật thiết
giữa Ngài với Chúa Cha và cả hai cùng làm việc không ngừng. Ngài cũng nhắc đến
Chúa Thánh Thần sẽ được sai đến để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài ở trần
gian cho đến khi Ngài lại đến.
Chúa
Giêsu đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại, vì trước Chúa Giêsu, chưa có ai nhận được
ơn cứu rỗi kể từ lúc Adam và Evà phạm tội. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay đề cập
đến sự sung mãn của Chúa Giêsu mà hết thảy chúng ta được tiếp nhận từ ơn này tới
ơn khác. Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì được
ban qua Ðức Giêsu Kitô.
Qua
bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử đã giúp chúng ta thêm niềm tin vào Ðức Kitô là
Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến làm người để đem ơn cứu rỗi đến
cho nhân loại tội lỗi.
Lạy
Chúa, trong Mùa Giáng Sinh năm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng con thêm vững
niềm tin để chúng con xác tín mạnh mẽ hơn: Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể đem
tình thương tha thứ vô biên đến cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con sống
thực sự với mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người ở với chúng
con. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 31 tháng 12, BNGS
Bài đọc: I Jn 2:18-21; Jn
1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những kẻ Phản-Kitô
là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô.
Đối
diện với sự xuất hiện của Đức Kitô, con người buộc phải tỏ thái độ: tin hay
không tin. Tùy thuộc vào thái độ này, con người tự chọn cho mình phải hư đi hay
đạt tới cuộc sống đời đời. Thiên Chúa không cần phán xét con người, nhưng Ngài
để cho con người tự phán xét lấy. Điều này đã rõ ràng trong Tin Mừng Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của
Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ
Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án;
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa” (Jn 3:16-18).
Các
bài đọc hôm nay xoay chung quanh việc từ chối tiếp nhận Đức Kitô. Trong Bài đọc
I, Thánh Gioan đề cập đến những kẻ Phản-Kitô và cuộc giao chiến cuối cùng của
các Kitô hữu với những kẻ này. Trong Phúc Âm, Thánh Gioan tường thuật hai phản ứng
của con người khi Ngôi Lời xuất hiện: (1) Có những kẻ từ chối tiếp nhận Người:
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết
Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Jn
1:10-11). (2) Nhưng nếu ai tiếp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con
Thiên Chúa (Jn 1:12).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Cuộc chiến cuối cùng với những kẻ Phản-Kitô
1.1/
Cuộc chiến với những kẻ Phản-Kitô:
(1)
Giờ cuối cùng là khi nào?
Có 2 ý kiến khác nhau:
-
Thời gian trước Ngày Tận Thế: Từ thời các Tông-đồ, con người luôn cố gắng đóan
xem khi nào Ngày Tận Thế xảy ra: Thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu
Thessalonica I đã tiên đóan Ngày này sẽ xảy ra trong tương lai gần; nhưng sau
đó, ngài đã xét lại sự tiên đóan này trong các Thư: Thessalonica II, chương 2;
và Corintô I, chương 7.
-
Thời gian từ lúc Đấng Cứu Thế đến cho tới Ngày Tận Thế: Đây là ý kiến được đa số
công nhận hơn vì được Chúa Giêsu nói tới nhiều lần trong các Tin Mừng. Chính
Chúa Giêsu đã quả quyết: Ngày ấy chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng khi nào xảy ra
không ai biết, trừ một mình Thiên Chúa Cha. Vì không ai biết khi nào Ngày đó xảy
ra, nên mọi người phải luôn chuẩn bị.
(2)
Ai là kẻ Phản-Kitô? Giới
từ anti có 2 nghĩa trong tiếng Hy-Lạp: chống lại hay thay chỗ
của. Vì thế từ Phản-Kitô cũng có 2 ý nghĩa:
-
Kẻ chống lại Đức Kitô: những ai trực tiếp và đơn giản chống lại Ngài, chẳng hạn:
các bè rối chống thiên tính hay nhân tính của Đức Kitô hay Con Thú trong Sách
Khải Huyền.
-
Kẻ muốn thay thế chỗ của Đức Kitô: những ai muốn thay thế chỗ của Đức Kitô cách
gián tiếp và không minh bạch, chẳng hạn: thay vì chỉ cho mọi người tới với
Chúa, họ lợi dụng những gì Chúa nói để chỉ vào mình hay từ từ đưa con người xa
Chúa.
1.2/
Dấu để nhận ra kẻ Phản-Kitô:
(1)
Là người ở giữa chúng ta: không phải là quỉ vương ra đời như nhiều người lầm tưởng. Thánh
Gioan chỉ rõ: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người
của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng
như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta.” Vì kẻ Phản-Kitô lẫn
lộn trong cộng đồng, nên các tín hữu cần cẩn thận đề phòng, vì khó nhận ra họ.
(2)
Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra kẻ Phản-Kitô: “Phần anh em, anh
em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết. Tôi
đã viết cho anh em, không phải vì anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết
sự thật, và vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.” Chúa Thánh Thần
là sự thật, chính Ngài sẽ giúp các tín hữu nhận ra ai là kẻ Phản-Kitô.
2/
Phúc Âm:
Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người.
2.1/
Ngôi Lời tỏ mình cho thế gian: Thánh Gioan nêu ra ít là 3 cách Ngôi Lời đã tỏ
mình:
(1)
Trong việc tạo dựng: “Nhờ
Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo
thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng
cho nhân loại.” Con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua việc tạo dựng và quan
phòng.
(2)
Qua nhân chứng Gioan: “Có
một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm
chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” Gioan Tẩy Giả là nhân chứng đã
biết và đã chỉ cho dân chúng thấy khi Ngài xuất hiện: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng
gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
(3)
Qua biến cố Nhập Thể: “Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy
vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn
ân sủng và sự thật.” Các Tông-đồ đã nhìn thấy Ngôi Lời bằng xương thịt. Ngài đã
ở giữa họ, đã dạy dỗ, và đã làm bao phép lạ để chứng tỏ uy quyền của Ngài.
Thánh-sử Gioan làm chứng cho chúng ta, những người không có kinh nghiệm nhìn thấy
Chúa, trong cả Phúc Âm và Thư của ngài.
2.2/
Phản ứng của con người: Có
2 phản ứng chính:
(1)
Từ chối và không tin Ngài: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại
không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”
Có những người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc tạo dựng. Họ
cũng chẳng nhận ra Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau cùng, họ cũng chẳng
tin vào lời các người làm chứng cho Thiên Chúa. Thời của Chúa cũng như thời
nay, vẫn có những hạng người này.
(2)
Tiếp nhận và tin vào Ngài: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì
Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí
huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải tin vào Đức Kitô để được làm con Thiên Chúa và để đạt được cuộc sống
đời đời.
-
Con người tự phán xét lấy mình trong việc lựa chọn tin hay không tin vào Đức
Kitô.
-
Chúng ta phải cẩn thận đề phòng những kẻ Phản-Kitô: những người từ chối Đức
Kitô, những người mạo nhận danh nghĩa của Ngài, và những người muốn thay Ngài bằng
những điều khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH
(26/12 đến 1/1)
Ga 1,1-18
A. Hạt giống...
Các chuyên viên Thánh Kinh đã gọi đoạn này là
quyển Tin Mừng Thứ Tư tóm lược vì chứa đựng dưới dạng súc tích
tất cả những chủ đề chính của tác phẩm như : Chúa Giêsu là Lời, Sự Sống,
Sự Sáng, Làm chứng, Sự thật...
1. Đức Giêsu là “Lời” của Thiên Chúa, tiền hữu và
hằng hữu (cc 1-2)
2. Ngài là Đấng Tạo hóa (c 3a)
3. Ngài là sự sống và sự sáng (cc 3b-5)
4. Gioan Tiền hô là người làm chứng cho Chúa
Giêsu (cc 6-8)
5. Chúa Giêsu là sự thật (c 9)
6. Ngài đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ
Ngài mà có. Nhưng thế gian đã không nhận Ngài (c 10-18)
B.... nẩy mầm.
1. “Lời đã trở thành nhục thể”. Trong những thế
kỷ đầu, có những lạc thuyết không chấp nhận việc Thiên Chúa nhập thể vì cho
rằng thể xác là xấu xa không đáng cho Thiên Chúa nhập vào. Nhưng Con Thiên Chúa
đã thực sự nhập thể, chứng tỏ thân xác chúng ta không xấu xa, chứng tỏ lòng Ngài
quá thương chúng ta, và còn cho biết từ nay Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta qua
thực tại nhân tính với tất cả những yếu đuối hèn hạ của nó. Hệ luận của mầu
nhiệm nhập thể này là từ nay ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi gặp gỡ con người,
ta có thể yêu mến Thiên Chúa khi yêu mến con người...
2. “Ánh sáng chiếu trong bóng tối và bóng tối đã
không tiêu diệt được ánh sáng” : Nói một cách triết lý, Tối chỉ là thiếu
Sáng, cho nên khi nào Sáng đến thì Tối phải tan. Chỉ một ngọn nến nhỏ được đưa
vào một gian phòng mênh mông cũng đủ đuổi bóng tối ra khỏi gian phòng. Suy rộng
ra, Ác chỉ là thiếu Thiện, cho nên Ác không thể nào thắng Thiện, ngược lại
Thiện thắng Ác là điều tất yếu. Ngôi Hai đã nhập thế và nhập thể, ai đón nhận
Ngài vào lòng mình thì chắc chắn sẽ đẩy lùi bóng tối và sự ác khỏi lòng mình.
Bởi thế, trong quyền sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Gioan Phaolô II
luôn lặp đi lặp lại lời kêu gọi đầy lạc quan : “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa
cho Chúa Kitô”.
3. Một đêm kia, trên một đường phố vắng vẻ, Bóng
Tối ngồi co ro, buồn bã. Từ một xó nọ loé lên một Tia Sáng, rất nhỏ và rất yếu,
nhưng là một tia sáng, phát ra từ một cây nến nhỏ mà ai đó đã cắm ở đấy. Một
người khách đi qua nhìn thấy cây nến nhỏ và nói :
- Sao mi lại chiếu sáng trong cái xó kẹt
này ? Thiếu gì chỗ khác, mi đến đó mà chiếu sáng thì sẽ hữu ích hơn nhiều.
- Tại sao hả, cây nến trả lời. Tôi chiếu sáng bởi
vì tôi là cây nến. Tôi có chiếu sáng thì tôi mới là cây nến. Vả lại tôi chiếu
sáng đâu phải chỉ để cho người ta thấy mà còn để cho tôi vui, vui vì được làm
Tia sáng, vui vì được chiếu sáng.
Bóng Tối nghe thế rất bực bội. Nó nhào tới phủ
lên Tia sáng mong làm cho Tia sáng bị tắt. Nhưng chẳng những Tia sáng không
tắt, trái lại Bóng Tối còn bị rách nát ra. (Willi Hoffsuemmer).
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
31/12/14 THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Xin-ve-tê I, giáo hoàng
Ga 1,1-18
Th. Xin-ve-tê I, giáo hoàng
Ga 1,1-18
Suy niệm: Tin
Đức Giê-su, con người lịch sử bằng xương bằng thịt, lại là Thiên Chúa thật đồng
nghĩa với việc ta phải chấp nhận những kết luận rất ư là khác thường. Chẳng hạn
như Đấng Tạo Hóa chấp nhận thân phận làm tạo vật, đại dương rộng lớn đựng vừa
khít trong một chiếc thùng; cả bầu trời bao la nằm gọn trong một vũng nước nhỏ;
mặt trời được nhìn qua một lỗ kim. Một đàng, Thiên Chúa là Đấng cao cả, quyền
năng, ngàn trùng chí thánh; đàng khác, Ngài lại chấp nhận làm người, gần gũi,
thân thiết với con người. Thiên Chúa, Đấng không ai biết được, cũng chẳng ai có
thể mon men đến gần được, nay tự làm cho mình được con người biết đến và đụng
chạm được qua Đức Giê-su. “Người cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho
Người, là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật”:
quả thật, đại dương bao la đựng vừa khít trong một chiếc thùng (theo cha S.
O'Flynn, O.F.M.).
Mời Bạn: Cùng
với thánh Gio-an, bạn xác tín Đức Giê-su là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Đấng từ
Chúa Cha mà đến với con người, làm người ở giữa con người, ‘nói’ cho con người
biết Thiên Chúa là ai, yêu thương con người như thế nào, để rồi đưa dẫn con
người về hưởng hạnh phúc với Chúa Cha.
Sống Lời Chúa: Tôi
cúi mình tạ ơn Ngôi Hai Thiên Chúa đã trở nên người phàm vì yêu thương con
người. Tôi cố gắng sống trong tâm tình cảm tạ ấy suốt ngày hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã yêu thương xuống thế làm người với
chúng con. Xin cho chúng con luôn sống trong tâm tình cảm tạ này.
Ngôi Lời đã thành người
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nếu Ngài chỉ là một con người hay một bậc vĩ nhân, thì Ngài chỉ đáng ta kính trọng
chứ không phụng thờ.
Suy niệm:
Ông Soren Kierkegaard, một
triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau.
Một vị vua bỗng dưng đem
lòng thương cô thôn nữ nghèo.
Ông tin rằng mình có thể
dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ.
Nhưng ông lại sợ cô lấy ông
chỉ vì nể phục chứ không yêu.
Như thế tương quan giữa hai
người không được trọn vẹn.
Sau khi suy nghĩ, ông thấy
chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng,
trở thành một anh nông dân
nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô.
Vị vua biết làm thế là liều
lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu.
Cô có thể chê chàng nông
dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua.
Nhưng nhà vua vẫn dám liều,
vì ông quá yêu cô thôn nữ,
và ông muốn đây là một mối
tình thực sự.
Câu chuyện cảm động trên đây
đưa ta vào chuyện tình
đã xảy ra giữa Ngôi Lời
Thiên Chúa và nhân loại.
Ngôi Lời còn cao trọng hơn
vị vua kia bội phần.
Ngài là Thiên Chúa Con Một,
dựng nên vạn vật (cc. 3. 18).
Ngài là Đấng duy nhất thấy
Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa,
nên chỉ Ngài mới có thể bày
tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c.18).
Ngài tràn đầy ân sủng và sự
thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14).
Tất cả những điều ấy là quà
tặng của Ngôi Lời cho con người.
Nhưng quà tặng lớn lao và
bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui,
đó là biến cố Ngôi Lời trở
nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14).
Con Thiên Chúa trở nên con
của loài người và mang tên Giêsu (c. 17).
Ngài mang khuôn mặt của ta,
đứng chung một dòng tiến hóa với ta.
Ngài dựng lều trên trái đất,
một hành tinh bé xíu nhưng tuyệt vời,
vì đã được ghi dấu chân Con
Thiên Chúa.
Ông Luther viết: “Ngài đã
ăn, uống, ngủ, thức;
Ngài đã cảm thấy chán nản,
biết buồn, biết vui.
Ngài khóc, cười, đói, khát;
Ngài đổ mồ hôi; Ngài vất vả, cầu nguyện,
đến nỗi giữa Ngài với ta
không có dị biệt nào, tuyệt nhiên không,
ngoại trừ Ngài là Thiên Chúa
và Ngài vô tội.”
Khác với vị vua không muốn
làm vua nữa để thành nông dân,
Ngôi Lời khi thành người vẫn
là Con Thiên Chúa dưới dạng tự hủy.
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa
thật và là người thật.
Nếu Ngài chỉ là một con người
hay một bậc vĩ nhân,
thì Ngài chỉ đáng ta kính
trọng chứ không phụng thờ.
Nếu Ngài chỉ là một Thiên
Chúa đội lốt người, chứ không là người thật,
thì Ngài không thể cứu độ và
thần hóa con người.
Lễ Giáng sinh là lễ hội của
mọi người trên mặt đất
vì Con Thiên Chúa đã muốn
chia sẻ phận người của chúng ta.
Ngài đã đến với thế giới này
như nhà của Ngài (cc. 9. 11).
Chỉ cần nhận biết, tin vào
Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12)
là chúng ta được trở nên con
cái Thiên Chúa.
Hơn hai ngàn năm đã trôi
qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ.
Có ai mở cửa cho Ngài không?
(Kh 3, 20).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của
loài người,
con của trái đất, con của
một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của
Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập
giá.
Xin cho chúng con biết yêu
mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn
lạc hậu
sau những năm dài chiến
tranh,
một quê hương đang mở ra
trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản
sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha
ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm
mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện
nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước
nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật
cụ thể
cho những đồng bào quanh
chúng con.
Ước gì chúng con biết phục
vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi
tay.
Và ước gì chúng con biết
khiêm tốn
cộng tác với muôn người
thiện chí.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
31
THÁNG MƯỜI HAI
Vượt
Qua Lý Lẽ
Để
Nắm Bắt Mầu Nhiệm
Thiên
Chúa đã trở thành xác phàm vì chúng ta! Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một
con người như chúng ta. Vì thế, cả trong lịch sử nhân loại lẫn trong cuộc đời
riêng mỗi người, chúng ta được bảo đảm rằng Người luôn luôn hiện diện với chúng
ta bằng tình yêu của Người, bằng ơn cứu độ của Người và bằng sự quan phòng của
Người.
Chúng
ta bắt đầu nhận ra rằng Giáng Sinh đòi hỏi đức tin, vì Giáng Sinh là một mầu
nhiệm. Bằng lý luận, chúng ta sẽ chẳng thể nào hiểu được vì sao Thiên Chúa yêu
thương chúng ta đến thế. Những người chăn chiên đã được trao cho một dấu chỉ. Họ
sẽ gặp thấy Người trong một máng cỏ. Hài Nhi Giêsu được Mẹ Người đặt nằm trong
một máng cỏ: một dấu chỉ hết sức thấp hèn, một dấu chỉ về sự khiêm hạ vô cùng của
Thiên Chúa. Trí khôn nào cắt nghĩa được điều đó! Thì ra, để đón nhận sứ điệp của
Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc muôn loài, chúng ta phải gạt mọi lý luận qua một bên.
Chỉ có lòng khiêm tốn, tín thác và cung kính tôn thờ, chúng ta mới có thể hiểu
và tiếp nhận được sự khiêm hạ đầy năng lực cứu độ của Thiên Chúa.
Vì
thế, hình ảnh máng cỏ thấp hèn ấy phải được chúng ta chiêm ngắm mỗi ngày. Nguyện
xin Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se cầu thay nguyện giúp cho chúng ta – để chúng ta
biết khiêm cung tôn thờ Chúa và biết đặt trọn lòng tin tưởng nơi Ngài.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
31-12.
Thánh
Silvester I Giáo hoàng
1Ga
2,18-21; Ga 1,1-18.
LỜI
SUY NIỆM: “Thiên Chúa, chưa
bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi
cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.”
Trong
Cựu Ước chẳng có ai nghĩ con người trần thế này có thể thấy được Thiên Chúa.
Nhưng trong Tân Ước. Mt 11,27, và Lc 10,22: Chúa Giêsu nói: “Cha tôi đã giao
phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người
Cha muốn mạc khải cho” Trong Ga 8,19: “Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết
Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi” và trong Ga 14,9-11:
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha...Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và
Chúa Cha ở trong Thầy”
Lạy
Chúa Giêsu, Chúng con được biết Chúa là nhờ Giáo Hội truyền dạy qua Kinh Thánh,
đặc biệt qua Tin Mừng. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con ham
thích học hỏi Lời Chúa do các đấng bậc trong Giáo Hội Chúa hướng dẫn để niềm
tin của chúng con đi đúng con đường về Nước Trời.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
31-12: Thánh SILVESTRÔ I
Giáo
Hoàng (+335)
Thánh
Silvestrô kế vị Thánh Miltiades làm giáo hoàng năm 314, sau khi Constantinô đã
trả lại tự do cho Kitô giáo bằng sắc lệnh Milanô ít lâu. Có lẽ chính Ngài đã rửa
tội cho Gustantinô, và đã chữa cho ông khỏi bệnh củi và nhà vua đã dâng cho Đức
Silvestrô công trường Latêranô.
Cả
một khối truyền thuyết cho Ngài là một thày thuốc, một nhà thần học, một luật
gia. Nhưng có lẽ Ngài đã không phải như vậy.
Điều
chắc chắn là Ngài đã cai quản Giáo hội dưới thời vua Constantino và đã góp phần
vào việc xây dựng những đại thánh đường.
Cũng
vào thời Ngài, cuộc ly khai của phái Dônatô và sự sai lầm của phái Atiô đã gây
nên nhiều tai hoạ lớn lao cho Giáo hội. Cộng đồng Nicêa năm 325 dưới thời Ngài
đã chặn đứng những tai hoạ ấy.
Ngài
qua đời năm 335 và được mai táng tại nghĩa trang Priscilla, đường Salaria.
(daminhvn.net)
31
Tháng Mười Hai
Lẽ Sống
Ngày
xưa có một ông vua, tuổi đã quá ngũ tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách
nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc nhất là bộ "Lịch sử loài người".
Nhưng khốn nỗi, cuộc đời của ông, từ mái đầu xanh cho đến tóc điểm bạc, không
lúc nào được rảnh rang. Ðời ông luôn luôn sống trên lưng ngựa, nằm sương, gối
tuyết trên bãi chiến trường. Nay chinh phục nước này, mai ngăn chặn nước kia
xâm lăng. Mắt ông chỉ thấy có gươm giáo và máu lửa. Ông rất ân hận vì chưa đọc
được một trang sách của thánh hiền... Nay nước nhà đã hòa bình, ông muốn dành
thời giờ còn lại để đọc cho kỳ được bộ lịch sử loài người, để xem con người xưa
nay sống để làm gì? Nhưng tuổi ông đã cao, mà bộ sách lại quá dày. Biết sức
mình không thể đọc hết bộ sách, cho nên nhà vua mới ra lệnh cho viên sử thần
làm hộ cho mình công việc ấy. Với sự giúp đỡ của một ban gồm 50 người, viên sử
thần mới bắt tay ngày đêm miệt mài đọc sách.
Sau
10 năm cắm cúi đọc sách, viên sử thần đã có thể tóm tắt bộ lịch sử loài người
thành 10 quyển sách, và cho mang vào trình lên nhà vua. Nhưng vừa nhìn thấy 10
quyển sách và đo lường tuổi tác của mình, nhà vua lại cảm thấy không đủ sức để
đọc hết bộ sách đã được rút ngắn. Nhà vua mới đề nghị cho ủy ban làm việc thêm
một thời gian nữa. Sau 5 năm làm việc thêm, ủy ban đã có thể tóm lược lịch sử
loài người thành 5 quyển. Nhưng khi ủy ban mang 5 quyển sách vào ra mắt nhà
vua, thì cũng chính là lúc nhà vua đang hấp hối trên giường bệnh. Biết mình
không thể đọc được dù một trang, nhà vua mới thều thào nói với viên trưởng ban
tu sử hãy tóm tắt bộ lịch sử loài người thành một câu mà thôi. Vị trưởng ban tu
sử mới tâu với nhà vua như sau: "Hạ thần xin vâng mạng. Lịch sử loài người
từ khai thiên lập địa đến giờ là: loài người sinh ra để khổ rồi chết". Nhà
vua gật đầu. Ðôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở nụ cười mãn nguyện... rồi tắt
thở. Và giữa lúc ấy, vị trưởng ban tu sử cũng nấc lên mấy tiếng rồi trút hơi thở
cuối cùng.
Hôm
nay là ngày cuối năm. Nhìn lại một năm qua với không biết bao đói khổ, chiến
tranh, chết chóc cho nhân loại cũng như cho chính bản thân, có lẽ cũng có nhiều
người đi đến kết luận bi quan như viên trưởng ban tu sử trong câu chuyện trên
đây: "Loài người sinh ra để khổ rồi chết".
Ði
qua một đoạn đường trong cuộc lữ hành trần gian, Giáo Hội muốn chúng ta mặc lấy
thái độ hân hoan và lạc quan. Bài ca trên môi miệng của chúng ta trong ngày hôm
nay không phải là bài ca bi ai, tả oán, mà phải là bài ca "Te Deum",
ngợi khen Chúa, cảm tạ Chúa. Ngợi khen Chúa, cảm tạ Chúa bởi vì vinh quang của
Ngài là con người được sống. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ không phải của
người chết.
Không
chối bỏ thực tại của khổ đau, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để
không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt. Bởi vì vinh quang của
Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người
không phải là ngõ cụt của sự chết, mà là Sự Sống. Bên kia khổ đau, chết chóc,
cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Còn
tâm tình nào xứng hợp trong ngày cuối năm cho bằng cảm tạ và phó thác. Cảm tạ
và phó thác cho Chúa bởi vì Ngài vẫn luôn là Thiên Chúa của Tình Yêu, Thiên
Chúa của Sự Sống. Cảm tạ và phó thác cho Chúa bởi vì Ngài là Ðường, là Sự Thật
và là Lẽ Sống của chúng ta. Cảm tạ và phó thác cho Chúa vì cuộc sống này vẫn tiếp
tục có ý nghĩa và đáng sống.
(Lẽ
Sống)
KẾT THÚC NĂM DƯƠNG LỊCH 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét