10/01/2015
THỨ BẢY SAU
LỄ HIỂN LINH
Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 14-21
"Chúa nhậm lời chúng ta kêu cầu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan
Tông đồ.
Các con thân mến, này là sự chúng ta
tin tưởng nơi Chúa: là hễ chúng ta xin sự gì hợp ý Người, thì Người nhậm lời chúng
ta. Và chúng ta biết Người nghe nhận mọi điều chúng ta xin, vì chúng ta biết rằng
chúng ta có kêu cầu Người. Ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa tới sự chết,
thì hãy cầu xin và Người sẽ ban sự sống cho kẻ phạm thứ tội đó. Có thứ tội đưa
đến sự chết, tôi không bảo ai cầu xin cho người phạm tội ấy đâu. Mọi sự gian tà
đều là tội, và có thứ tội đưa đến sự chết.
Chúng ta biết rằng ai sinh ra bởi
Thiên Chúa, thì không phạm tội, chính sự sinh ra bởi Thiên Chúa gìn giữ họ, và
ma quỷ không làm gì được họ. Chúng ta biết rằng chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra,
và toàn thể thế gian đều phục luỵ ma quỷ. Và chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa
đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật,
và được ở trong Con chân thật của Người. Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và
là sự sống đời đời. Các con thân mến, hãy giữ mình xa các tà thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c.
4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy vui mừng
vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người,
hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân
Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh
quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô
Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Dt 1, 1-2
Alleluia, alleluia. - Thuở xưa, nhiều
lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến
thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người
Con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 22-30
"Bạn hữu của tân lang vui mừng vì
tiếng nói của tân lang".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người
đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa
tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì
chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục. Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ
của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông:
"Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng
cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!" Gioan trả lời rằng:
"Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các
ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi
được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân
lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm
vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Yoan làm
chứng lần cuối
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo hội muốn gửi đến chúng ta qua
bài Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, ảnh hưởng của Chúa Giêsu
càng lớn, thì vai trò của Gioan càng lu mờ. Ba Phúc âm Nhất lãm đã làm nổi bật
sự kiện ấy khi đặt sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chấm dứt vai trò của Gioan Tẩy
Giả.
Gioan đã diễn tả vai trò tiền hô của
mình qua câu nói bất hủ: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thay vì
ghen tức, buồn phiền, Gioan đã vui mừng đóng trọn vai phụ của mình. Như một quản
trò trong tiệc cưới, Gioan đã khơi dậy niềm vui và hướng mọi người đến với Tan
Lang là Đức Kitô.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng tiếp tục
vai trò của Gioan Tẩy Giả. Phương châm hành động của họ là: “Ngài phải lớn lên,
còn tôi phải nhỏ lại”. Nhỏ lại trong những khuynh hướng xấu lôi kéo chúng ta
vào tội lỗi, nhỏ lại trong những đam mê, ích kỷ của chúng ta, để nhờ đó Chúa
Kitô đước lớn lên trong chúng ta.
Nguyện cho ánh sáng và sức sống của Đức
Kitô tràn ngập tâm hồn và cuộc sống chúng ta, để chúng ta đạt tới tầm mức viên
mãn của chính Ngài.
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Bảy sau
Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải
tránh xa tội lỗi!
Tội lỗi của con người là lý do tại sao
Chúa Giêsu xuống trần gian để gánh tội cho con người, và cứu con người thóat khỏi
quyền lực của tội. Nhưng có phải vì thế mà con người không phạm tội nữa không?
Vấn đề rất nguy hiểm ngày nay là nhiều người đã mất hết ý thức về tội lỗi, họ
không còn coi bất cứ gì là tội nữa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những
gì liên quan đến tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan phân biệt 2 thứ tội: tội
đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Con người chỉ có thể cầu nguyện
cho những người mắc tội không đưa đến cái mà thôi. Trong Phúc Âm, các môn đệ của
Gioan phạm tội ghen-tị, khi họ thấy người ta tuôn đến với Chúa Giêsu nhiều hơn
là tới thầy của họ. Gioan cho họ 3 lý do tại sao không nên ghen-tị: Mọi quyền
năng đến từ Thiên Chúa, phải biết mình và biết người để có sự bình an, và con
người phải vui mừng khi thấy Thiên Chúa được vinh quang.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tội đưa đến cái chết
và tội không đưa đến cái chết
1.1/ Điều kiện để Thiên Chúa nhận lời cầu
xin của con người:
(1) Thiên Chúa nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người: Thiên Chúa lắng nghe tất cả những lời cầu xin của
con người, nhưng không phải ngài sẽ nhận lời tất cả các lời cầu xin; Ngài chỉ
nhận lời những điều hợp ý Ngài mà thôi. Điều này dễ hiểu, vì có những lời cầu
xin ích kỷ chỉ biết vun xới cho mình, hay những lời cầu xin Thiên Chúa làm hại
người khác, hay bắt Thiên Chúa cư xử ngược lại với bản tính của Ngài. Điều con
người nên làm khi cầu nguyện là luôn kết thúc với câu “nếu đẹp ý Chúa.” Chỉ có
Thiên Chúa mới biết rõ ràng và chắc chắn điều gì tốt đẹp cho con người, và Ngài
sẽ sẵn sàng ban những điều tốt đẹp đó cho con cái của Ngài.
(2) Tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết: Gioan nói về 2 thứ tội này, nhưng không cắt nghĩa rõ
ràng: “Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu
xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy; đó là nói về những ai phạm
thứ tội không đưa đến cái chết. Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo
phải cầu xin cho thứ tội ấy. Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội
không đưa đến cái chết.” Theo ý kiến sau cùng của các học giả và giáo huấn của
Giáo-Hội: tội đưa đến cái chết là tội của những người mất hết ý thức về tội lỗi,
hay của những người tin tưởng Chúa sẽ tha hết mọi tội mà không cần phải ăn năn,
xám hối, và sửa đổi. Nếu con người cầu xin Chúa cứu những người này là vi phạm
sự công bằng của Thiên Chúa; nhưng con người có thể cầu xin cho họ có cơ hội trở
lại khi họ còn sống.
1.2/ Hai trường hợp của con người trong
thế giới: Đọan văn này rất khó hiểu; chúng ta phải
hiểu nó trong văn mạch của tòan thư Gioan I. Trước tiên, Gioan không có ý nói tất
cả các Kitô hữu không phạm tội, vì ngay trong đọan văn trên, Gioan đã phân biệt
2 thứ tội: tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Điều ngài muốn
làm ở đây là phân biệt 2 lọai người: người thuộc về Thiên Chúa và người thuộc về
thế gian.
Thánh Gioan viết: “Chúng ta biết rằng
phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội; nhưng có Đấng
Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.
Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn tất cả thế gian đều nằm dưới
ách thống trị của Ác thần.” Theo Gioan, thế giới là bãi chiến trường giữa sự
thiện và sự ác; trong đó có những người thuộc về Thiên Chúa và những người thuộc
về Ác thần. Người thuộc về Thiên Chúa có thể phạm tội vì yếu đuối xác thịt;
nhưng họ luôn có ý thức về tội lỗi và muốn giao hòa cùng Thiên Chúa. Người thuộc
về Ác thần không có hay đánh mất hết ý thức về tội lỗi; họ không còn coi điều
gì là tội nữa.
2/ Phúc Âm: Tội lỗi phát xuất từ sự ghen-tị của con
người.
2.1/ Sự ghen-tị của các môn đệ của Gioan: Trình thuật kể lý do của sự ghen tị: “Sau đó, Đức
Giêsu và các môn đệ đi tới miền Judah. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm
phép rửa. Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa tại Aenon, gần Salim, vì ở
đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. Bấy giờ, có một cuộc
tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gioan và một người Do-Thái về việc
thanh tẩy. Họ đến gặp ông Gioan và nói: "Thưa thầy, người trước đây đã ở với
thầy bên kia sông Jordan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang
làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông." Gioan đã nói rõ về sự khác biệt
của 2 Phép Rửa: Phép Rửa của ông làm là Phép Rửa để tha tội; Phép Rửa của Chúa
Giêsu là Phép Rửa ban Thánh Thần. Sự tranh luận xảy ra có thể tại sao cần có 2
Phép Rửa, nhưng điều chính chi phối môn đệ của Gioan là họ ghen tị khi thấy
Chúa Giêsu được nhiều người đến với hơn thầy của họ.
2.2/ Thuốc chữa bệnh ghen-tị: Gioan Tẩy Giả cho các môn đệ và cho chúng ta 3 liều
thuốc để chữa bệnh ghen tị:
(1) Mọi hồng ân đều đến từ Thiên Chúa: Ông Gioan trả lời: "Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời
ban.” Hay nói như Thánh Phaolô: Mọi quà tặng đều đến từ một nguồn là Chúa Thánh
Thần; không phải để khoe khoang, nhưng để phục vụ. Hay nói như kiểu Phúc Âm,
Thiên Chúa càng ban tặng nhiều bao nhiêu, Ngài càng có quyền đòi lại nhiều bấy
nhiêu.
(2) Biết mình là có bình an và niềm vui: Điều làm cho con người có bình an là phải biết mình. Gioan Tẩy Giả rất
bình an vì ông biết mình và biết Đức Kitô: “Chính anh em làm chứng cho thầy là
thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước
mặt Người.” Gioan có niềm vui khi thấy nhiều người tuôn đến với Đức Kitô, vì đó
phù hợp với sứ vụ của ông. Gioan so sánh Đức Kitô với chú rể, và cô dâu là dân
chúng tin vào Đức Kitô; còn ông chỉ là người phù rể: “Ai cưới cô dâu, người ấy
là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì
được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã
trọn vẹn.”
(3) Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi: Đây là châm ngôn của Gioan và nên là kim chỉ nam cho
hết mọi người khi chúng ta phục vụ Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta cũng giống
như Gioan là dọn đường cho mọi người và chỉ cho họ đường đến với Thiên Chúa; chứ
không lợi dụng việc phục vụ Thiên Chúa để tìm lợi nhuận, nổi tiếng, và thỏa mãn
các nhu cầu của chúng ta. Khi mọi người đã tới được với Thiên Chúa, chúng ta
vui mừng vì đã hòan tất sứ vụ, và sẵn sàng để lui vào bóng tối.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Kitô đã xuống trần để cứu chúng
ta thóat khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết. Ngài đã thiết lập Bí-tích Hòa
Giải để sẵn sàng tha thứ các tội của con người.
- Con người chúng ta vẫn có thể phạm tội
vì còn mang trong người những yếu đuối và tính đam mê xác thịt. Mỗi khi đã lỡ
phạm tội trọng, chúng ta cần chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
- Điều tối nguy hiểm là chúng ta đánh
mất ý thức về tội lỗi hay tin Chúa sẽ cứu tất cả mọi người mà không cần ăn năn
xưng tội. Đây chính là thứ tội mà Thánh Gioan gọi là “tội đưa đến cái chết.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG
NẢY MẦM
Ngày
10-1
Thứ Năm sau Lễ Hiển Linh
Lc 4,14-22a
A. Hạt giống...
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại
chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang
nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương
trình hoạt động của Ngài : Với tư cách là Messia vừa được tấn
phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như
thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
B.... nẩy mầm.
1. “Thần khí Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi loan báo Tin Mừng
cho kẻ nghèo hèn”. Thời Chúa Giêsu và thời các tông đồ, những kẻ nghèo hèn quả
thực đã được nghe Tin Mừng. Nhưng những kẻ nghèo hèn thời nay có được như thế
chưa ?
2. Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn văn nghệ Giáng
sinh : một thanh niên hóa trang thành một người ăn mày để diễn nhạc cảnh
Chúa đến với người nghèo. Nhưng thanh niên này không thể nào bước lên sân khấu
được, vì khi anh tới gần đó thì bị những người trong ban trật tự đuổi đi. Họ tưởng
anh là một tên ăn mày thật, và họ sợ anh phá rối buổi trình diễn. Xét về mặt
hóa trang thì ban tổ chức văn nghệ đã thành công. Tuy nhiên xét về tinh thần
thì họ đã tự mâu thuẫn : họ muốn nói cho khán giả biết Chúa đến với người
nghèo, nhưng khi gặp người nghèo, dù chỉ là một người giả nghèo, thì họ đã xua
đuổi. Tin Mừng đã không thấm nhập vào lòng những kẻ trình diễn Tin Mừng.
3. “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18)
Một người bạn kể lại : “… Trong lớp tôi dạy, có một em bị
khuyết tật bẩm sinh : sứt môi và điếc một tai trái. Bị các bạn chế diễu,
em luôn cảm thấy bị bỏ rơi, thua thiệt. Em trở nên khép kín và xa lánh mọi người.
Một hôm, tôi cho các em được tự do đi lại trong lớp và có thể nói nhỏ vào tai bất
kỳ một người bạn nào những gì mình thích. Bi ngồi đó, không tham gia, cũng
không chờ đợi. Và chính lúc đó, tôi đã đến nói nhỏ vào tai em “Ước gì Bi là đứa
em nhỏ của cô !” Bi ngước mắt ngạc nhiên như dò hỏi “Có thật không
cô ?” Và tôi đã ôm chầm lấy em.”
Kỳ diệu thay luồng gió của Thánh Thần ! Ngài vẫn tác động
trên tâm hồn con người, ngay trên người bạn của tôi, để luôn biết cảm thông và
trao tặng… Hành vi ấy đang tiếp nối những hành vi của Chúa Giêsu, Đấng đã được
Thánh Tần thúc đẩy để đem Tin Mừng cho người nghèo khó.
Lạy Chúa, khi con đói, xin gởi đến con người cần của ăn. Khi con
cô đơn, xin gởi đến con người cần được thông cảm. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
10/01/15 THỨ BẢY SAU LỄ
HIỂN LINH
Ga 3,22-30
Ga 3,22-30
Suy niệm: Chưa bao giờ trong lịch sử Do
Thái lại xuất hiện một phong trào độc đáo như thế khi cả một quốc gia bày tỏ
lòng hoán cải, chờ mong Đấng Cứu Thế. Thử tưởng tượng dòng người từ bắc chí nam
đến với ông Gio-an, dìm mình vào dòng nước sông Gio-đan mát lạnh. Vậy mà bây
giờ dòng sông bên này trở nên lặng lẽ, thiên hạ đang đổ xô theo ông thầy Giê-su
cũng làm phép rửa ở dòng sông bên kia. Đang khi môn đệ ưu sầu, thì ông Gio-an
lại vui mừng; trong lúc học trò ghen tức, ông thầy lại hân hoan! Nếu là nhân
vật số hai, ta muốn trở thành nhân vật số một. Thế mà đang là nhân vật chính,
Gio-an lại vui lòng trở thành nhân vật phụ khi nhân vật chính xuất hiện. Ông
chấp nhận mình là người phù rể, vui mừng vì đã đưa chú rể (Đức Ki-tô) sum họp,
hạnh phúc với cô dâu (dân Chúa). Đã đến lúc ông an tâm rút lui vào hậu trường.
Mời Bạn: Giáo phận, giáo xứ, hội đoàn, hội dòng... sẽ
tốt đẹp, phát triển nếu ai ai cũng sẵn lòng đóng vai phụ, vì ý thức chỉ có một
vai chính là Đức Ki-tô. Đưa người khác đến với Chúa, chứ không đến với mình; gắn
bó với Chúa thay vì gắn kết với mình. Vui vẻ, không đố kỵ tin rằng mọi vai
chính-phụ đều có giá trị như nhau trước mặt Chúa.
Sống Lời Chúa: Tôi tập làm những công việc, những hy sinh âm
thầm, nhỏ bé, không cần ai biết vì chỉ có Chúa biết là đủ và hạnh phúc cho tôi
rồi.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giê-su, Chúa phải nổi bật lên, còn cái tôi của con phải lu mờ đi. Xin cho
con, tựa như thánh Gio-an, cảm nhận được niềm vui trọn vẹn khi đóng những vai
phụ cách xuất sắc vì chỉ có Chúa mới thật sự là vai chính trong Nước Trời.
Amen.
Mọi người đều đến với ông
Chúng ta không quên ơn Gioan, không quên sự xóa
mình của ông. Đức Giêsu được hiển linh, được nổi bật, chính vì Gioan đã chịu lu
mờ đi.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy Đức Giêsu tỏ mình
tại một nơi nào đó thuộc
vùng đất Giuđê.
Nơi đây Đức Giêsu và các môn
đệ ở với nhau, và Ngài đã làm phép rửa.
Tại một nơi khác có tên là
Ênôn, gần Salim, có lẽ thuộc vùng Samaria,
Gioan Tây Giả cũng đang làm phép
rửa
cho những người đến với ông.
Như thế ở hai nơi khác nhau,
có hai phép rửa khác nhau,
được làm bởi hai người khác
nhau.
Ta không thấy có gì khác
biệt về bản chất giữa hai phép rửa này.
Chỉ có điều là phép rửa của
Đức Giêsu thu hút được nhiều người hơn.
Các môn đệ của ông Gioan đã
nhận thấy điều đó
và họ đi báo cho Thầy Gioan
của mình một tin không vui:
“Mọi người đều đến với ông
ấy!” (c. 26).
Họ khó chịu vì Đức Giêsu,
người đã từng được Thầy của họ làm chứng,
người đã sống bên Thầy ở bên
kia sông Giođan (c. 26),
bây giờ lại nổi tiếng hơn
Thầy.
Ông Gioan lại chẳng hề khó
chịu chút nào.
Ông chưa bao giờ quên sứ
mạng của mình là làm chứng cho Đức Giêsu,
Đấng mà ông đã thấy Thần Khí
ngự xuống khi chịu phép rửa..
Gioan biết sự cao trọng của
mình nằm ở đâu:
Ông là người được Thiên Chúa
sai đến trước Đức Kitô (c. 28).
Ông không phải là chú rể,
ông chỉ là bạn của chú rể,
vì thế ông không có quyền
“có cô dâu” (c.29).
Cựu Ước coi dân Ítraen là cô
dâu (Is 62, 4-5; Gr 2, 2; Hs 2, 21).
Tân Ước coi Giáo Hội Kitô là
cô dâu (2 Cr 11, 2; Ep5, 25-27. 31-32).
Ông Gioan coi Đức Giêsu là
chú rể, và ông đứng đó nghe chàng.
Ông vui mừng hớn hở khi nghe
được tiếng nói của chàng.
Khi người ta kéo đến với Đức
Giêsu để chịu phép rửa,
thì ông Gioan biết rằng mình
đã thành công trong sứ vụ của mình,
sứ vụ làm nhịp cầu cho Dân
Chúa và Đức Giêsu Kitô gặp nhau.
Ông như reo lên vì mãn
nguyện: “Đó là niềm vui của Thầy,
niềm vui ấy bây giờ đã trọn
vẹn” (c.29).
Chúng ta không quên ơn
Gioan, không quên sự xóa mình của ông.
Đức Giêsu được hiển linh,
được nổi bật, chính vì Gioan đã chịu lu mờ đi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật
lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác
trở thành bé nhỏ.
Xin cho
con thấy Chúa thật bao la,
để cả
mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho
con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con
dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy
Chúa Giêsu,
xin làm
cho con thật mạnh mẽ,
để
không nỗi thất vọng nào
còn
chạm được tới con.
Xin làm
cho con thật đầy ắp,
để ngay
cả một ước muốn nhỏ
cũng
không còn có chỗ trong con.
Xin làm
cho con thật lặng lẽ,
để con
chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin
Chúa ngự trong con thật sống động,
để
không phải là con,
mà là
chính Ngài đang sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên
10 THÁNG GIÊNG
Aùnh Sáng Cho Các Dân Tộc
Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét
như là “người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ
Isaia, như là người được Thiên Chúa tuyển chọn và hài lòng. Trong tư cách là
người tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mạng của Người với sự dấn
thân trọn vẹn cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người nêu mẫu gương khiêm nhường trong
quan hệ với mọi người. Như vậy, Thiên Chúa đã đặt Người “như một giao ước với
con người”, “như một ánh sáng cho các dân tộc”, để đem lại ánh sáng cho người
mù và trả lại tự do cho các tù nhân.
Người tôi tớ kỳ diệu ấy của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến
để đem ơn cứu độ cho nhân loại – như được mạc khải trong nước của phép Rửa.
Trong Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu được Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở
ra, và Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Đức Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi
tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3,
17).
Giờ đây sấm ngôn xưa đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối
với tôi tớ của Ngài; Cha hài lòng về Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã
đảm nhận bản tính nhân loại. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin
Gio-an làm phép rửa cho Người trong nước. Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một
vị tiền hô của Đức Kitô, và phép rửa của Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị
cho cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia – một chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức
Giêsu, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, mới là người mang ân sủng đến
và làm phép Rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
NGÀY 10-01
1Ga 5,14-21; Ga 3,22-30.
LỜI SUY NIỆM: “Chính anh em làm chứng cho thấy là thầy đã nói: Tôi đây không
phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.”
Trong đoạn Tin Mừng này của Gioan, cho chúng ta thấy rõ Gioan Tẩy
Giả là một con người thật khiêm nhường, không đố kỵ, Thánh nhân nhận định đúng
vai trò của mình, và tích cực, ngay thẳng, làm hết sức mình trong sứ mạng, mà
đã được Thiên Chúa giao phó. Mặc cho các môn đệ của mình trách cứ, hay bị đám
đông bỏ mình đi theo Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con
khi loan báo Tin Mừng bằng lời nói, hay việc làm, với mục đích duy nhất: là giới
thiệu Chúa cho mọi người, chứ không phải để giới thiệu mình hay đánh bóng tên
tuổi của mình.
Mạnh Phương
10 Tháng Giêng
Hạt Giống
Của Hy Vọng
Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất
còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy
lâu con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau
nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng
nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra,
họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được
săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như
không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở
thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không
còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc
một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế
nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong
ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục
xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười
đáp: "Má sẽ biết khi mùa xuân đến". Và nguyên một mùa đông, ngày nào
các con của bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn.
Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức
giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào
lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm
hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền
trong tâm hồn bà.
Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết
bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày
tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ
kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó,
chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư
gửi cho các tín hữu Rôma như sau: "Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được
cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi
chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của
những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ
quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi
có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng
tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi
nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ
thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy
đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia
những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau,
phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của
niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét