LINH MỤC VÀ TÂN PHÚC ÂM HÓA GIÁO XỨ-CỘNG ĐOÀN
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN PHAN THIẾT
tại Tòa Giám Mục Phan Thiết, từ ngày 12 tới 16/01/2015
do ĐC Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng giảng thuyết
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN PHAN THIẾT
tại Tòa Giám Mục Phan Thiết, từ ngày 12 tới 16/01/2015
do ĐC Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng giảng thuyết
Trọng kính Đức Cha Giuse,
Kính thưa quý Cha và quý thày Phó tế.
Khi Đức Cha Giuse mời con đồng hành giúp quý Cha trong tuần Tĩnh Tâm Năm 2015 của Linh mục đoàn Giáo phận Phan Thiết, con đã đồng ý và từ đó suy tư để chọn lựa chủ đề cho tuần tĩnh tâm này. Với tâm tình theo hướng đi của Hội Đồng Giám Mục Việt-nam, con đã chọn lựa chủ đề Linh Mục và Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ và Cộng đoàn.
Giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định được thiết lập cách bền vững trong Giáo Hội địa phương, mà trách nhiệm mục vụ được ủy thác cho linh mục quản xứ như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền Giám mục giáo phận (GL 515 §1). Hay nói khác đi, Giáo xứ là một cộng đoàn bao gồm những người được rửa tội trong một không gian, phạm vi cụ thể. Như thế, nói đến giáo xứ là nói đến cả một thực thể sống động bao gồm tất cả mọi thành phần thuộc về nó. Cụ thể, với bầu khí tĩnh tâm năm của Linh mục đoàn trong năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ-Cộng đoàn, nói đến giáo xứ là nói đến linh mục và các anh chị em giáo dân, theo một khuôn mẫu thân thuộc với chúng ta.
Bên cạnh đó, trong tư cách là linh mục phục vụ giáo xứ, trong năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ này, chúng ta được mời gọi tái khám phá, làm tươi trẻ lại dung mạo của giáo xứ đúng theo ý muốn của Đức Kitô khi Ngài thiết lập Hội Thánh là cộng đoàn các môn đệ, cộng đoàn những người được sai đi.
Như vậy, thời gian ân sủng của những ngày tĩnh tâm này, chúng ta hãy đọc lại một vài giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến giáo xứ và những thành phần thuộc về nó. Để làm gì? Thưa, để có thể trả lại đúng dung mạo của giáo xứ, chúng ta cần phải tìm biết dung mạo của giáo xứ được Giáo Hội nói đến như thế nào.
Nói như thư chung của HĐGMVN 2014, Tân Phúc Âm hóa giáo xứ trong năm nay có nghĩa là giáo xứ cần được thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân. Tại sao lại cần làm cho tinh thần Phúc Âm phải thấm đượm giáo xứ? Phải chăng thật là mâu thuẫn khi giáo xứ, một cộng đoàn của dân Thiên Chúa, lại cần phải thấm đượm tinh thần Phúc Âm, vì tự thân, giáo xứ phải là như thế, tinh thần Phúc Âm phải tràn ngập nơi giáo xứ chứ?
Khiêm tốn nhìn nhận, chúng ta thấy rằng, các giáo xứ theo thời gian và trào lưu cuộc sống, diện mạo của giáo xứ đang bị bám bụi, đang bị lấm lem và có những vết bẩn. Do đó, năm phụng vụ 2015 đối với Giáo Hội Việt Nam là thời điểm mời gọi canh thân, thời điểm trở về nguồn của các giáo xứ.
Tuy nhiên, bất cứ một sự thay đổi, canh tân nào trong một nhóm, tổ chức, cộng đoàn nào cũng phải có người lãnh đạo, có người khởi xướng, thực hiện. Thông thường, người lãnh đạo, khởi xướng đó là người đứng đầu trong cộng đoàn, trong tổ chức, trong nhóm đó. Như vậy, chúng ta có thể nói với nhau rằng, để giáo xứ có thể được Tân Phúc Âm Hóa, các cha xứ nói riêng, các linh mục nói chung, phải là người cầm đầu, người lãnh đạo, phải là tác nhân thúc đẩy quá trình Tân Phúc Âm hóa trong sự cộng tác với ơn của Chúa Thánh Thần – Đấng là tác nhân chính.
Vì thế, để đạt đến mục tiêu “tái khám phá lại dung mạo của giáo xứ để có thể Tân Phúc Âm Hóa giáo xứ (có nghĩa là Phúc Âm Hóa cả linh mục và mọi thành phần khác trong giáo xứ)”, những bài chia sẻ trong tuần tĩnh tâm này, chúng ta sẽ bước đi theo một tiến trình như sau:
Trước tiên, nối tiếp năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình, chúng ta cùng đọc lại lời giáo huấn của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II về gia đình trong tông huấn Christifideles Laici với chủ đề “Giáo xứ - Mái ấm gia đình”.
Thứ hai, gia đình giáo xứ phải là một “Căn nhà của Lời” theo sứ điệp hậu THĐGM lần thứ 12 về Lời Chúa và tông huấn Verbum Domini của ĐTC Benedicto XVI.
Theo sau giáo huấn của hai ĐGH (Gioan Phaolô II và Benedicto XVI), chúng ta hãy đọc những thách đố của thế giới ngày nay của ĐTC Phanxico, Đức Giáo Hoàng đương nhiệm của chúng ta, trong sự soi chiếu về giáo xứ.
Sau ba bài suy tư về giáo xứ theo nhãn quan của ba vị Giáo Hoàng, trong bài thứ tư, chúng ta, trong tư cách là các linh mục, những người lãnh đạo cộng đoàn giáo xứ, nhìn lại quyền lợi và sự cộng tác của người giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội nói chung và của Giáo xứ nói riêng đã được đáp ứng và thực hiện ra sao.
Hai bài cuối cùng (bài năm và bài sáu) là hai bài xoay quanh việc dấn thân phục vụ trong tinh thần đức ái (bài năm) và các nẻo đường phục vụ mới của giáo xứ.
Ước chi, những góp nhặt này có thể mang lại cho quý cha một chút gì đó cho đời sống linh mục là hiện thân của Chúa Kitô cho dân Ngài, và góp phần làm cho hành trình Tân Phúc Âm hóa cộng đoàn giáo xứ nơi quý cha phục vụ đạt được những thành quả tích cực theo tinh thần mà Hội Đồng Giám Mục Việt-nam mời gọi cho Năm Phụng Vụ B này.
Bài 1: GIÁO XỨ - MÁI ẤM GIA ĐÌNH (Christifideles Laici)
Tin mừng Luca (Lc 2:51-52): “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Ðức Giêsu, ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.”
I. Giáo xứ - mái ấm gia đình
Gia đình luôn là hình ảnh thân thương và vô cùng gần gũi đối với mỗi người chúng ta. Trừ những trường hợp cá biệt, ai trong chúng ta cũng có những kỷ niệm, những ký ức, những hình ảnh thật đẹp về gia đình. Đó là khung cảnh cả gia đình quây quần bên mâm cơm; giây phút ngồi trao đổi, thưa chuyện cách đầm ấm; những khoảnh khắc chúng ta vui chơi, đùa giỡn với anh chị em, bè bạn, cha mẹ hay những người thân khác trong gia đình.
Đoạn Tin Mừng Luca chúng ta vừa nghe cũng cho chúng ta thấy hình ảnh một gia đình thật đẹp, thật hạnh phúc và thánh thiêng. “Vợ chồng thuận thảo, con cái ngày một ngoan hiền, tình làng nghĩa xóm đề huề” đi đôi với tâm tình luôn hướng về Thiên Chúa càng làm cho gia đình Giêsu-Maria-Giuse thật bình dị và ấm áp. Như vậy, nếu xét từ góc độ này, hai tiêu chuẩn làm cho một gia đình trở nên một mái ấm thật sự đó chính là sự tôn trọng, sự vâng phục thảo hiếu và ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa (cầu nguyện, suy niệm).
Gia đình là mái ấm mà trong đó mọi thành viên tôn trọng và yêu mến nhau. Hình ảnh gia đình Nazareth cho chúng ta thấy được sự thảo hiếu vâng phục của đứa con trong gia đình đối với người cha, người mẹ trong gia đình. Kinh Thánh còn nói tiếp, đứa trẻ ngày càng cao lớn, không chỉ càng có thêm ân nghĩa với Thiên Chúa mà còn có thêm ân nghĩa với người ta. Kinh thánh không kể gì thêm cho chúng ta về cuộc sống của gia đình Nazareth, ngoại trừ những gì chúng ta vừa đọc. Chúng ta không biết Giuse và Maria nói với nhau những điều gì, có tranh cãi với nhau về một chủ đề nào đó hay không? Nhưng người ta vẫn thường nói: “xem quả thì biết cây”. Như vậy, gia đình có một người con hiếu thuận, ân nghĩa với mọi người chung quanh đa phần, gia đình đó phải là một gia đình gương mẫu, một gia đình nề nếp. Hơn nữa, Kinh thánh cũng nói cho chúng ta “Đức Maria hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” tất cả mọi biến cố xảy ra; thánh Giuse sau khi được sứ thần báo mộng, ngài đã đón nhận Đức Maria về nhà mình. Thật đẹp thái độ và hành động của hai con người; thái độ và hình ảnh của hai con người luôn sẵn sàng mở lòng mình ra để đón nhận thánh ý Thiên Chúa, đón nhận những người thân trong gia đình, những người đi qua cuộc đời mình. Vậy thì còn nói gì nữa, chúng ta phải nói rằng, gia đình Giêsu-Maria-Giuse phải là một gia đình trên thuận dưới hòa, con cái thảo hiếu. Vâng, đó chính là một mái ấm.
Gia đình là mái ấm mà trong đó ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa luôn chi phối tất cả mọi hoạt động của các thành viên. Thánh Giuse được trình bày một cách mờ nhạt trong đời sống gia đình Nazareth. Kinh Thánh không trình thuật lại bất cứ một lời nói nào của ngài, ngoại trừ một vài những trắc ẩn, những nghi vấn và một vài thái độ, hành động của ngài mà thôi. Và như chúng ta vừa đề cập, thánh Giuse hoàn toàn làm theo thánh ý Thiên Chúa, chu toàn trách vụ là cha nuôi của Con Thiên Chúa; Đức Maria luôn ghi khắc mọi sự trong lòng; còn trẻ Giêsu ngày cảng thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa. Cho nên, gia đình thánh gia luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa chi phối mọi hoạt động của các thành viên trong gia đình Nazareth.
Số 15 của tông huấn Familiaris Consortio còn mở cho chúng ta một sứ vụ to lớn hơn của gia đình, đó là sứ vụ đưa mỗi người vào trong một gia đình rộng lớn hơn, đó là “gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa” từ những tương quan cụ thể và thường ngày của đời sống gia đình. Hóa ra, gia đình là một mái ấm không chỉ bó gọn trong chính nó, nhưng mái ấm đó còn phải đưa dẫn mọi thành viên đến với những cá nhân khác ở ngoài gia đình riêng của mình, và đặc biệt là đến được với Thiên Chúa.
Như vậy, với lăng kính giáo xứ là một gia đình, chúng ta – những linh mục – chúng ta nghĩ gì?
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng chúng ta cũng có một gia đình: gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận. Từ đó, chúng ta thử nhìn lại về gia đình giáo xứ của chúng ta có thực sự là mái ấm tràn ngập tình yêu, sự tôn trọng và thánh ý Thiên Chúa luôn là mối bận tâm của mọi thành viên không?
Rồi với tư cách là những người đứng đầu, phục vụ cộng đoàn, chúng ta hãy xét mình, chúng ta đã làm cho giáo xứ chúng ta trở nên mái ấm? Nếu chúng ta đã làm được, vậy chúng ta hãy tự kể cho chính mình những gì chúng ta đã làm để có thể kiến tạo gia đình giáo xứ trở thành một mái ấm? Còn nếu giáo xứ chưa thực sự là mái ấm, chúng ta có nhìn ra được đâu là những vấn đề làm ngáng trở cho giáo xứ trở thành mái ấm cho mọi người? Chúng ta sẽ giải quyết ra sao đối với những ngáng trở đó?
Tương tự, chúng ta cũng hãy duyệt xét chúng ta đã, đang và sẽ phải làm gì để có thể đưa từng người, từng cá nhân một và ngay cả chính bản thân mình trong mái ấm đó đi vào được những gia đình rộng lớn hơn (“gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa”)?
Thực tế cuộc sống cho thấy có những gia đình không hạnh phúc, không thấy được tình yêu thương ngự trị,…; gia đình đó không là một gia đình thực sự, không là một mái ấm theo nghĩa của nó. Tương tự, đời sống Giáo Hội, giáo phận, giáo xứ cho chúng ta một số cộng đoàn cũng không có được “trong ấm ngoài êm”. Điều đó cho thấy đời sống giáo xứ vẫn còn đó một vài điểm tối. Và là người lãnh nhận trách nhiệm phục vụ, dù có nỗ lực, có cố gắng nhiều nhưng chúng ta phải thú nhận rằng, chúng ta còn thiếu sót, chưa làm tròn bổn phận mà chúng ta đã tự nguyện đảm nhận (những lời cam kết trước khi lãnh nhận chức thánh).
II. Giáo xứ - gia đình hiệp thông
Một khía cạnh khác nói lên “giáo xứ là mái ấm” chính là chiều kích hiệp thông.
Chúng ta nhận thấy rằng, hiệp thông không phải là một thứ có sẵn, hiện diện cách mặc nhiên trong đời sống tập thể, đời sống cộng đoàn. Nó là một “kết quả” được tạo nên từ thái độ và hành động của mỗi phần tử trong tập thể, cộng đoàn đó. Chỉ cần một phần tử, một thành viên trong nhóm, trong cộng đoàn đó không sống giá trị hiệp thông, cộng đoàn đó, nhóm đó chưa là một mái ấm, chưa là một gia đình hiệp thông.
Thế nên, sự hiệp thông luôn là một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ một cộng đoàn, một nhóm nào. Đặc biệt hơn, trong đời sống đức tin của chúng ta, hiệp thông không chỉ là một yếu tố không thể thiếu, nếu có thể nói cách mạnh mẽ rằng nó là bản chất của cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta xác tín chính Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa, đã nói cho chúng ta biết nguồn cội sự hiệp thông mà chúng ta cần phải có trong bất cứ đời sống cộng đoàn nào, được khởi đi từ chính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi. Hay nói rõ hơn, sự hiệp thông mà chúng ta cần có trong đời sống giáo xứ phải khuôn đúc theo sự hiệp thông của Ba Ngôi.
Lần mở lại những trang Tin Mừng, chúng ta thấy tất cả mọi hoạt động của Đức Giêsu đều kết hiệp với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (biến cố chịu phép rửa ở sông Giođan, đi vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, tuyển chọn các môn đệ, …), hay nói khác đi, ý định cứu độ tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, cho nên tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa đều có hình ảnh của Ba Ngôi, cả ba cùng hoạt động trong một kế hoạch duy nhất. Đây chính là nguồn cội cho sự hiệp thông của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận và cho cả toàn thể Giáo Hội.
Vì vậy, mỗi người Kitô hữu nói chung, mỗi cộng đoàn giáo phận, giáo xứ nói riêng, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Ba Ngôi. Đó là thái độ, tinh thần hiệp thông. Bởi chưng, được tháp nhập vào cây nho thật là Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy, được nuôi dưỡng, trở nên một Thân Mình với Đức Kitô, chúng ta phải sống sự hiệp thông với Chúa và anh em. Điều này ta có thể thấy được chính những tín hữu của cộng đoàn Giáo Hội sơ khai đã nêu gương cho chúng ta: "Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau […]. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ" (Cv 2:44-46).
Quả thật, cộng đoàn Giáo Hội sơ khai đã cho chúng ta một khuôn mẫu cụ thể hơn về sự hiệp thông của cộng đoàn, của giáo xứ, của giáo phận.
Trước tiên, đó là một cộng đoàn hợp nhất, đồng tâm nhất trí với nhau. Đây là một điều không dễ đối với chúng ta. Dễ dàng gì chúng ta có được một cộng đoàn, một giáo xứ, một giáo phận hoàn toàn hợp nhất với nhau, hoàn toàn cùng một lòng một chí. Bởi nơi giáo xứ trong đời sống giáo phận, có những chuyện chia rẽ, những lời nói, thái độ, hành động gây mất tình đoàn kết, hiệp thông, những chống đối “nổi” cũng như “chìm” vẫn diễn ra. Ngay trong cộng đoàn Giáo Hội sơ khai, được xem là cộng đoàn hiệp nhất, đồng tâm nhất chí với nhau, vẫn còn có những điều tiêu cực, những con người sống không chân thành (vợ chồng ông bà Khanania và Xaphira – Cv 5:1-11 – giấu bớt số tiền bán đất), hoặc không công bằng với các bà góa.
Tuy sự hiệp thông không dễ có nhưng không phải là không thể được. Chúng ta có thể khám phá ra một giá đỡ cho sự hiệp thông của cộng đoàn đầu tiên. Giá đỡ đó là sự cầu nguyện, là việc cùng nhau quy tụ để cử hành lễ bẻ bánh.
Thì ra, chính đời sống thiêng liêng, đời sống cầu nguyện là một trong những tác nhân vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên và duy trì sự hiệp thông. Như thế, sự ấm áp, yêu thương, sự hiệp thông nơi gia đình giáo xứ phải được củng cố nơi nguồn mạch của nó chính là việc cử hành lễ bẻ bánh, Hy Tế Thánh Thể. Vì chưng, trong Hy Tế Thánh Thể, chúng ta cử hành, chúng ta sống giá trị của sự tự hiến, trao ban và hiệp nhất.
Sự quy tụ với nhau trong một ngôi thánh đường, cử hành một giờ cầu nguyện, cử hành Thánh Thể là một dấu chỉ hữu hình cho thấy sự hiệp thông, sự hiệp nhất của gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận. Hay ngay giây phút này đây, trong những ngày ân sủng này đây, anh em linh mục trong toàn giáo phận quy tụ về mái nhà chung, quy tụ bên Đức Giám Mục – người cha, người thầy, người anh em của mình – cũng là một dấu chỉ nói lên sự hiệp thông trong đời sống gia đình giáo phận.
Hơn nữa, không chỉ quy tụ để cử hành, chúng ta còn sống Hy Tế Thánh Thể. Chính việc sống Hy Tế Thánh Thể bộc lộ triệt để hơn giá trị của sự hiệp thông. Đó là một sự hiệp thông của tình yêu, của sự trao ban, của sự tự hiến. Sau khi cử hành Thánh Thể trong ngôi thánh đường, mọi thành viên trong gia đình giáo xứ cử hành Thánh Thể nơi gia đình, nơi môi trường sống của mình khi chấp nhận tự hủy, chấp nhận mất mát, chấp nhận hy sinh vì lợi ích, vì phần rỗi của những người chung quanh.
Câu hỏi được đặt ra: cộng đoàn nơi chúng ta đang sống – giáo xứ, giáo phận - tinh thần hiệp thông ra sao? Trong gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận, liệu chúng ta có như các tín hữu sơ khai là hợp nhất với nhau? Hy tế Thánh Thể chúng ta, những linh mục đóng vai trò chủ sự, đã được cử hành và sống như thế nào?
Trong tình gia đình, trong tinh thần thẳng thắn và khiêm nhường, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta ít nhiều cũng mang lấy nơi mình men Pharisiêu, men biệt phái. Nhiều khi chúng ta nói, chúng ta cử hành nhưng chúng ta chưa sống bao nhiêu. Đáng ra trong vai trò là người đứng đầu, là người chủ sự cử hành Thánh Thể, chúng ta phải trở nên Thánh Thể. Nghĩa là, chúng ta phải thực hiện sự nối kết, quy tụ, hiệp nhất, trao ban, tự hiến. Thế nhưng, nhiều lúc, chính chúng ta là những người gây sự chia rẽ, phân biệt, loại trừ, chống đối. Nếu như thế, hóa ra Thánh Thể lại tự mâu thuẫn sao? Không, Thánh Thể không bao giờ mâu thuẫn tự nội, không bao giờ đi ngược và tự phá hủy chân giá trị của mình. Những tiêu cực xảy ra là do chính bản thân mỗi người chúng ta đã không thực thi, đã không sống đúng với giá trị Thánh Thể mà đích thân mình cử hành. Đây là một sự nhắc nhớ cho linh mục chúng ta. Chúng ta hãy cử hành và hãy sống những gì chúng ta cử hành. Ở đây, tôi mời gọi anh em hãy nhớ lại lời khuyến dụ trong ngày thụ phong phó tế “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy” cũng như trong ngày chịu chức linh mục “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thánh giá Chúa”.
Vì vậy, sự hiệp thông bao hàm những mối tương quan sinh động và cụ thể. Trong hiệp thông, mọi thành viên sống tinh thần liên đới và chia sẻ không chỉ với nhau về mọi khía cạnh của cuộc sống nhưng còn mở rộng tình liên đới và chia sẻ đó cho những người không thuộc về gia đình giáo xứ của mình. Nói khác đi, hiệp thông là đồng trách nhiệm và bác ái. Để là mái ấm, giáo xứ phải có tinh thần huynh đệ, đồng trách nhiệm, bác ái và rộng mở.
Chiều kích Huynh đệ: Cùng quy hướng về sứ mạng mà Đức Giêsu để lại, tất cả các thành viên trong gia đình giáo xứ cộng tác với nhau trong tinh thần hiệp thông và đồng trách nhiệm. Đích nhắm chỉ đạt được khi mọi đoàn thể, tất cả các thành viên đều đồng tâm nhất chí với nhau. Vì vậy, tinh thần huynh đệ, sự hiệp thông và việc cảm thông, tha thứ liên tục phải là dưỡng khí cho mọi hoạt động, mọi sự cộng tác của các thành viên trong gia đình giáo xứ.
Chiều kích Rộng mở: Sự rộng mở đó không chỉ bao hàm sự cởi mở, ân cần và vui tươi đón tiếp mọi người, nhưng nó còn bao hàm cả một sự tôn trọng và đón nhận sự cộng tác của tất cả những ai muốn cộng tác và dấn thân cho việc mục vụ và sự thăng tiến của giáo xứ, của cộng đoàn. Hơn nữa, sự rộng mở còn mang yếu tố toàn diện. Nó là một sự dàn trãi, rộng mở cho tất cả mọi đối tượng thuộc mọi giới, lứa tuổi hay trình độ. Bởi vì, đặc tính rộng mở của gia đình giáo xứ được bắt nguồn từ khuôn mẫu Ba Ngôi.
Nói đến việc rộng mở, tôi nhớ đến lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: “tôi muốn cánh cửa nhà thờ lúc nào cũng phải luôn rộng mở” (EG, số 47). Đối với tôi, sự rộng mở cánh cửa của nhà thờ bao hàm hai ý tưởng: chào đón mọi người và đón nhận sự cộng tác.
Cánh cửa luôn rộng mở để mọi người có thể đến với ngôi nhà của Chúa, ngôi nhà chung. Chúng ta nghĩ gì khi người giáo dân được mời gọi đóng góp, đóng góp và đóng góp để xây dựng ngôi thánh đường, ngôi nhà xứ; nhưng khi đã hoàn thành, ngôi nhà thờ, nhà xứ đó lại được cửa đóng then cài. Dĩ nhiên, cũng có những lý do về an ninh, về gìn giữ của cải chung. Nhưng liệu có công bằng hay không khi chúng ta nói nhà thờ, nhà xứ là của giáo dân (và đúng là như vậy, nhà Chúa là nhà của dân Người, là nơi quy tụ và diễn ra mọi hoạt động – hãy đọc lại diễn tiến cuộc xuất hành, Hòm bia TC – chính là TC – luôn ở giữa dân Người, họ cầu nguyện, dâng hy lễ, ca hát nhảy múa trước Hòm bia TC), chúng ta lại khó khăn, lại khó chịu vì không muốn bị làm phiền bởi giấc ngủ, vì sự ồn ào, bởi sợ mất thời gian, … Có một số giáo xứ, nhà thờ đã trở thành một cơ quan hành chính, linh mục đã trở nên một công chức vì quy định giờ giấc làm việc, giờ giấc tiếp giáo dân một cách cứng ngắt và lạnh lùng; nhà thờ, nhà xứ trở nên một lãnh địa, một thế giới riêng của cha mà không một ai được phép xâm phạm. Đức Hồng Y Bergolio khi chưa là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từng nói: “Hãy mở cánh cửa cho người nghèo, vì nguy cơ lớn nhất... là khi cánh cửa nội tâm bị đóng kín với những tư lợi, thì không còn chỗ cho người khác nữa, những người nghèo không thể vào được nữa, người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa..., tim họ không còn đập những nhịp nhiệt thành để làm việc thiện nữa…”
Cánh cửa luôn rộng mở còn bao hàm một sự mời gọi và đón nhận sự cộng tác của tất cả mọi thành phần: tuổi tác, học vấn, đức tin, những người thuộc về giáo xứ hay ngoài giáo xứ, …
Mục tiêu cần mời gọi mọi thành phần trong giáo xứ cùng cộng tác đạt tới: “Tất cả chúng ta thi hành sứ vụ cách mới mẻ, bằng nhiệt tình mới, năng lực mới và phương pháp mới.” (Thư Mục vụ HDGMVN, số 3).
Bài 2: GIÁO XỨ - CĂN NHÀ CỦA LỜI
(Sứ điệp hậu THĐGM 12 – Lời Chúa)
Tin mừng Gioan (Ga 1:1-5): “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.”
I. Giáo xứ - Căn nhà của Lời (x. Sứ điệp hậu THĐGM 12 – Lời Chúa)
1. Thiên Chúa đến nhà của Ngài
Trong ngày đại lễ Giáng Sinh, bài Phúc Âm của lễ ban ngày được trích trong Tin Mừng Gioan – đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Đoạn Tin Mừng này muốn khẳng định cho chúng ta về nguồn gốc sâu xa của Đức Giêsu. Đó là việc Người là “Lời” của Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa. Khởi điểm của toàn thể lịch sử là Thiên Chúa. Qua Lời của Thiên Chúa, mọi sự được hiện hữu, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.” (Ga 1:1-3).
Thánh Phaolô giải thích và nói cụ thể hơn cho chúng ta về phương diện mọi sự được tạo thành nhờ, qua và trong Đức Giêsu Kitô và quy hướng về Người. Đó là Cha tạo dựng qua Đức Kitô; nhờ Đức Kitô, chúng ta hiện hữu là quy hướng về Cha, về Đức Kitô, trở nên như Đức Kitô.
- Chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Ðấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu. (1Cr 8:6)
- Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình và vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. (Cl 1:16)
- Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Ðấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1:2)
Như thế, khi Nhập Thể và Nhập Thế, Đức Giêsu Kitô – Lời của Thiên Chúa và là Thiên Chúa – đã đi vào nhà của Người. Người đi vào gia đình của mình, không phải đi vào một nơi xa lạ, đất khách quê người.
2. Giáo xứ - Căn nhà của Lời
Ngôi Lời đã mặc lấy tính đặc thù của con người khi Người nhập thể và đi vào trong một gia đình nhân loại cụ thể, khởi đầu cho một câu truyện, một lịch sử về con người mang tên là Giêsu trong một nơi chốn, thời gian và nét văn hóa đặc thù. Giáo Hội – thực thể được Đức Giêsu thiết lập – cũng vậy. Giáo Hội được nhập thể trong một không gian và thời gian. Để chính trong bối cảnh cụ thể đó, Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình. Tương tự thế, giáo xứ - tế bào của Giáo Hội - cũng phải là căn nhà của Lời. Bởi chưng, được quy tụ gồm những con người cụ thể, trong một nơi chốn đặc thù, giáo xứ trở nên mái nhà của Thiên Chúa, hay đúng hơn, trong giáo xứ, con người được sống với Thiên Chúa.
Kế đến, trong lăng kính của việc đón nhận Lời, chúng ta thấy rằng Giáo Hội như là một thực thể được xác định qua việc đón nhận Lời – lắng nghe liên lỉ và công bố Lời Thiên Chúa không ngừng. Lời Thiên Chúa là nguồn sinh dưỡng cho tất cả mọi khía cạnh sự sống của Giáo Hội. Thu nhỏ lại, giáo xứ cũng phải như vậy. Giáo xứ, căn nhà của Thiên Chúa, cũng phải là tập hợp những con người không ngừng đón nhận Lời Thiên Chúa, hầu làm cho sự sống nơi mình ngày càng tràn đầy nhựa sống.
Ở đây, lời của Tông huấn Verbum Domini đang vang vọng lên cho mỗi người chúng ta khi chúng ta suy tư về việc Giáo Hội nói chung và Giáo xứ nói riêng – căn nhà của Thiên Chúa – trong việc đón nhận Lời:
- "Người đã đến nhà mình" (Ga 1:11) nhưng "người nhà" "đã không chịu đón nhận" Người (Ga 1:11). Không đón nhận Lời có nghĩa là không lắng nghe tiếng của Lời, không sống phù hợp với Logos. Ngược lại, nơi nào con người, dù mỏng giòn và tội lỗi, chân thành mở ra gặp gỡ Đức Kitô, thì nơi ấy bắt đầu xuất hiện một sự thay đổi tận căn: "còn những ai đón nhận thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Ga 1:12). Đón nhận Ngôi Lời có nghĩa là để cho Người uốn nắn để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, với "Con một đến từ Chúa Cha" (Ga 1:13) nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đó là khởi đầu cho một cuộc tạo thành mới. (VD 50)
- Giáo Hội là một cộng đoàn lắng nghe và công bố Lời Thiên Chúa. Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng và, từ Tin Mừng này, Giáo Hội vẫn lại luôn luôn rút ra được một định hướng cho hành trình của mình. Đây là một nhận định mà mọi Kitô hữu phải đón nhận và áp dụng cho chính mình: chỉ người nào đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời thì mới có thể trở thành kẻ loan báo". ( VD 51)
II. Vai trò “chủ nhà” của Lời
Giáo xứ là căn nhà của Lời, có nghĩa Lời chính là chủ nhà và tất cả mọi khía cạnh của căn nhà đó phải thể hiện, phải phản ánh dung mạo của Lời.
1. “Lời” chi phối mọi hoạt động
Trong một gia đình, những ý muốn, mệnh lệnh hay yêu cầu của người đứng đầu luôn phải được tôn trọng và tuân phục. Sự tôn trọng và tuân phục thể hiện tấm lòng yêu mến, thảo kính với người trên. Hơn nữa, trong ngôi nhà của Ngôi Lời, trong gia đình của Thiên Chúa, điều này càng phải được thực hiện một cách nghiêm túc, trọn vẹn và ngay lập tức. Bởi vì, tất cả những gì chúng ta có (sự hiện hữu, được quy tụ trong gia đình Thiên Chúa) là ân sủng, là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa tặng ban: “Trước tình thương chan chứa của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi mở rộng lòng, “vâng phục” trước tình yêu bao la đó. Đó là một lời đáp trả tự do của con cái đối với Cha. Vì con người được mời gọi nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô, Con Chí Ái của Ngài.”(VD 22)
Cho nên, toàn bộ đời sống của Giáo Hội, của Giáo xứ, của từng cá nhân phải trở nên, phải luôn là một chuỗi những lời đối thoại không ngừng với Thiên Chúa vì cuộc sống con người chúng ta phải dọi chiếu vào những lời mời gọi của Ngài. (x.VD 24) Như thế, Lời Thiên Chúa phải là quy luật cho đời sống đức tin và đời sống luân lý của chúng ta (x. LG 15):
- Kinh Thánh là một quy luật khách quan tối thượng cho đời sống đức tin. Vì Thiên Chúa nói với chúng ta qua Thánh Kinh và Thiên Chúa không thay đổi. (DV 1; VD 18)
- Thánh Kinh truyền lại cho chúng ta những gì Đức Giêsu nói, hành động. Đồng thời, luân lý không gì khác hơn là bắt chước giống Đức Kitô. Vì cội rễ của tội lỗi là khước từ Thiên Chúa. (x. VD 26)
2. Giáo xứ “sống” Lời
Nét đặc trưng, cụ thể nhất mà người ta thường nói đến giáo xứ chính là việc cử hành phụng vụ. Tuy nhiên, giáo huấn Giáo Hội cũng dạy chúng ta rằng “Phụng vụ là môi trường đặc trưng để Thiên Chúa nói trong đời sống hiện tại của chúng ta, là nơi hôm nay Thiên Chúa đang nói với dân của Ngài và dân đang lắng nghe và đáp trả”. (VD 52). Như thế, giáo xứ “sống” Lời cũng có nghĩa là giáo xứ đang liên lỉ thực hiện các hành động nối tiếp nhau như một vòng trôn ốc của sự “lắng nghe – cử hành phụng vụ – cử hành đời sống – lắng nghe” trong chính thực tại hằng ngày của giáo xứ, rõ hơn là của tất cả mọi thành viên trong giáo xứ.
2.1. Lắng nghe
Đây là bước đầu tiên trong việc “sống” Lời. Tuy là bước đầu tiên nhưng nói lại là bước vô cùng quan trọng. Nó quan trọng vì Lời luôn vang vọng, luôn ngỏ với con người và mời gọi con người đón nhận qua tất cả mọi biến cố, mọi giây phút và cách đặc biệt qua chính Lời nhập thể nơi cuốn sách – Kinh Thánh. Bên cạnh đó, sự lắng nghe đòi buộc người nghe phải tập trung để nghe và có một dự thế nội tâm là sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Lời đang ngỏ với. Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng "đức tin đến từ việc lắng nghe và lắng nghe ở đây là nghe Lời Chúa" (Rm 10:17). Đồng thời, việc lắng nghe này không chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng nó còn phải mang chiều kích của cộng đoàn được quy tụ để đón nhận Lời. Bởi lẽ, Lời Cứu Độ không mang chiều kích cá nhân nhưng mang tính cách cộng đoàn.
2.2. Cử hành Phụng Vụ
Hiến chế Phụng Vụ thánh Sacrosanctum Concilium số 52 viết “Phụng Vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội”. Còn trong tông huấn Verbum Domini số 52, ĐTC Benedicto XVI nói với chúng ta rằng “tự bản chất, mọi hành động phụng vụ (bí tích, thánh lễ, các giờ kinh phụng vụ…) đều được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh”.
Như vậy, trong khi cử hành Phụng Vụ, giáo xứ đang “sống” Lời trên phương diện kín múc nguồn ân sủng được tuôn tràn trên nhân loại qua các hành động phụng vụ:
- Người ta thấy khoa sư phạm khôn ngoan của Giáo Hội khi theo nhịp điệu của năm phụng vụ mà công bố và lắng nghe Kinh Thánh. Sự dàn trải của Lời Thiên Chúa trong thời gian được thể hiện một cách đặc biệt trong việc cử hành Thánh Thể và trong Phụng Vụ các Giờ Kinh. Ở trung tâm của tất cả, Mầu nhiệm Vượt Qua chói sáng và gắn liền với mầu nhiệm ấy là tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô và của lịch sử cứu độ được hiện tại hóa theo cách bí tích: "Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc". (VD 52)
- Trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính trình diễn (performatif, trình bày-và-thực-hiện) của Lời […] Trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời đang thực hiện điều Lời nói. (VD 53)
- Điều xảy ra hằng ngày trong các thánh đường của chúng ta: tiếp nối bài giảng của Chúa Giêsu về Môisê và các ngôn sứ, là việc Bẻ Bánh Thánh Thể tại bàn ăn. Ðó chính là lúc đối thoại thân tình của Thiên Chúa với dân của Ngài, là hành vi giao ước mới được ký kết trong máu Chúa Kitô (x. Lc 22:20), là công trình tột đỉnh của Ngôi Lời, Ðấng hiến mình làm lương thực trong thân thể chịu hiến tế, là nguồn mạch và là tột đỉnh đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. […] Vì vậy, cần phải đưa trở lại vị trí trung tâm đời sống Kitô giáo "phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, vốn được liên kết chặt chẽ với nhau đến độ họp thành một hành vi thờ phượng duy nhất " (SC 56) (Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 8).
- Lời và Thánh Thể liên kết mật thiết với nhau đến độ không thể hiểu cái này mà không có cái kia … Giáo Hội đã không bao giờ ngừng cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô bằng cách họp nhau để "đọc trong tất cả Sách Thánh những gì liên quan đến Người" (Lc 24:27) và để thực hiện công trình cứu độ nhờ việc tưởng niệm Đức Chúa và nhờ các Bí tích". (VD 55)
- Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa và không ngừng lấy bánh ban sự sống từ tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể để ban phát các tín hữu (DV 21).
- Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng. Không phải của ăn Thánh Thể biến thành chúng ta, nhưng chính chúng ta được biến đổi cách mầu nhiệm bởi Thánh Thể. Đức Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng cách nối kết chúng ta với Người; “Người lôi kéo chúng ta đến với Người". Việc cử hành Thánh Thể, với tất cả sức mạnh của mình, tỏ hiện như là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, vì nó đồng thời vừa là khởi đầu vừa là hoàn bị phượng tự mới và tối hậu (Sacramentum Caritatis, 70)
2.3. Cử hành đời sống
Từ việc cử hành phụng vụ, đón nhận, kín múc ân sủng, giáo xứ được mời gọi đi đến bước thứ ba là cử hành đời sống. Nếu việc cử hành phụng vụ được thực hiện trong nhà thờ, nhà nguyện, việc cử hành đời sống này được cử hành trong chính bối cảnh sống của mỗi thành viên trong giáo xứ và của giáo xứ. Tông huấn Sacramentum Caritatis nhắc nhớ:
- Các tín hữu “được đào tạo bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi hàn tiệc Mình Chúa, họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với Ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Đức Kitô, Đấng Trung Gian, họ được cuốn hút vào trong tình liên đới với Thiên Chúa và với nhau. (số 52)
- Thánh Thể, hy lễ của Đức Kitô, cũng là hy lễ của Hội Thánh, và như thế là của mọi tín hữu. (Sacramentum Caritatis, 70)
Vì vậy, việc cử hành đời sống chính là "sự hiệp thông huynh đệ, một danh xưng khác của từ agápe, nghĩa là tình yêu Kitô. Như Chúa Giêsu nhắc nhớ, để trở thành anh chị em của Ngài, thì cần phải là "những người lắng nghe Lời Chúa và mang ra thực hành" (Lc 8:21). Lắng nghe đích thực chính là vâng lời và hành động, là làm cho công lý và tình thương nảy sinh trong cuộc sống, là làm chứng tá trong cuộc sống và trong xã hội theo đường hướng tiếng gọi của các ngôn sứ, liên tục nối kết Lời Chúa với cuộc sống, niềm tin và sự ngay chính, việc phụng tự và sự dấn thân xã hội. Ðó là điều Chúa Giêsu đã nhiều lần lập lại, từ lời nhắn nhủ nổi tiếng trong Bài Giảng trên núi: "Không phải kẻ nói rằng: Lạy Chúa, Lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng là những người thi hành ý Cha Thầy ở trên trời" (Mt 7:21). Trong câu nói này dường như vang âm Lời Chúa đã được ngôn sứ Isaia trình bày: "Dân này chỉ đến gần Ta bằng lời nói, cầu khẩn Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa Ta" (29:13). (Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 10)
2.4. Lắng nghe
Lắng nghe ở giai đoạn này chính là khởi điểm cho một chu trình lắng nghe mới. Quả thế, được Thiên Chúa ngỏ lời, mời gọi và quy tụ, giáo xứ “sống” Lời khi cùng nhau cử hành phụng vụ. Qua việc cử hành phụng vụ, giáo xứ kín múc được nghị lực, ân sủng để có thể “sống” Lời trong đời sống, hay nói khác đi là cử hành phụng vụ đời sống. Và chính thực tại của đời sống là những lời ngỏ của Thiên Chúa mời gọi chúng ta lại tiếp tục và tiếp tục mãi hành trình lắng nghe.
“Nhìn trong viễn tượng này, toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn đời ta. Ở đây, Lời Thiên Chúa cho ta thấy trọn cuộc sống con người diễn ra dưới lời mời gọi của Ngài.” (VD 24)
Cho nên, bản thân chúng ta, những linh mục, hãy thực hiện lectio divina (việc đọc và cầu nguyện trong Thánh Linh) cũng như hãy thúc đẩy việc thực hành này trong giáo xứ của mình theo lời mời gọi của Giáo Hội. Hy vọng qua việc thực hành này, mọi người trong giáo xứ có thể khám phá ra kho tàng quý giá của Lời Chúa và có được cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô là Lời Chúa hằng sống. (x. Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 9)
3. Diện mạo “Lời” nơi Linh mục
3.1. Linh mục – Thừa tác viên của Lời
Thật hữu ích cho chúng ta khi đọc lại Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis - PO) trong phần này. Vì lẽ, số 4 của Sắc lệnh nhắc nhớ cho chúng ta những bổn phận phải thực thi trong tư cách là linh mục:
“Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống; lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh Mục. Thực vậy, không ai có thể được cứu rỗi nếu trước đó không có lòng tin. Do đó, các Linh Mục, vì là cộng sự viên của các Giám Mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Phúc Âm của Thiên Chúa, để khi thi hành mệnh lệnh của Chúa: "Các con hãy đi khắp thế giới rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật" (Mc 16:15), các ngài thiết lập Dân Chúa và làm cho Dân Chúa càng ngày càng đông thêm. Thật thế, chính lời cứu rỗi khơi động đức tin trong tâm hồn những người chưa tin và nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu; chính đức tin này đã khai sinh và phát triển cộng đoàn tín hữu, như lời Thánh Tông Ðồ: "đức tin do nghe nói, còn điều nghe nói thì bởi lời Chúa Kitô" (Rm 10:17). Do đó, các Linh Mục mắc nợ với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm mà các ngài đã nhận được nơi Chúa. Vì thế […] trong mọi trường hợp, phận sự của các ngài không phải là giảng dạy sự thông biết của mình, nhưng là giảng dạy lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh. Nhưng trong tình trạng thế giới ngày nay, lời giảng thuyết của Linh Mục thường gặp rất nhiều khó khăn. Do đó để dễ lay chuyển tâm hồn thính giả, giảng thuyết không phải chỉ là trình bày lời Chúa một cách tổng quát và trừu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý ngàn đời của Phúc Âm vào các hoàn cảnh cụ thể của đời sống.” (PO 4)
Ngoài ra, ĐTC Benedicto trong tông huấn Verbum Domini cũng nói với chúng ta rằng trong hành động mục vụ, các tín hữu không phải lúc nào cũng ý thức hay nhận ra được tính duy nhất giữa cử chỉ và lời nói. Do đó, trong khi cử hành các Bí tích, các linh mục phải nêu bật sự duy nhất giữa Lời và Bí tích trong thừa tác vụ mình lãnh nhận Giáo Hội. (x. VD 53)
Hay nói rõ hơn, đời sống của linh mục phải là một sự thống nhất từ trong ra ngoài, từ lời nói đến hành động. Hay như tôi đã đề cập trong bài vừa rồi khi mời gọi chúng ta nhớ lại lời huấn dụ của Đức Giám Mục trong ngày thụ phong Phó Tế và Linh Mục: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy” và “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và khuôn rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thánh Giá Chúa”.
Kế đến, trong tư cách là thừa tác viên của Lời, chúng ta không thể không đề cập đến vấn đề bài giảng – một chủ đề nóng bỏng, được rất nhiều mối quan tâm không chỉ từ Giáo Hội mà còn từ phía người giáo dân.
Ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến những lời khen chê từ bất cứ một phía nào, nhưng chúng ta hãy lắng nghe lại những lời mời gọi, chỉ dạy của Giáo Hội:
Trước tiên là tầm quan trọng của bài giảng. ĐTC Benedicto khẳng định “Bài giảng lễ 'là một phần của hành động phụng vụ'; bài giảng lễ có chức năng giúp hiểu biết Lời Thiên Chúa rộng rãi hơn và hữu hiệu hơn trong đời sống các tín hữu. (VD 59)
Hay nói theo sứ điệp của hậu THĐGM 12 về Lời Chúa: “tột đỉnh của việc rao giảng là ở nơi bài giảng mà ngày nay đối với nhiều tín hữu Kitô, đó là lúc quan trọng chủ yếu để gặp gỡ với Lời Chúa. Trong việc giảng, thừa tác viên cũng phải trở thành ngôn sứ. Thực vậy, vị giảng thuyết phải có ngôn ngữ rõ ràng, quyết liệt và có chất lượng, không những "loan báo một cách thế giá những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ" (SC 35), những công trình được trình bày trước tiên qua việc đọc một cách rõ ràng và sinh động bản văn Kinh Thánh mà phụng vụ đề nghị, nhưng cũng phải thời sự hóa những công trình ấy trong thời đại thính giả đang sống và làm nảy sinh nơi tâm hồn họ câu hỏi về sự hoán cải và sự dấn thân quyết liệt: "Chúng tôi phải làm gì đây?" (Cv 2:37)”. (số 7)
Thứ hai là bổn phận linh mục phải thực thi vai trò giảng trong thánh lễ: “Bài giảng căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc cho đời sống Kitô giáo trong suốt chu kỳ năm phụng vụ, rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ. Hơn nữa, trong những Thánh Lễ được cử hành những ngày Chúa Nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự, không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng. (Hiến chế PV Sacrosanctum Concilium 52).
Bởi tầm quan trọng của bài giảng và bổn phận chia sẻ Lời Chúa trong Thánh lễ, các linh mục được mời gọi phải nhớ:
- Bài giảng lễ là một việc hiện tại hóa sứ điệp Kinh Thánh, sao cho các tín hữu được đưa đến chỗ khám phá ra sự hiện diện và tính hiệu năng của Lời Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của họ. Bài giảng phải giúp hiểu Mầu nhiệm đang được cử hành, mời người ta dấn thân cho sứ mạng, khi chuẩn bị cho cộng đoàn tuyên xưng đức tin, cầu nguyện phổ quát và cử hành phụng vụ Thánh Thể. Vì thế, do thừa tác vụ chuyên biệt, những ai được đề cử lo việc giảng dạy, phải rất quan tâm đến bổn phận này. Phải tránh những bài giảng mơ hồ và trừu tượng, che giấu mất tính đơn giản của Lời Thiên Chúa, cũng như phải tránh những kiểu nói lan man lạc đề vô bổ rất có thể lôi kéo chú ý đến người giảng hơn là chú ý đến trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng. Các tín hữu phải thấy rõ ràng rằng điều mà vị giảng thuyết đang bận tâm, đó là cho thấy Chúa Kitô, trung tâm của mọi bài giảng. Vì thế, các vị giảng thuyết cần phải quen biết và tiếp xúc chuyên cần với bản văn thánh; họ phải chuẩn bị bài giảng bằng suy niệm và cầu nguyện, để có thể giảng với xác tín và say mê. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã khuyến khích lưu ý đến các câu hỏi sau đây: "Các bài đọc được công bố muốn nói gì? Các bài đọc ấy nói gì riêng với tôi? Tôi phải nói gì với cộng đoàn, trong khi quan tâm tới hoàn cảnh cụ thể của họ?" (VD 59)
- Việc giảng thuyết đòi phải đọc, hiểu, diễn nghĩa và giải thích, một sự can dự của tâm trí trong đó. Trong việc giảng thuyết có hai chuyển động. Chuyển động thứ nhất, ta đi ngược tới căn cội của các đoạn Sách Thánh, các biến cố, những câu nói tạo nên lịch sử cứu độ, để hiểu chúng trong ý nghĩa và sứ điệp của chúng. Chuyển động thứ hai ta đi xuống hiện tại, tới cuộc sống thực tế của người nghe và đọc, luôn luôn dưới ở dưới ánh sáng của Chúa Kitô vốn là sợi dây rạng ngời nhắm thống nhất toàn thể Kinh Thánh (Sứ điệp hậu THĐGM 12, 7)
- Cần đặc biệt chăm sóc bài giảng Chúa Nhật và các lễ trọng; nhưng trong các lễ cum populo (có giáo dân tham dự) trong tuần, nếu có thể, xin cũng đừng bỏ cung cấp những suy tư vắn tắt hợp thời giúp các tín hữu đón nhận và làm sinh hoa kết quả Lời họ vừa lắng nghe. (VD 59)
Đặc biệt, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, ĐTC đương kim của chúng ta đã dành riêng một phần gồm 25 số (từ số 135 đến số 159 để bàn về Bài Giảng). Trong phần này, ĐTC đã phân tích và khai triển thật tỉ mỉ về bài giảng và trách nhiệm, cũng như việc phải soạn bài giảng ra sao [có thể nói, ĐTC Phanxico chỉ dẫn chúng ta từng bước rất cụ thể hơn về bài giảng so với các giáo huấn trước].
- Tầm quan trọng: “Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của một mục tử với dân mình […]. Bài giảng có thể thực sự là một kinh nghiệm mãnh liệt và hạnh phúc về Chúa Thánh Thần, một cuộc gặp gỡ an ủi với Lời Chúa, một nguồn mạch không ngừng của việc canh tân và tăng trưởng”. (số 135)
- Bản thân chúng ta, “chúng ta hãy phục hồi lòng tin tưởng của mình trong việc giảng dạy, dựa trên xác tín rằng Chính Thiên Chúa, Đấng muốn đi đến với con người qua các nhà thuyết giảng và rằng Ngài sẽ bày tỏ quyền năng của Ngài qua các lời của loài người.(số 136).
- Bài giảng có một giá trị đặc biệt vì phát sinh từ bối cảnh Thánh Thể, là điều làm cho nó vượt trên mọi hình thức dạy giáo lý bởi vì nó là một cuộc đối thoại tuyệt vời nhất giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trước khi hiệp thông Bí Tích. […] Nhà thuyết giảng phải biết trọng tâm của cộng đồng của mình để nhận ra lòng ao ước Thiên Chúa sống động và mãnh liệt ở đâu, và thậm chí một cuộc đối thoại thoại yêu thương như vậy đã bị bóp nghẹt hoặc không thể sinh hoa kết quả ở chỗ nào. (số 137)
- Cho nên, “bài giảng không thể là một hình thức giải trí, như được trình bày trên các phương tiện truyền thông, nhưng phải đem lại sự nhiệt thành và ý nghĩa cho buổi lễ.” (số 138) và ngôn ngữ của bài giảng như một cuộc nói chuyện của người mẹ - một thái độ gần gủi, yêu thương và khích lệ. (x. số 139-141)
- Bài giảng phải là một cuộc đối thoại, trong bài giảng đó, “chân lý được đi kèm với sự thiện và mỹ […] Được mở ra cho niềm hy vọng về một thực hành hân hoan và khả năng yêu thương được rao giảng, tâm hồn họ (người nghe) cảm thấy rằng từng Lời trong Thánh Kinh trước hết là một hồng ân, trước khi là một đòi hỏi” (số 142). Vì vậy, bài giảng phải được hội nhập vào trong chính hiện sinh của người nghe. Nó phải nối kết được trái tim của Chúa và những trái tim của dân Người (x. số 143)
- ĐTC nhấn mạnh việc soạn bài giảng trong sự cầu nguyện: “phải dành nhiều thì giờ để học hỏi, cầu nguyện, suy niệm và sáng tạo mục vụ; […]nhớ dành một thì giờ ưu tiên cho mục vụ cao quý này. […] Tôi mạo muội yêu cầu quý cha mỗi tuần dành riêng một phần thì giờ cá nhân và cộng đồng đủ dài cho công tác này, thậm chí nếu cần thì phải bớt thì giờ cho những công tác khác, mặc dù quan trọng. […] Một mục tử không chuẩn bị thì mục tử ấy bất hảo và vô trách nhiệm đối với những hồng ân mà mình đã nhận được (số 145)
- Nhà giảng thuyết phải được cá nhân hóa về Lời. “Họ cần phải tiếp cận Lời Chúa bằng một tâm hồn ngoan ngoãn và cầu nguyện, ngõ hầu Lời Chúa thấm sâu vào những suy nghĩ và cảm xúc của họ cùng phát sinh nơi họ một não trạng mới, […] chúng ta hãy kiểm chứng lại xem tình yêu Lời Chúa mà chúng ta giảng có lớn lên trong chính mình chúng ta không. (số 149; x. số 149-151)
- Hỗ trợ cho bài giảng, chúng ta cần đọc sách thiêng liêng (lectio divina) và cần lắng nghe nhu cầu của dân chúng, những con người cụ thể đang lắng nghe, họ muốn nghe điều gì, họ đang bận tâm về vấn đề nào. Để được như thế, chúng ta phải có một sự bén nhạy nhận ra những gì đang ảnh hưởng đến đời sống của họ. (x. số 152-155)
3.2. Kim chỉ nam cho mục vụ: Lời
Cuộc đời của người tông đồ phải được thấm đẫm, tràn đầy Lời. Nói cách khác, Lời phải chi phối, hướng dẫn tất cả mọi suy tư, thái độ, lời nói và hành động của linh mục. Cho nên, kim chỉ nam cho công việc mục vụ của linh mục không gì khác hơn “Lời”. Chúng ta đọc thấy trong Verbum Domini:
- Hãy đảm bảo rằng, trong các sinh hoạt quen thuộc của các cộng đoàn Kitô hữu, trong các giáo xứ, trong các hội đoàn và trong các phong trào, người ta thật sự quan tâm đến việc gặp gỡ riêng tư với Đức Kitô, Đấng thông truyền chính Người cho chúng ta nơi Lời Người. Bởi vì nếu "không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô", việc linh hoạt bằng Kinh Thánh tất cả hoạt động mục vụ thông thường và ngoại thường sẽ dẫn đưa đến một hiểu biết lớn lao hơn về con người của Đức Kitô, Đấng mạc khải Chúa Cha và là Mạc Khải viên mãn của Thiên Chúa. (số 73)
- Chính vì thế, trước tiên vị linh mục đã phải rất quen thuộc với Lời Thiên Chúa. Biết phương diện ngôn ngữ hoặc chú giải Lời Chúa, thì chưa đủ, dù là cần thiết. Vị linh mục phải đón tiếp Lời Chúa với một tấm lòng vâng phục và cầu nguyện, ngõ hầu Lời Chúa thấm nhuần sâu xa các tư tưởng và các tâm tình của ngài và làm phát sinh nơi ngài một tinh thần mới, 'tư tưởng của Đức Kitô' (1Cr 2:16)". Như thế, các lời nói, hơn nữa các chọn lựa và các thái độ của ngài sẽ ngày càng trong suốt với Tin Mừng, sẽ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. "Chỉ khi 'ở lại trong' Lời Chúa, vị linh mục mới trở thành người môn đệ hoàn hảo của Chúa, mới nhận biết chân lý và mới thật sự tự do".
Nói tóm lại, ơn gọi linh mục đòi hỏi phải được hiến thánh "trong sự thật". Chính Đức Giêsu đã yêu cầu như thế với các môn đệ Người: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17:17-18). Theo một ý nghĩa nào đó, các môn đệ được "lôi cuốn vào trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa do họ được đắm mình vào trong Lời Thiên Chúa. Có thể nói, Lời Thiên Chúa là bể tắm thanh tẩy, là quyền lực sáng tạo biến đổi họ và làm cho họ thuộc về Thiên Chúa". Bởi vì chính Đức Kitô là Lời Thiên Chúa làm người (Ga 1:14), là "sự thật" (Ga 14:6), nên lời Đức Giêsu cầu xin với Chúa Cha: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ" có ý nghĩa sâu xa nhất: "Xin Cha làm cho họ nên một với con, là Đấng Kitô. Xin liên kết họ lại với con. Xin lôi kéo họ vào trong con. Bởi vì trong thực tế, chỉ có một tư tế duy nhất của Giao Ước Mới, là chính Đức Giêsu Kitô". Vậy các linh mục cần phải ý thức liên tục và ngày một sâu xa hơn về thực tại này. (80)
Ghi chú:
- DV: Dei Verbum
- VD: Verbum Domini
- SC: Hiến Chế PV Thánh Sacrosanctum Concilium
- PO: Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống các Linh Mục (Presbyterorum Ordinis)
*********
Bài 3: GIÁO XỨ VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THẾ GIỚI NGÀY NAY
Tin Mừng (Mt 24:4-13): Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính Ta đây là Ðấng Kitô", và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn. "Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe nằm trong chuỗi bài giảng về ngày cánh chung. Đức Giêsu nói với các môn đệ về những biến cố sẽ xảy đến, những thách thức phải đối diện.
Trong bài chia sẻ này, khi suy tư về những thách đố của thế giới ngày nay đối với giáo xứ, lời của Đức Giêsu cũng đang nhắc nhớ chúng ta “những việc đó phải xảy ra nhưng chưa phải là chung cục”. Quả vậy, những bất trật tự trong xã hội, trong đời sống đức tin vẫn đang diễn ra. Chúng là những thách đố mà chúng ta phải đối diện khi đời sống nhân loại đang thay đổi một cách nhanh chóng. Chúng ta không được phép hãi sợ những thách đố đó nhưng chúng chính là cơ hội, là dịp để đức tin của giáo xứ, của người phục vụ giáo xứ trong vai trò lãnh đạo được thanh luyện và tăng triển.
Thật may mắn cho chúng ta, ĐTC Phanxico, vị Giáo Hoàng đương kim của chúng ta, là một con người thực tế. Ngài không ngại nói lên những khiếm khuyết hay đúng hơn là ngài không ngần ngại vạch tội của nhân loại và ngay của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội. Điều này được thể hiện rõ trong những giáo huấn của ngài, cách riêng trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng. Dựa vào lời dạy của ngài, chúng ta cùng suy tư về đề tài “Giáo xứ và những thách đố của thế giới ngày nay” để, một chút ít nào đó, có thể giúp chúng ta góp phần Tân Phúc Âm hóa giáo xứ nơi chúng ta đang phục vụ.
I. Nhận diện những thách đố
Chương 2 của tông huấn trình bày cho chúng ta những thách đố mà chúng ta đang phải đối diện. Tôi xin được tóm tắt trong 2 khía cạnh:
1. Thế giới phẳng nhưng không phẳng
“Thế giới phẳng” là một danh từ được sử dụng rộng rãi rất nhiều, đặc biệt từ năm 2004 với việc xuất hiện tác phẩm của ông Thomas Friedman, một biên tập viên chuyên mục ngoại giao và kinh tế của tạp chí New York Times. Ông sử dụng danh từ này để đặt tên cho tác phẩm của mình. Trong tác phẩm đó, ông muốn nói lên sự chuyển đổi ngày càng phẳng hơn về mọi phương diện của thế giới. Theo ông, quá trình toàn cầu hóa kinh tế kéo theo quá trình toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội của con người. Và như thế, tất cả mọi người hiện diện trên trái đất này đều có cơ hội là như nhau, họ sẽ đi vào một “sân chơi chung” và có “luật chơi chung”. Một trong những yếu tố làm cho mọi người có cơ hội ngang nhau, gần nhau là sự phát triển của công nghệ thông tin. Cụ thể, ngày hôm nay, nếu ai trong chúng ta không biết sử dụng Internet, người đó sẽ bị coi là lạc hậu, quê mùa (chưa tính đến việc để được coi là người đẳng cấp, người hợp thời thì phải có trong tay những chiếc điện thoại thông minh, những máy tính bảng mới nhất, hiện đại nhất, nhiều tính năng nhất…).
Thế nhưng, thực tế cuộc sống đã minh chứng rằng thế giới này không phẳng. Không phải ai cũng có thể tham gia vào “sân chơi chung” và thực thi “luật chơi chung” đó. Không thể có một thế giới đại đồng của những người bình đẳng về mọi khả năng và quyền lợi theo như quan điểm “thế giới phẳng” của Thomas Friedman. Thế giới vẫn còn đó sự tách biệt giữa người với người, còn đó những khoảng cách mà chúng ta gọi là tầng lớp xã hội: giàu-nghèo; trí thức-vô học; thành thị-thôn quê, nước lớn-nước nhỏ-nước thuộc thế giới thứ 3, …. Sự cách biệt, phân cấp, xung đột vẫn diễn ra và diễn ra càng lúc càng khắc nghiệt hơn.
Đối với ĐTC Phanxico, sự phát triển của xã hội và xu thế toàn cầu hóa, bên cạnh những hiệu quả tích cực, những thành công cho xã hội loài người, nó cũng mang lại rất nhiều hệ lụy. Những hệ lụy đó là sự bấp bênh làm cho con người ta ngày càng sợ hãi và tuyệt vọng; sự tách biệt, chênh lệch xã hội càng gia tăng và dẫn tới sự lãng quên, khai thác và loại trừ:
- Số 52. Trong thời đại chúng ta, nhân loại đang sống ở một khúc quanh lịch sử, mà chúng ta có thể thấy từ những tiến bộ đạt được ở nhiều lãnh vực khác nhau. Chúng ta phải ca ngợi những thành công góp phần vào sự thịnh vượng của con người, chẳng hạn như trong lãnh vực y tế, giáo dục và truyền thông. Tuy nhiên, chúng ta không thể quên rằng hầu hết những người nam nữ ở thời đại chúng ta đang sống trong sự bất ổn định mỗi ngày, với những hậu quả tai hại. Một số bệnh học gia tăng. Sợ hãi và tuyệt vọng chiếm đóng quả tim của nhiều người, ngay cả trong những nước gọi là giàu có. Niềm vui của đời sống thường xuyên bị dập tắt, không có sự tôn trọng người khác và bạo lực gia tăng, chênh lệch về xã hội ngày càng trở nên rõ ràng. Chúng ta phải đấu tranh để sống, và thường sống với một chút nhân phẩm.
- Số 53. Như điều răn “chớ giết người” đặt ra một giới hạn rõ ràng về giá trị của đời sống con người, ngày nay, chúng ta phải cũng phải nói “không với một nền kinh tế loại trừ và chênh lệch xã hội”. Một nền kinh tế như thế cũng giết người. Làm sao mà việc một ngưởi già vô gia cư bị chết vì lạnh không phải là một tin tức, trong khi thị trường hối đoái bị xuống hai điểm lại là tin tức? Đó là loại trừ. Làm sao chúng ta có thể chịu đựng nổi khi thức ăn dư thừa bị đổ đi trong khi có nhiều người bị đói? Đó là sự chênh lệch xã hội. Ngày nay, tất cả đều tham gia trò chơi cạnh tranh và sống sót của những kẻ thích hợp nhất, ở đó những người mạnh nuốt trửng những ngưởi yếu. Như hậu quả của tình trạng này, một khối lớn dân chúng đang bị loại trừ và gạt ra ngoài lề: không có công ăn việc làm, không có triển vọng, không có có lối thoát. Người ta coi con người là chính nó như những đồ tiêu thụ, nay sử dùng mai bỏ đi. Chúng ta đã bắt đầu nền văn hóa của “loại bỏ được”, thậm chí còn cổ võ nó. Nó không còn chỉ đơn thuần là hiện tượng khai thác và áp bức, nhưng một điều gì mới: Với việc loại bỏ cuối cùng được ảnh hưởng tận gốc đến việc là thành phần xã hội mà chúng ta đang sống, những người bị loại bỏ khi đó không còn ở tầng lớp thấp, ở ngoài lề, hay không có quyền lực, nhưng ở bên ngoài xã hội. Những người bị loại trừ không phải là 'những người bị bóc lột', nhưng là rác, là ‘đồ thừa’.
2. Văn hóa “hời hợt”
Sự thay đổi một cách nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến một thái độ sống mang tính cách tạm thời và hời hợt. Bởi lẽ, sự tiến bộ như vũ bão của công nghệ làm cho con người cảm thấy dường như không có gì là bất biết, không có gì là trường cửu. Mọi sự chỉ có tính cách tạm bợ, tương đối. Trong cái thế giới tạm thời và tương đối ấy, người ta cố làm cho chính mình là trung tâm của mọi sự. Thật thế, người ta làm tất cả để bảo vệ chính mình, tìm ích lợi cá nhân mà không cần quan tâm đến lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng. Từ đó, con người không phải là điểm hướng tới nhưng chỉ là phương tiện trong muôn vàn phương tiện khác để đạt đến cùng đích là lợi ích của cái tôi.
- Số 55. Chúng ta đã âm thầm chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và trên các xã hội của mình. […] Chúng ta đã tạo ra những ngẫu tượng mới. […]; hạ con người xuống thành chỉ một trong những nhu cầu tiêu thụ.
- Số 56. Nạn tham nhũng có hệ thống và trốn thuế ích kỷ đạt đến mức độ toàn cầu. Nạn tham quyền và tham của thì không biết giới hạn.
II. Những thách đố nơi người giáo dân
Chắc chắn, khi đứng trước những biến động về lối sống, trào lưu hiện nay, người Kitô hữu phải đối diện với biết bao thách đố. “Chúng ta có thể nhận ra một số yếu điểm vẫn cần phải được chữa lành bởi Tin Mừng: nạn chồng chủ vợ tôi, nghiện ngập, bạo lực trong gia đình, ít người dự Thánh Lễ, tin tưởng vào thuyết định mệnh hoặc mê tín dị đoan khiến người ta cậy đến bùa phép, vv.” (số 69)
Tuy nhiên, trong phần này, với mục đích để duyệt xét lại đời sống giáo xứ để canh tân trong năm Tân Phúc Âm hóa giáo xứ này, tôi muốn giới hạn vào ba phương diện:
1. Cảm thức thuộc về Giáo Hội, thuộc về Giáo xứ
Chúng ta sống trên thế giới này là chúng ta sống trong sự liên đới với người khác. Mỗi người sinh ra đều thuộc về một nhóm, một gia đình, một vùng, một nơi chốn nào đó. Chúng ta không thể sống tách biệt khỏi mạng lưới liên hệ dày đặc trong đời sống nhân sinh. Khi ý thức mình thuộc về một bộ phận, một chi thể, tế bào nào, chúng ta sẽ góp phần làm tăng triển bộ phận, chi thể đó.
Đời sống giáo xứ cũng vậy. Một giáo xứ có đời sống đức tin vững mạnh khi tất cả mọi thành viên trong gia đình giáo xứ đó luôn ý thức mình thuộc về giáo xứ đó. Khi ý thức thuộc về chi phối mọi hoạt động cá nhân, trong niềm tri ân Thiên Chúa và yêu mến nhau, họ sẽ không ngừng dấn thân trong chính hoàn cảnh sống để xây dựng cộng đoàn và thực thi sứ mạng của Giáo Hội tại chính giáo xứ của mình.
Tuy nhiên, ngày hôm nay, cảm thức thuộc về cần được quan tâm nhiều. Nhiều khi, các thành viên trong giáo xứ không ý thức hay không cảm thấy được mình thuộc về giáo xứ. Sự tham dự nghi lễ phụng vụ, tham dự các nhóm một cách hời hợt, theo phong trào, không ý thức được vận mạng của giáo xứ cũng chính là vận mạng của cá nhân. Hay trầm trọng hơn là thái độ vô cảm, “không phải chuyện của tôi”. Từ đó, ở một số nơi, đời sống giáo xứ có những căng thẳng, lạnh lẻo hay ầu ơ qua ngày.
- Số 63. Chúng ta phải thừa nhận rằng, nếu một phần những người đã được rửa tội không cảm thấy thuộc về Hội Thánh, điều đó có thể là do một số cơ cấu nào đó và bầu khí lạnh nhạt ở một số giáo xứ và cộng đồng của chúng ta, hoặc một thái độ quan liêu khi đối phó với những vấn đề, dù đơn giản hay phức tạp, của đời sống của dân chúng của chúng ta. Ở nhiều nơi bình diện hành chính của các khía cạnh mục vụ chiếm ưu thế, cũng như việc chỉ cử hành các Bí Tích mà không có những hình thức truyền giáo khác.
- Số 70. Chúng ta không thể phủ nhận rằng nhiều người cảm thấy thất vọng và không còn coi là mình theo truyền thống Công Giáo nữa, […] có một cuộc xuất hành nào đó về phía những cộng đồng đức tin khác.
- Số 81. Nhiều giáo dân sợ rằng mình bị mời làm một nhiệm vụ tông đồ, nên tìm cách trốn tránh để thoát khỏi bất kỳ cam kết nào có thể làm mất thì giờ rảnh rỗi của mình. Chẳng hạn như ngày nay rất khó để tìm thấy các giáo lý viên được đào tạo cho các giáo xứ và kiên trì trong công tác của họ nhiều năm. (thiếu cộng tác, dấn thân)
2. Tương đối về luân lý
Ngày hôm nay, luân lý cũng rơi vào trong một trào lưu của sự tương đối. Với não trạng tạm bợ, không có gì là trường cửu, người ta cũng cỗ võ một nền luân lý tương đối. Nói khác đi, người ta muốn chối bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa đừng can thiệp gì vào cuộc đời tôi, hãy để tôi quyết định theo ý thích cá nhân tôi. Bởi lẽ, luân lý bị coi là phản tác dụng và quá nhân bản bởi vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền lực. Nó là một mối đe dọa, vì nó lên án việc thao túng và hạ giá con người, nó đề cập đến một Thiên Chúa là Đấng kêu gọi một đáp trả dấn thân (x. số 57). Đó là điều đi ngược với lối sống cá nhân chủ nghĩa ngày nay, tôi muốn làm gì tôi làm.
ĐTC Bênêđictô XVI đã khẳng định và chỉ ra giá trị thật của chủ nghĩa tương đối cho chúng ta rằng “nó chỉ làm cho con người bị hụt hẫng, thất vọng và ích kỷ”. (cuộc tiếp kiến ông Nigel Marcus Baker, tân đại sứ Anh quốc bên cạnh Tòa Thánh đến trình ủy nhiệm thư, vào ngày 9 tháng Chín năm 2011)
Với giáo xứ, sự tương đối hóa về luân lý được thể hiện qua một số khía cạnh:
- Giáo huấn Giáo Hội: lỗi thời, cổ hủ, quá khắt khe, hạn chế sự thăng tiến của con người
- Tự do cá nhân: tự quyết định lối sống theo ý riêng, tự do phái tính (đồng tính, tình dục, …)
- Con người làm ra hay khám phá ra được điều gì, con người có quyền tự do làm điều đó (sự sống: sinh sản vô tính, thụ tinh ống nghiệm, thay đổi giới tính, …)
- Cách riêng, não trạng tương đối trong hôn nhân, phản ánh một thái độ ích kỷ của con người: “Hôn nhân có khuynh hướng bị coi như một hình thức đơn giản của sự mãn nguyện tình cảm, là điều có thể là được xây dựng bất kỳ cách nào và thay đổi theo cảm xúc của mỗi người” (Số 66). Hay “chủ nghĩa cá nhân của thời đại hậu hiện đại và toàn cầu hóa ủng hộ một cách sống làm suy yếu sự phát triển và ổn định của những mối dây liên hệ giữa con người, và làm biến dạng các mối liên hệ gia đình” (số 67). Nói khác đi, thích thì đến, chán thì chia tay; được thì góp gạo thổi cơm chung, không được thì đường ai nấy bước. Nhiều gia đình loại này đã hiện diện trong các giáo xứ của chúng ta và không ít những hệ lụy thật khó giải quyết hiện nay: phá thai, ngoại hôn, …
3. Đức tin
Nhìn từ bên trong đời sống đức tin, ta thấy thuyết Tương Đối làm cho nhiều người Công Giáo lung lay và mất niềm tin. Thuyết Tương Đối mang lấy khuôn mặt chiết trung, dĩ hòa vi quý khi cho rằng không có gì là tuyệt đối cả. Do đó, một số người đã cho rằng “đạo nào cũng tốt” và Đức Giêsu Kitô là một trong những vị sáng lập tôn giáo.
- Số 63. Đức tin Công Giáo của nhiều người hiện đang phải đối diện với những thách đố của sự phát triển rộng rãi của các phong trào tôn giáo mới, một số có chiều hướng cơ bản và một số khác dường như đề ra một linh đạo không có Thiên Chúa.
- 64. Tiến trình tục hóa có chiều hướng thu gọn đức tin và Hội Thánh vào phạm vi riêng tư và và thầm kín […] vì Hội Thánh bị coi là cổ võ một thành kiến cá nhân và như can thiệp vào tự do cá nhân.
Ta có thể nhìn thấy tác động của thuyết tương đối và trào lưu tục hóa ảnh hưởng đến đức tin, được thể hiện trong việc cử hành Phụng vụ.
Trước tiên, bầu khí phụng vụ chưa được sốt sắng, thiêng liêng: mang nặng tính hình thức bề ngoài với những rước sách, kèn trống (đây là điều nên có nhưng phải hướng dẫn và đưa người ta vào trong chiều sâu thiêng liêng của những hành động đó); cung thánh nhiều khi bị lạm dụng trở nên một sân khấu văn nghệ không khác gì ngoài đời; trật tự trong khi cử hành phụng vụ bí tích (Hòa Giải, Thánh Thể…) lắm lúc không khác gì một cái chợ chen lấn, chụp giật, tranh giành; những “sáng kiến: cắt xén, thêm bớt” trong Phụng Vụ (nói theo ngôn ngữ ngày nay là sử dụng chiêu trò) nhằm thỏa mãn sở thích của một nhóm người nào đó, khiến cho Phụng Vụ ngày càng mất đi vẻ đẹp thiêng liêng (chia sẻ của giáo dân trong phần chia sẻ Lời Chúa),…
Kế đến, tác phong cử hành phụng vụ của các thừa tác viên (đi, đứng, đọc, …) qua loa, vội vàng, … thể hiện một sự thiếu trang trọng, tâm tình thờ phượng và xác tín về việc mình đang cử hành.
Một phương diện khác, ta thấy đức tin Công Giáo trên toàn thế giới cũng chịu những tác động ngoại tại như bạo lực, bị tấn công và đàn áp mang màu sắc của sự thù hận (x. số 61). Điều này không xa lạ gì với chúng ta. Biết bao biến cố xảy ra trong quá khứ cũng như hiện tại trên thế giới, hay những biến cố gần đây đã minh chứng cho điều đó.
III. Những thách đố nơi người làm mục vụ (cụ thể là linh mục)
Trong phần này, tôi xin được giới hạn trong 2 khía cạnh liên quan đến người làm mục vụ – linh mục – là khía cạnh nhân bản và thiêng liêng.
1. Nhân bản:
Khía cạnh nhân bản, tôi cũng xin giới hạn ở hai trong các đặc điểm tiêu cực ĐTC Phanxico nhắc đến trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: ngại dấn thân và bi quan.
Trước tiên đó là việc ngại dấn thân. Đây là một biểu hiện cho thấy linh mục chưa “tròn đầy” trong ơn gọi và sứ vụ, vì nếu linh mục ý thức đầy đủ về căn tính của mình, linh mục sẽ không ngại khó, không ngập ngừng trong tất cả mọi hoạt động liên quan đến sứ vụ. ĐTC nói
- 78. bận tâm quá đáng về tự do cá nhân và giải trí của mình, khiến họ sống những nhiệm vụ của họ như là một phần phụ thuộc đơn giản của đời sống, như thể chúng không phải là một phần của căn tình của họ.
- 80. gắn bó với sự an toàn về kinh tế, hoặc với việc muốn có quyền hành và vinh quang loài người bằng bất cứ giá nào, thay vì dâng hiến đời mình cho tha nhân.
- 81. sợ rằng mình bị mời làm một nhiệm vụ tông đồ, nên tìm cách trốn tránh để thoát khỏi bất kỳ cam kết nào có thể làm mất thì giờ rảnh rỗi của mình. […] Nhưng một điều gì đó tương tự cũng xảy ra cho các linh mục, những người bận tâm quá mức với thì giờ rảnh rỗi của họ. […] Một số chống lại việc tận hiến hoàn toàn cho sứ vụ và chung cuộc bị bao bọc trong một trạng thái ươn lười tê liệt.
- 82. Sự ươn lười về mục vụ này có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau: theo đuổi những dự án thiếu khả thi và không âm thầm hài lòng với những gì khả thi; không kiên nhẫn nổi với sự tiến hành khó khăn của những tiến trình và muốn tất cả mọi sự từ trời rơi xuống; gắn bó với một số dự án và những ước mơ thành công được vun trồng bởi tính khoa trương của họ; mất liên lạc thật sự với dân chúng trong việc không còn cá nhân hóa việc mục vụ của mình, họ quan tâm nhiều đến tổ chức hơn là nhân sự, để rồi các “bảng lộ trình” làm cho họ hứng thú hơn là chính cuộc hành trình; không biết chờ đợi, họ muốn chế ngự cả nhịp sống. Ngày nay, việc nóng lòng muốn có kết quả ngay khiến cho những người làm mục vụ không dễ dàng chấp nhận cảm thức có một chút mâu thuẫn, việc có thể thất bại, một lời chỉ trích, một thập giá.
Hình như trong tất cả những điều ĐTC Phanxico nói đến, chúng ta thấy hình như loáng thoáng có chúng ta trong đó. Cụ thể:
- Ngại giảng lễ
- Ngại đi thăm giáo dân, và khi đi thăm giáo dân thì chọn lựa nhà nào có lợi cho mình thì tới, nhà nào không thích, không ưa thì tìm cách tránh né…
- Ít ngồi tòa Giải Tội (dĩ nhiên vẫn phải có thời gian biểu, nhưng hình ảnh thật đẹp của linh mục siêng năng ngồi tòa giải tội và sẵn sàng chào đón người khác đến lãnh nhận bí tích Hòa Giải dường như ngày càng giảm)
- Ngại xa (ở những giáo xứ có địa bàn rộng, giáo dân ở tản mác, …)
- Thiếu lắng nghe và quan tâm đến nhu cầu của giáo dân, như không cần sự cộng tác…
Khía cạnh thứ hai là bi quan.
Sự bi quan luôn là một ngáng trở cho sự dấn thân phục vụ, cho sự tăng trưởng về mọi phương diện. nó sẽ góp phần làm cho chúng ta có một lối sống hời hợt, vô vị, … từ đó, chúng ta không tìm thấy được giá trị, niềm vui của cuộc đời phục vụ. Lý do của sự bi quan này là gì? Nó có thể bắt nguồn từ sự thiếu tự tin, không xác tín, nhìn mọi sự chung quanh với lăng kính màu xám hay kinh nghiệm “thất bại” trong cuộc đời làm chùn bước, …
- Số 79. thái độ yếm thế. Kết quả là, nhiều người làm mục vụ, ngay cả khi họ cầu nguyện, phát triển một loại mặc cảm, dẫn họ đến việc tương đối hóa hoặc che giấu căn tính và những xác tín Kitô giáo của họ. Vì thế một vòng luẩn quẩn được hình thành, cho nên họ không hài lòng với những gì họ đang có và những gì họ làm, họ không cảm thấy được đồng hóa với sứ vụ rao giảng Tin Mừng, và điều này làm suy yếu việc dấn thân.
- Số 83. Thất vọng với thực tại, với Hội Thánh hoặc với chính mình, họ sống trong cám dỗ bám víu không ngừng vào một nỗi buồn mơ hồ, không có hy vọng, là điều xâm nhập quả tim của họ như “rượu thuốc quý giá nhất của ma quỷ”, […] rốt cuộc họ cũng bị quyến rũ bởi những điều chỉ tạo ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm, và những điều ấy làm suy yếu động năng tông đồ.
- Số 85. Một trong những cám dỗ nghiêm trọng hơn bóp nghẹt sự nhiệt tình và mạnh bạo là cảm giác thất bại, là điều biến đổi chúng ta thành bi quan bất mãn và thất vọng khi phải đối diện với tình trạng đen tối.
2. Thiêng liêng (tu đức)
Phần thách đố về mặt thiêng liêng (tu đức) đối với linh mục, tôi muốn trình bày dựa vào tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhưng được xoay quanh 4 khía cạnh rất quen thuộc với ơn gọi linh mục của chúng ta: Nghèo khó, vâng phục, thanh khiết và cầu nguyện.
Chúng ta cần nhớ rằng, ba lời khuyên Phúc Âm (3 lời khấn: nghèo khó, vâng phục, thanh khiết) không chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Chúng cũng là sự đòi hỏi, mời gọi dành cho cả chúng ta, các linh mục (dù là linh mục giáo phận hay linh mục dòng).
Đức Giêsu trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Người luôn mời gọi các môn đệ, các tông đồ phải sống triệt để các lời khuyên Phúc Âm.
• Nghèo khó
Có lẽ, một vài người trong chúng ta sẽ nói, khi chịu chức linh mục, tôi đâu phải hứa sống nghèo khó đâu. Điều này đúng. Nhưng lần giở lại Tin Mừng, chúng ta thấy rằng dân Chúa là những con người nghèo, anawim. Họ nghèo không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn trước mặt con người. Lối sống của chúng ta, những người lãnh đạo trong sự phục vụ khiêm hạ, chúng ta có sống giá trị người nghèo của Thiên Chúa để nêu gương cho anh chị em giáo dân trong giáo xứ?
Một vài lối sống xa hoa, trưởng giả đã làm nhạt đi hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên cách tận tình như: tìm kiếm, bồi bổ, dám ôm lấy đàn chiên, dám để cho mùi của đàn chiên bám vào người …; ĐTC Phanxico cảnh báo chúng ta về lối sống và sự phục vụ thiên về vật chất.
Có bao giờ chúng ta thử so sánh giữa những công việc chúng ta trong một ngày với người giáo dân bình thường của chúng ta không?
Chúng ta được đảm bảo đời sống bởi những quy định của Giáo Hội, của giáo phận (tiền lễ); được sung túc hơn bởi sự nâng đỡ, quảng đại của anh chị em giáo dân vì họ tin vào Thiên Chúa, tin vào lời cầu nguyện, tin vào đời sống và thừa tác vụ linh mục của chúng ta. Bởi lẽ, đa phần giáo dân của chúng ta là những nông dân và làm nghề đánh cá, phải vất vả, nắng nôi, đêm ngày mới có thể kiếm ra đồng tiền để lo cuộc sống mưu sinh. Chúng ta đừng nghĩ rằng bản thân linh mục chúng ta phải suy tư bài giảng, phải ưu tư mục vụ, phải thế này thế kia…, trách nhiệm chúng ta nặng nề. Chúng ta đừng quên, người giáo dân họ cũng phải đảm nhận những suy tư, cầu nguyện, bận tâm, … cho chính gia đình và những người thân của họ.
Một linh mục đã khuyên các chủng sinh như sau: chúng ta hãy sống một ngày của chúng ta làm sao để chúng ta thấy rằng những gì chúng ta làm trong ngày có thể sánh với một người bình thường làm trong một ngày để có thể nuôi được gia đình mình. Cách nào đó, lời khuyên trên cũng là một lời nhắc nhở hữu ích cho chúng ta.
• Vâng phục:
Trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, chúng ta đọc thấy lời mời gọi: “Hoạt động mục vụ phải chứng tỏ tốt hơn nữa rằng sự liên hệ với Cha của chúng ta đòi hỏi và khuyến khích một sự hiệp thông chữa lành, thúc đẩy và tăng cường mối liên hệ giữa các cá nhân” (số 67). Như vậy, nếu kiểm điểm lại sự vâng phục của chúng ta – các linh mục – trong năm tân PÂH giáo xứ, chúng ta phải xét đến mối liên hệ giữa bản thân với Cha (Thiên Chúa); giữa bản thân với mọi người trong sự hiệp thông-chữa lành và tăng trưởng các mối tương quan đó.
Mối tương quan với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bàn đến trong phần cầu nguyện. Giờ đây, chúng ta nói tới các mối tương quan cá nhân của linh mục chúng ta với ba đối tượng: Giám mục – anh em linh mục – giáo dân.
Đối với Giám mục
Vâng phục là một trong những điều được thẩm vấn buộc chúng ta phải trả lời trong ngày thụ phong Phó Tế và Linh Mục: “Con có vâng phục cha và những người kế vị cha không?” Một cử chỉ thật ý nghĩa được thực hiện trong khi thực hiện cuộc thẩm vấn đó, chính là hành động đôi bàn tay của tiến chức chắp lại và đặt trong lòng bàn tay của ĐGM. Cử chỉ đó nói lên sự vâng phục, quyết tâm trở nên nhỏ bé trong sự kính trọng, yêu mến và vâng lời vị chủ chăn – người cha, người thầy – của mình. Sự vâng phục, quyết tâm đó là một quyết tâm dám từ bỏ chính ý muốn của bản thân và ngay cả chính con người trước Đấng kế vị các thánh tông đồ, người đại diện của Chúa Cha trong Giáo Hội địa phương theo quan điểm Giáo Hội học của thánh Ignatio Antiokia (Chúa Cha là Giám mục thực sự trong Giáo Hội địa phương). Đôi bàn tay của vị tiến chức nói lên điều đó. Đó không phải là hai bàn tay tự nắm lại (như một sự tức giận hay nắm đấm) nhưng chắp lại trong tin tưởng, tựa nương, tin tưởng nơi trong bàn tay vị Mục tử Giáo phận.
Đôi bàn tay chắp lại ngày chịu chức có còn được thể hiện, còn được sống trong từng ngày sống của chúng ta hay không?
Có rất nhiều gương mẫu anh em linh mục sống hoàn toàn vâng phục giám mục của mình. Đó là hồng ân, là lời chúc phúc dành cho đời sống linh mục nói riêng, dành cho giáo phận, Giáo Hội nói chung. Tuy nhiên, biển không có sóng thì không phải là biển; không khí không có sự chênh lệch áp suất sẽ không tạo ra gió và mưa. Đó là quy luật tự nhiên và cũng là một điều không thể tránh trong đời sống Giáo Hội, giáo phận hay giáo xứ. Dẫu vậy, chúng ta hy vọng rằng, những cơn sóng, làn gió ngầm không quá ghê gớm để tạo nên sự phá hủy tinh thần hiệp thông, vâng phục của linh mục đối với Đức Giám Mục của mình.
Nhân đây, từ cả nghiệm cá nhân và liên đới với những nơi khác, tôi cũng xin được chia sẻ một vài thái độ, não trạng tiêu cực:
Thứ nhất, “giáo xứ là của Đức Giám Mục”. Điều này không sai. Trên nguyên tắc, ĐGM giáo phận là chủ chăn của giáo phận, có toàn quyền trên giáo phận, tất nhiên bao gồm cả giáo xứ. Tuy vậy, linh mục chính xứ được đặt lên là để chia sẻ trách nhiệm với ĐGM giáo phận, thay ngài chăm sóc anh chị em giáo dân tại giáo xứ. Những điều này đã được tiên liệu trong giáo luật và các giáo huấn của Giáo Hội. Thế mà, có những linh mục đã vịn vào việc “giáo xứ là của ĐGM” để lẫn tránh trách nhiệm, quên đi bổn phận cá nhân trong việc phục vụ Giáo xứ.
Thứ hai là tiếng “vâng hai mặt”. Trước sự hiện diện của ĐGM, tôi thưa vâng. Nhưng khi không có ĐGM, những lời xầm xì, những phê bình, chỉ trích về bản thân hay quyết định của ĐGM; để sau khi bình phẩm, lên án là sự kéo nhóm, kéo bè, gây ra sự chia rẽ trong hàng ngũ linh mục và chống đối ngay cả với vị mục tử giáo phận. Đây là một điều tiêu cực trầm trọng trong tư cách chúng ta là linh mục. Tại sao hy tế tạ ơn chúng ta dâng mỗi ngày lại không là lối sống của chúng ta – những Alter Christus, những Chúa Kitô khác? Hay phải chăng chúng ta là những người khác Chúa Kitô, những phản Kitô mà thư Gioan nhắc đến?
Tại sao chúng ta không lấy lòng kính trọng, tình yêu mến, thảo hiếu để đối đãi với giám mục của mình, là người cha, người thầy trong gia đình đức tin, trong gia đình giáo phận?
Chắc chắn, là mục tử, là người đứng đầu giáo phận, các giám mục không thể nào là con người hoàn hảo, trọn vẹn, hoàn toàn thánh thiện. Cũng chính vì thế, mà các giám mục mới cần đến các linh mục để trợ giúp, để cộng tác. Lời nguyện phong chức linh mục nhắc nhớ bản thân các giám mục và linh mục chúng ta về điều đó: “Lạy Cha, chúng con nài xin cha cũng thương ban cho con người yếu đuối của chúng con được (những) người này để trợ giúp vì chúng con cần có (những) người này để chu toàn sứ vụ tư tế Tông Truyền”.
Đối với anh em linh mục
Sự vâng phục đối với các anh em linh mục khác được thể hiện trong sự tông trọng, yêu mến, hỗ trợ, cộng tác, … để giúp nhau sống trọn vẹn ơn gọi thánh hiến linh mục.
ĐTC nói với chúng ta khi ngài đề cập đến những thách đố với với người làm mục vụ:
- Số 97. họ từ chối lời tiên tri của anh em, họ thanh trừng những người có thắc mắc, liên tục nhấn mạnh đến những sai lầm của người khác và chú ý quá đáng đến vẻ bề ngoài. Họ thu hẹp những gì liên quan đến quả tim của họ vào một chân trời khép kín của nội tại và tư lợi, và do đó họ không học được gì về tội lỗi của họ và không thực sự mở lòng ra cho sự tha thứ. Đây là một sự thối nát khủng khiếp đội lốt một vẻ bề ngoài tốt lành.
- Số 98. Có biết bao nhiêu cuộc chiến tranh trong Dân Chúa và trong các cộng đồng khác nhau! […] vì ham muốn và ganh tỵ, ngay cả giữa các Kitô hữu! […] Ngoài ra, một số người ngưng sống như thành viên thân yêu trong Hội Thánh, để nuôi dưỡng một tinh thần bất hòa. Thay vì thuộc về toàn thể Hội Thánh, với sự phong phú đa dạng của nó, họ thuộc về một nhóm tự cho là mình khác người hoặc đặc biệt.
Và ĐTC nhấn mạnh: “tôi cảm thấy rất đau lòng khi khám phá ra rằng làm sao trong một số cộng đồng Kitô hữu và thậm chí giữa những người được thánh hiến, còn có chỗ cho các hình thức khác nhau của hận thù, chia rẽ, vu khống, nói xấu, trả thù, ghen ghét, mong muốn áp đặt ý tưởng của mình với bất cứ giá nào, để đàn áp tương tự như một cuộc tróc nã phù thủy không thương xót. Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng cho ai với những hành vi như thế? (số 100)
Chúng ta nghĩ gì khi nghe vị cha chung của Giáo Hội nói điều đó? Người cha, người mẹ nào trong gia đình vui cho được, bình an cho cam khi biết anh chị em trong gia đình đấu đá, hận thù, chia rẽ? Giám mục nào yên lòng khi thấy linh mục đoàn của mình có sự phe nhóm, chống đối, hạ bệ nhau? Anh chị em trong gia đình liệu có vui khi gia đình không thể có những bữa cơm ấm cúng tình gia đình? Anh em linh mục có cảm thấy mình thuộc về một gia đình giáo phận khi anh em linh mục không muốn nhìn mặt nhau, không thể ngồi với nhau để cùng dùng bữa, cụng chén rượu huynh đệ với nhau? Chưa kể là trong bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, có những linh mục không muốn cùng dâng lễ, cùng đồng tế với nhau?
ĐTC mời gọi chúng ta: “Hãy coi chừng cám dỗ ghen tị! Chúng ta ở trên cùng một con thuyền và chúng ta đi đến cùng một bến! Chúng ta hãy xin ơn để vui mừng vì các hoa quả của những người khác, mà cũng là của tất cả mọi người” (số 99).
Đối với giáo dân
Sự vâng phục của linh mục đối với giáo dân ngày hôm nay được hiểu chính là cần phải lắng nghe những tâm tình, những thao thức, nguyện vọng của họ và mở lòng mời gọi cũng như đón nhận sự cộng tác của họ trong việc phục vụ của Giáo Hội, cụ thể là trong giáo xứ: “Khi chúng ta cố gắng đọc các dấu chỉ của thời đại trong tình hình hiện nay, chúng ta nên lắng nghe những người trẻ và những người già. Cả hai đều là những niềm hy vọng của mọi dân tộc. Những người lớn tuổi mang với họ ký ức và sự khôn ngoan của kinh nghiệm, là những điều nhắc cho chúng ta đừng lặp lại một cách ngu xuẩn những sai lầm trong quá khứ. Những người trẻ mời gọi cho chúng ta đánh thức và phát huy hy vọng, bởi vì các em mang theo những khuynh hướng mới của nhân loại và mở lòng chúng ta hướng về tương lai, để chúng ta không bám chặt lấy trong nhung nhớ những cơ chế và tục lệ không còn mang lại sự sống trong thế giới ngày nay” (số 108).
Hay như trong số 102, ĐTC nói: “Trong một số trường hợp vì người giáo dân không được đào tạo để đảm nhận trách nhiệm quan trọng, trong những trường hợp khác vì họ không tìm thấy chỗ đứng trong Hội Thánh địa phương […] vì chế độ giáo sĩ trị, là điều gạt họ ra ngoài lề trong việc đi đến những quyết định”.
Đó là lời cảnh tỉnh và nhắc nhở vô cùng hữu ích cho chúng ta khi phục vụ giáo xứ trong bối cảnh ngày nay.
• Khiết tịnh: vấn nạn đang làm đau đầu các mục tử trong Giáo Hội
Một lần nữa, tôi xin được nhắc đến lời thẩm vấn trong ngày chúng ta chịu chức Phó Tế: “(Các) con là người đã sẵn sàng sống bậc độc thân, vậy (Các) con có muốn suốt đời giữ quyết tâm này làm bằng chứng (Các) con, vì Nước Trời, đã dâng hiến tâm hồn mình cho Chúa Kitô, để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại không?” Như vậy, giá trị của sự khiết tịnh trong đời linh mục chính là để hiến dâng và phụng sự Thiên Chúa và con người cách trọn vẹn. Vậy mà trong thập niên vừa qua, vấn nạn về khiết tịnh linh mục nổi lên một cách khủng khiếp ở rất nhiều nơi trên thế giới. Các vấn nạn về khiết tịnh được làm “nổi bật” bởi nạn lạm dụng tình dục trẻ em. Bao nhiêu tờ báo, trang đài, các phóng viên, một số tổ chức nhắm vào vấn nạn lạm dục tình dục trẻ em này.
Mục tin nhanh của trang thông tin The Media Report
(http://www.themediareport.com/fast-facts/) đã đưa ra một thống kê và nhận định về nạn lạm dụng tình dục trẻ em nơi các linh mục so với các trường hợp khác. Theo đó, tỷ lệ phạm tội này nơi các linh mục là rất nhỏ (Ví dụ: tại Mỹ trong năm 2010, số trường hợp nơi linh mục là 10, các trường hợp khác là 63.527).
Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng người ta nhắm vào linh mục, bởi linh mục là những người lãnh đạo, là những người hướng dẫn đức tin, đời sống thiêng liêng, đời sống luân lý. Hơn nữa, vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nạn lạm dụng tình dục đó lại là nạn lạm dụng tình dục trẻ em. Đó là một tội ác kinh khủng.
Vậy chỉ cần có một chấm đen sẽ làm cho tờ giấy trắng bị giảm giá trị, hay nói theo tục ngữ Việt Nam “một con sâu làm rầu nồi canh”.
Như vừa đề cập, vấn nạn về đời sống khiết tịnh của linh mục không chỉ là vấn nạn lạm dụng tình dục trẻ em (vấn nạn này được/bị đẩy lên cao, được sử dụng để tấn Công Giáo Hội) nhưng nó còn có những diện mạo khác, mà đáng lo ngại nhất chính là não trạng thoáng về tính dục. Não trạng này bị tác động bởi thuyết tương đối. Cho nên, đời sống khiết tịnh của linh mục đang bị rình rập và đe dọa; nếu không tỉnh táo, chúng ta sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, sẽ ngã chiều theo sự thúc đẩy của bản năng tính dục nơi mỗi người. Như thế, sự hiến dâng của chúng ta cho Chúa Kitô và tha nhân chỉ là một sự dâng hiến gian dối; chúng ta đánh lừa Thiên Chúa và tha nhân bởi trước mặt mọi người thì tỏ ra dâng hiến, nhưng đằng sau thì thu vén, lấy lại hay đánh cắp những gì đã hứa dâng cho Thiên Chúa và tha nhân. Một khi sống như thế, chúng ta sẽ không còn đặt hết tình yêu, tâm trí, khả năng vào việc phụng sự Thiên Chúa qua Giáo Hội, qua giáo phận, qua các thành viên trong giáo xứ mà chúng ta được trao.
Lối sống hai mặt này đã bị ĐTC Phanxico lên án: “Tinh thần thế tục là tinh thần nấp đằng sau những vẻ đạo đức bề ngoài và ngay cả tình yêu đối với Hội Thánh, để tìm vinh quang và phúc lợi cho con người thay vì vinh quang của Chúa. […] Đây là một cách tinh vi để tìm “lợi ích riêng của mình chứ không phải của Đức Giêsu Kitô” (Pl 2:21). Nó có nhiều hình thức, tùy thuộc vào loại người và hoàn cảnh mà nó xâm nhập. Vì nó liên quan đến việc tìm kiếm vẻ bề ngoài, nên không luôn luôn đi kèm với các tội công khai, và nhìn bề ngoài mọi sự đều có vẻ như thường” (số 93).
ĐTC còn nói nặng hơn: “Chúng ta xấu hổ vì những chiến bại của các giám mục, linh mục, giáo dân […] Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng lời Chúa thì họ không có… Tội nghiệp dân! Chúng ta không cho họ bánh sự sống để ăn, chúng ta không cho họ chân lý! Thậm chí chúng ta cho họ ăn bánh bị nhiễm độc, bao nhiêu lần!” (bài giảng lễ ngày 16/1/2014 tại nhà nguyện Martha).
Bên cạnh đó, phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại, một cú click chuột, vào một trang mạng nào đó trên màn hình, bao nhiêu sự hiện ra cho chúng ta một cách nhanh chóng. Đây là một thuận lợi cũng như thách thức cho đời sống khiết tịnh của chúng ta. Nó thuận lợi, tích cực vì nó giúp chúng ta tiếp cận với nhiều hình thức, lối đường tu đức khác nhau; ngược lại, nó sẽ giúp chúng ta tiếp cận với nhiều điều không lành mạnh, sẽ kéo chúng ta xuống bùn.
Trong bài nói chuyện vào ngày 5/4/2013, khi đề cập đến đời sống khiết tịnh của linh mục, cách riêng về vấn nạn lạm dụng tình dục, ĐTC Phanxicô phát biểu nói: “nếu không vượt thắng được, thì nên quyết định ra đi (rời bỏ đời sống giáo sĩ). Đây là một lời đề nghị thẳng thắn để mỗi chúng ta suy xét, cảnh tỉnh về kỷ luật đời sống cá nhân, sự trong sáng của các mối tương quan …, trong khi phục sự Chúa nơi cộng đoàn giáo xứ của mình.
• Cầu nguyện
Một trong những bệ đỡ vô cùng hữu hiệu cho sự trung thành và dấn thân phục vụ là sự cầu nguyện. Ý thức cầu nguyện liên lỉ, ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng giây phút, trong mỗi hành động hay công việc sẽ là nguồn lực khiến chúng ta trao hiến cách quảng đại hơn. Nếu thiếu đi sự cầu nguyện, những điều chúng ta làm có thành công đến đâu, tất cả chỉ là cái mác bên ngoài, chúng ta chỉ như một cái máy, một cái xác không hồn, làm mà không biết mục đích và điểm đến. Đến một lúc nào đó, cái máy không còn chất bôi trơn (dầu – ân sủng, sự cầu nguyện), nó sẽ bị hư hỏng và có thể phải bị vất đi hay bán sắt vụn.
Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng cho ta những nguyên nhân ảnh hưởng đến đời sống cầu nguyện: Nơi những người làm mục vụ đang diễn ra việc “sa mạc hóa” về tâm linh (x. số 86), “họ hành động như thể không có Thiên Chúa, quyết định như thể không có người nghèo, mơ ước là không có tha nhân, làm việc như thể không có những người chưa nhận được lời rao giảng Tin Mừng” (số 80).
Chúng ta có đang rơi vào tình trạng “sa mạc hóa” trong tâm hồn, trong đời sống thiêng liêng hay không? Mỗi ngày, chúng ta dành thời gian và cử hành Thánh lễ, các giờ kinh Phụng Vụ, các giờ đạo đức, đặc biệt là giờ nguyện ngắm, cầu nguyện cá nhân ra sao? Anh chị em giáo dân, người nghèo, những người đang cần đến chúng ta có là đối tượng chúng ta “trò chuyện” với Thiên Chúa không? Trong cuộc “trò chuyện” với Thiên Chúa, chúng ta nói ra sao? (vội vàng, chóng vánh, kể lể, từ tốn, lắng nghe,. ..?)
Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời của ĐTC Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (số 109) để thấy rằng, dù có nhiều thách đố, nhưng chúng ta đừng bao giờ để giáo xứ hay bản thân rơi vào đêm tối của sự bi quan: “Những thách đố hiện hữu là để được khuất phục. Chúng ta phải thực tế, nhưng không làm mất niềm vui, sự mạnh dạn và sự dấn thân đầy hy vọng”.
Bài 4: NGƯỜI KITÔ HỮU GIÁO DÂN TRONG GIÁO XỨ:
QUYỀN VÀ SỰ CỘNG TÁC (Christifideles Laici)
Tin Mừng (Ga 15:4-8): Anh em hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Ðiều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
Trong tâm tình của năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ và cộng đoàn, là người đứng đầu, lãnh đạo giáo xứ, việc chúng ta đọc lại giáo huấn của Giáo Hội về người giáo dân là một điều rất chính đáng và phải đạo. Nếu chúng ta không biết rõ, ý thức đủ về vị trí của người giáo dân, chúng ta làm sao có thể thúc đẩy, dẫn đầu giáo xứ thực hiện công cuộc Tân Phúc Âm hóa.
Cho nên, trong bài chia sẻ giờ đây, dựa trên tài liệu chính yếu là tông huấn Kitô hữu giáo dân, chúng ta cùng nhau tái khám phá và khẳng định lại vị thế của người giáo dân trong Giáo Hội nói chung, và trong giáo xứ nói riêng, qua các đề mục: Người giáo dân
- Là phần tử của Cây Nho
- Tham gia sứ mạng Hội Thánh
- Quyền đòi hỏi mục tử của mình (các linh mục)
I. Là phần tử của Cây Nho
1. Phần tử của Cây Nho
Tông huấn Christifideles Laici- Kitô hữu giáo dân trình bày cho chúng ta dung mạo người giáo dân trong Giáo Hội. Khởi đi từ lời Đức Kitô khi Người dùng hình ảnh cây nho để nói đến sự kết hợp nên một trong Người của những ai tin vào Người. Theo đó, người giáo dân không chỉ là người thợ trong vườn nho, nhưng đích xác hơn, đúng hơn, họ là chi thể, là tế bào của cây nho; và nếu xét trên phương diện Giáo Hội học, họ là thành phần của Giáo Hội, là Giáo Hội: - Số 8. Hình ảnh cây nho trong Thánh Kinh được dùng nhiều cách và nhiều ý nghĩa. Đặc biệt nó được dùng để diễn tả mầu nhiệm Dân Chúa. Theo ý nghĩa này, người giáo dân không chỉ là những người thợ làm việc trong vườn nho, nhưng họ là một phần tử cây nho. Người giáo dân chỉ nhận diện mình, nhận chân bản tính nguyên thủy của mình bên trong mầu nhiệm của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông ơn gọi cũng như sứ mệnh trong Giáo Hội và thế giới của người giáo dân cũng chỉ định nghĩa được bên trong phẩm giá này.
- Số 9. Để trả lời câu hỏi nguời tín hữu giáo dân là ai, Công Đồng […] còn thêm: "Danh hiệu Giáo dân có nghĩa là tất cả các Kitô hữu không thuộc thành phần chức thánh hay bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được rửa tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, họ là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa trần thế theo nhiệm vụ riêng của mình. Đức Piô thứ XII đã quả quyết: "Các tín hữu nói một cách rộng hơn, là các giáo dân là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáo Hội mà là Giáo Hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Họ là Giáo Hội".
Với khẳng định của Đức Piô XII, ta thấy diện mạo của người giáo dân thật vĩ đại, vai trò của họ thật to lớn và mang tính sống còn cho sứ mạng của Giáo Hội. Đây là điều anh em linh mục chúng ta cần phải nhớ và ý thức cho đủ. Là những người lãnh đạo, đứng đầu cộng đoàn, những công việc mục vụ nhiều khi làm cho chúng ta tưởng rằng chúng ta là những người chiếm vị trí số 1 trong đời sống của Giáo Hội. Đúng ra, chúng ta là những người được kêu gọi và cất nhắc lên từ giữa lòng dân Chúa để phục vụ dân Chúa trên phương diện mục vụ bí tích, hướng dẫn thiêng liêng,…Chúng ta cũng chỉ là một phần tử trong Dân Thánh. Những người đang sống, đang thực thi và làm chứng cho giá trị Tin Mừng và giáo huấn của Đức Giêsu qua Giáo Hội là anh chị em giáo dân. Từng ngày, từng giờ, từng phút họ phải chiến đấu trong cuộc chiến thiêng liêng để sống đúng giá trị Tin Mừng trong chính cuộc sống đầy thử thách, cạm bẫy của cuộc sống. Linh mục được mời gọi luôn đồng hành, tôn trọng, yêu mến anh chị em giáo dân, những người mà nhiều khi chưa được chúng ta đón nhận và tôn trọng cho đủ.
2. Tham dự 3 chức vụ: Tư Tế - Vương Đế - Ngôn Sứ
Được tháp nhập vào cây nho Giêsu, gia nhập Giáo Hội qua bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu tham dự vào ba chức vụ của Đức Kitô, Đấng là đầu Giáo Hội và là Cây Nho:
- Số 14: Sự tham gia của giáo dân vào ba chức vụ của Chúa Giêsu: tư tế, ngôn sứ, vương đế bắt nguồn từ việc xức dầu của phép Rửa Tội, được phát triển nhờ phép Thêm Sức, được nâng đỡ và kiện toàn trong phép Thánh Thể. Đây là một sự tham gia ban cho mỗi tín hữu giáo dân, nhưng với tư cách là họ tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô. Bởi vì Chúa Giêsu làm cho Giáo Hội được sung túc bằng các ân huệ của mình, vì Giáo Hội là Thân thể và là Hiền thê của Ngài. Như thế mỗi người được tham gia vào ba sứ vụ của Đức Kitô chỉ vì họ là phần thân thể của Giáo Hội, như Thánh Phêrô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội " là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa," (1Pr 2:9). Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Kitô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Augustinô viết:"Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục duy nhất."
Số 14 của Tông huấn giải thích tiếp cho chúng ta tại sao Kitô hữu lại được tham dự vào 3 chức vụ của Đức Kitô:
- Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở cho chúng ta về về sứ mệnh của Đức Kitô là Tư Tế, Ngôn Sứ, Vương Đế vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Tất cả mọi ngườỉ, toàn dân Thiên Chúa tham gia vào ba sứ mệnh này:
- Các tín hứu giáo dân tham gia vào chức vụ tư tế, đó là trách vụ Chúa Giêsu đã dùng để hiến tế mình trên Thánh Giá và còn tiếp tục hiến tế mình trong nghi lễ Phép Thánh Thể để làm vinh danh Đức Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại. Được ghép vào Đức Giêsu Kitô, những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được kết hợp với Ngài bằng việc dâng hiến chính mình và các hoạt động của mình (Rm 12:l-2). Trong Thánh Lễ, các của lễ này hiệp với Thánh Thể được dâng lên cho Đức Chúa Cha với tâm hồn sất sắng. Như thế người giáo dân thánh hiến cho Thiên Chúa chính cả trần thế này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng một đời sống thánh thiện.
- Việc tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô làm cho người giáo dân có đủ khả năng và dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. […] Hơn nữa, họ được mời gọi chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời đại.
- Người tín hữu giáo dân tham gia vào chức vụ vương giả của Đức Kitô, và được Đức Kitô kêu gọi để phục vụ và loan truyền Ngài trong lịch sử. Họ sống vương quyền Kitô hữu trước tiên bằng cách chiến đấu để chiến thắng thế gian tội lỗi (Rm 6:12) ngay trong chính mình, rồi hiến dâng mình để phục vụ trong công bằng và bác ái.
Chúng ta thấy, ba chức vụ mà anh chị em giáo dân tham dự, thực thi và sống mang một giá trị thật cao đẹp, thật thánh thiêng. Bởi vì, chính trong sự kết hợp liên lỉ, duy nhất trong thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, nơi Cây Nho, tất cả mọi hành động, công việc, lời nói của anh chị em giáo dân trở nên một của lễ sống động, tinh tuyền và thánh thiện mang lại ơn cứu độ cho nhân loại và cho chính bản thân người anh chị em đó.
Điều này nhắc nhớ anh em linh mục chúng ta hai điều:
Thứ nhất, chúng ta hãy giúp anh chị em giáo dân ý thức được việc cử hành hy tế Tạ Ơn cách sống động trong Phụng Vụ và trong chính đời sống thường ngày. Với những lao nhọc, hy sinh, vất vả khi sống đúng với giá trị Tin Mừng, họ đang cử hành hy tế Tạ Ơn cách sống động nơi môi trường của mình; để rồi, với hy tế Tạ Ơn trong Phụng vụ, một lần nữa, họ dâng lên Thiên Chúa tất cả những ưu tư, bận tâm, niềm vui, nỗi buồn của kiếp người trong đĩa và chén Thánh mà linh mục dâng trên bàn thờ.
Thứ hai, đối với chính bản thân chúng ta, khi chúng ta nâng bánh và rượu lên mà nói “này là Mình Thầy; này là Máu Thầy”, cũng là lúc chúng ta thực sự được mời gọi hãy hiệp với Đức Kitô dâng chính mình lên cho Thiên Chúa, cam kết dâng hiến chính mình, trao ban chính mình cho anh chị em giáo dân. Để có thể sống như tâm tình của Thánh Ignatio Antiokia: “Cuộc đời mình là tấm bánh cho mọi người ăn”.
3. Nên thánh trong ơn gọi trần thế
Trước hết, chúng ta biết rằng Giáo Hội có sứ mạng mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho muôn người. Mọi thành phần của Giáo Hội đều chia sẻ sứ mạng đó, anh chị em giáo dân cũng vậy, không ngoại lệ. Tuy nhiên, sự tham dự vào sứ mạng của người giáo dân mang một nét đặc thù riêng. Số 15 của tông huấn dạy chúng ta:
- Nhờ phẩm giá chung do phép Rửa Tội, người tín hữu giáo dân là người đồng trách nhiệm với tất cả các thừa tác viên có chức thánh, với các tu sĩ nam nữ, đối với sứ mệnh của Giáo Hội.
- Nhưng phẩm giá chung do phép Rửa Tội nơi người tín hữu giáo dân có một hình thái làm cho họ khác biệt, nhưng không chia cách họ khỏi linh mục và tu sĩ. Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả hình thái này chủ tại trong tính cách trần thế. Tính cách trần thế là đặc tính riêng biệt của giáo dân.
Số 15 của tông huấn tiếp tục nói với chúng ta rằng dù đặc tính trần thế là đặc tính nằm ở tận bản tính thâm sâu của Giáo Hội, bởi vì nó được cắm rễ sâu trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng Giáo Hội không thuộc về trần thế. Giáo Hội được sai đi để tiếp nối công trình Cứu Chuộc của Đức Kitô. Công trình này chính là mang lại ơn cứu rỗi cho con người và canh tân những trật tự thế giới.
Như vậy, đối với anh chị em giáo dân, bởi đặc tính trần thế của mình, trần thế là nơi họ được Thiên Chúa mời gọi và là nơi họ mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em, trong chính đặc tính trần thế của mình. (tiếp theo số 15)
- Các hình ảnh trong Phúc âm nói về muối, ánh sáng và men, mặc dầu có ý nói về tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, nhưng áp dụng cách nêng cho người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang nặng ý nghĩa tuyệt vời, bởi vì không những nó diễn tả việc hội nhập sâu xa và tham gia toàn diện của các người tín hữu giáo dân trên mặt đất, vào sự sống của thế giới, của cộng đồng nhân loại, nhưng nhất là nói lên nét mới mẻ và độc đáo của một sự hội nhập và tham gia để loan Tin Mừng Cứu Độ.
Không dừng lại ở khía cạnh thánh hóa, mang ơn cứu độ cho thế giới với đặc tính trần thế của mình, người Kitô hữu giáo dân còn được mời gọi hãy nên thánh trong khi thực thi sứ vụ thánh hóa thế giới của mình. Do đó, trần thế là nơi người giáo dân nên thánh, là bàn thờ để anh chị em giáo dân cử hành hy tế tạ ơn trong đời sống thường nhật:
Ơn gọi nên thánh phải được người tín hữu giáo dân nhận thức và sống, không phải như một bổn phận đòi hỏi và không thể lẫn tránh, nhưng một dấu chỉ chói sáng của tình yêu vô biên của Chúa Cha là Đấng đã tái sinh họ trong đời sống thánh thiện. […] Đồng thời, ơn gọi nên thánh lại được liên kết mật thiết với sứ mệnh và trách nhiệm được trao phó cho người tín giáo dân trong Giáo Hội và giữa thế giới. Bởi vì, sự thánh thiện đang sống trong tín hữu phát xuất từ việc tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, tự nó cũng biểu tượng sự đóng góp tiên khởi và căn bản vào việc xây dựng Giáo Hội như là "việc các thánh thông công".
II. Quyền tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội (Giáo xứ)
Là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội Chúa Kitô, người Kitô hữu được tham dự vào ba chức vụ của Người mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Giờ đây, chúng ta khám phá rõ nét hơn hình ảnh người giáo dân khi chúng ta bàn đến quyền tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội nói chung, cách riêng là Giáo xứ. Quyền này trình bày cách cụ thể việc người giáo dân thông dự vào ba chức vụ của Đức Kitô ra sao.
Trước hết, chúng ta cần khẳng định với nhau rằng “Giáo xứ, nghĩa là "mầu nhiệm" của Giáo Hội hiện diện và tác động trong Giáo xứ. Mặc dầu đôi lúc Giáo xứ không có nhiều người cũng không đầy đủ phương tiện, có khi Giáo xứ lại tản mác trên những địa hạt rộng lớn, hay lẩn khuất giữa những khu phố tân thời đông đúc và lộn xộn. Nhưng Giáo xứ không phải là một cơ cấu, một địa hạt, hay một ngôi nhà, nó là "một gia đình của Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có một linh hồn", là "mái gia đình, đầy tình huynh đệ và mở rộng đón tiếp mọi người", là "cộng đồng các tín hữu. (số 26)
Vì vậy, trong gia đình, cộng đoàn đó, mọi người đều được mời gọi cộng tác làm cho gia đình đó, cộng đoàn đó tăng trưởng trong ân sủng, trong tình yêu và sự hiệp thông.
Trong tinh thần đó, chúng ta cũng bàn về 3 phương diện người giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội:
- Quản trị giáo xứ
- Lãnh nhận các tác vụ
- Lập và tham gia các nhóm, hội đoàn
1. Quản trị giáo xứ
Phương diện đặc biệt để nói lên việc người giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội chính là việc họ tham dự vào việc quản trị giáo xứ. Điều này bắt nguồn từ việc họ là tế bào của Thân Thể Chúa Kitô, chi thể của Giáo Hội, họ có quyền được tham dự vào việc quản trị thân thể mà mình là một thành phần. Và chúng ta cần nhớ, hoạt động tham gia quản trị của người giáo dân cần thiết đến nỗi nếu không có sự tham gia đó, các việc tông đồ của các vị chủ chăn lắm lúc không thể đạt được kết quả mỹ mãn (x. số 27).
2. Lãnh nhận các tác vụ
Quyền được lãnh nhận các tác vụ được khởi đi từ chính bí tích Rửa Tội, vì lãnh nhận bí tích Rửa Tội, người giáo dân tham dự vào các chức vụ của Đức Kitô. Sự tham dự vào đời sống Giáo Hội qua việc lãnh nhận các tác vụ cho thấy mối dây hiệp thông, sự hiệp nhất huynh đệ trong Giáo Hội, giáo xứ:
- Số 20: Người tín hữu giáo dân "không được quyền tự cô lập mình với cộng đoàn, nhưng họ phải luôn sống trong sự chia sẻ với anh em khác trong tình huynh đệ sâu đậm, trong niềm vui vẻ bình đẳng, và hợp tác với nhau để kho tàng gia tài mênh mông đã được nhận lãnh được sinh hoa kết quả. […]Số 23. Sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội giữa thế giới được thực hiện không chỉ nhờ các vị thừa hành đã nhận lãnh bí tích Truyền chức Thánh, nhưng cũng nhờ các tín hữu giáo dân; vì họ đã được chịu phép Rửa Tội và được kêu gọi đặc biệt, để tham dự theo mức độ của mỗi người vào chức vụ tư tế, rao giảng và vương giả của Đức Kitô. […] Bởi thế, khi cần thiết hoặc vì lợi ích của Giáo Hội đòi buộc, các chủ chăn có thể theo quy chế dự định trong bộ luật chung, giao phó cho tín hữu giáo dân một số nhiệm vụ hay chức vụ. Những nhiệm vụ hay chức vụ này vẫn (tuỳ thuộc) với thừa tác vụ chủ chăn của các ngài, nhưng không cần chức Thánh mới thi hành được.
Điều này được quy định thành luật. Giáo Luật điều 230 xác định:
(2) Các giáo dân có thể được chỉ định tạm thời đảm nhận việc đọc sách trong các việc phụng vụ. Cũng thế, tất cả các giáo dân có thể thi hành những công tác của người chú giải, ca trưởng hoặc những công tác khác theo quy tắc luật định.
(3) Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi và thiếu thừa tác viên, thì các giáo dân dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số việc, như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa tội và cho rước lễ theo các quy tắc luật định.
Như vậy, là người lãnh đạo giáo xứ, chúng ta hãy cỗ võ sự tham gia của anh chị em giáo dân vào các công việc giáo xứ và công việc mục vụ mà không nhất thiết phải cần đến chức thánh (như đã được gợi ý trong Giáo luật và tông huấn). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng chúng ta không được phép khoán trắng cho anh chị em giáo dân, nhưng chúng ta cần phải luôn đồng hành với họ trong các trách vụ họ thực hiện, vì chúng ta là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về đời sống của giáo xứ trước mặt Chúa, Giáo Hội. Đó mới là điều Giáo Hội mong muốn nơi mỗi linh mục chúng ta.
3. Lập và tham gia hội đoàn
Một phương diện khác nói lên quyền của người giáo dân trong việc quản trị Giáo Hội, giáo xứ chính là việc “lập và tham gia hội đoàn”. Quyền này cho thấy trách nhiệm và sự trưởng thành của người giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội.
- Số 29: Trước tiên phải công nhận là người tín hứu giáo dân có quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội. Quyền tự do này là một quyền lợi thật, nó không phải chỉ là một hình thức "nhân nhượng" của giáo quyền mà là hậu quả đương nhiên của phép Rửa Tội.
Đây là một quyền tự do được công nhận và bảo đảm do giáo quyền, nhưng phải luôn luôn thi hành trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Do đó, quyền lợi của người tín hữu giáo dân được tự do hội họp là một quyền lợi nối kết mật thiết với đời sống chung và sứ mệnh chính của Giáo Hội.
Một điều đặc biệt chúng ta có thể nhận ra rằng quyền này cũng là một công cụ nên thánh của người giáo dân. Các phong trào giáo dân như Focolare, Legio, Cursillo,… đã lan rộng trên thế giới (ngay cả tại Việt Nam), tỏ lộ ra diện mạo tươi đẹp của Giáo Hội qua sự thánh thiện người giáo dân.
Trong các giáo xứ ở đất nước chúng ta hiện nay, các phong trào giáo dân cũng đang được quan tâm và phát triển. Một số phong trào như gia đình trẻ, các hội bác ái, các hội thân hữu, các nhóm ve chai, …cho thấy sự năng động, sáng kiến của người giáo dân trong sự nỗ lực đem Tin Mừng đi vào cuộc sống.
III. Quyền được đòi hỏi nơi các linh mục
Thật sự mà nói, chúng ta thường quên khía cạnh giáo dân có quyền được đòi hỏi nơi các linh mục. Chúng ta thường chỉ nhớ chúng ta có quyền này, quyền kia và người giáo dân phải tôn trọng, lắng nghe và tuân phục chúng ta. Do đó, việc lãng quên vai trò người tôi tớ phục vụ nơi thừa tác vụ linh mục hay giám mục của chúng ta là điều dễ hiểu. Chúng ta nói cho giáo dân về sự dấn thân phục vụ nhau thì rất hay nhưng ngay bản thân chúng ta, chúng ta nhiều lúc không ý thức Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên người phục vụ giữa dân Người: “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ”, một sự phục vụ hạ mình như người đầy tớ rửa chân cho ông chủ (ĐG rửa chân các môn đệ)
Đã là người phục vụ, dĩ nhiên, người “tôi tớ” phải đáp ứng những đòi hỏi của “người chủ”; nói khác đi, giáo dân có quyền đòi hỏi nơi các cha xứ của mình.
Ở đây, tôi chỉ giới hạn trong 3 khía cạnh mà người giáo dân có thể đòi hỏi nơi linh mục chúng ta. Ba khía cạnh này nếu chúng ta có thể chu toàn và thực hiện đầy đủ, chúng ta có thể nên thánh trong ơn gọi linh mục.
1. Sự thánh thiện
Trên hết và trước hết, sự thánh thiện luôn là một đòi buộc chung đối với những ai thuộc về dân thánh. Sự đòi buộc đó còn ngặt hơn đối với những ai thực thi vai trò thánh hóa trong chức linh mục thừa tác. Sắc lệnh về đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (số 12) đã nhắc nhở nghĩa vụ phải sống thánh thiện nơi các linh mục: “Nhờ Bí Tích Truyền Chức Thánh, các Linh Mục nên giống Chúa Kitô Linh Mục, để như là thừa tác viên của Ðầu Nhiệm Thể và như những cộng tác viên của hàng Giám Mục, các ngài xây dựng và kiến thiết toàn Thân Người là Giáo Hội. Ðành rằng ngay từ khi được thánh hiến nhờ phép Rửa Tội, như mọi Kitô hữu, các ngài đã lãnh nhận dấu tích và ân huệ của ơn gọi và ơn sủng cao trọng, dù bản tính nhân loại yếu hèn, các ngài vẫn có thể theo đuổi và phải theo đuổi sự hoàn thiện, đúng như lời Chúa phán: "Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Ðấng Hoàn Thiện" (Mt 5:48). Nhưng các Linh Mục còn có lý do đặc biệt phải đạt tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận Chức Thánh là các ngài được thánh hiến cho Thiên Chúa theo một cách thức mới: các ngài trở nên những khí cụ sống động của Chúa Kitô Linh Mục Ðời Ðời, để qua các thời đại, các ngài có thể tiếp tục công việc kỳ diệu của Ðấng đã lấy quyền năng cao cả mà tái lập toàn thể xã hội con người”
Như vậy, tự bản chất, sự thánh thiện là một điều đòi buộc đối với linh mục chúng ta. Việc đòi hỏi của người giáo dân về việc các mục tử sống thánh thiện không phải là một yêu sách mới mẻ, không phải là một đòi hỏi quá đáng nếu như họ nói lên điều đó. Chúng ta nghĩ gì khi chúng ta vẫn rao giảng và mời gọi người khác sống thánh thiện mà chính bản thân lại không nỗ lực sống sự trọn hảo, điều mà chúng ta vẫn nói? Chúng ta là linh mục, là một Chúa Kitô khác, vậy thì thật là mâu thuẫn nếu cuộc đời, những việc làm, sự phục vụ của chúng ta trong chức linh mục thừa tác lại không bộc lộ được sự thánh thiện của người môn đệ Chúa Kitô.
Giáo luật điều 276 đã tiên liệu và mời gọi chúng ta như sau (đây không chỉ là Giáo Hội, nhưng cụ thể là chính anh chị em giáo dân của chúng ta đang muốn chúng ta):
(1) Trong đời sống, giáo sĩ phải lo theo đuổi sự thánh thiện vì một lý do riêng, xét vì do việc lãnh thánh chức, họ được thánh hiến cho Thiên Chúa với tước hiệu mới là những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa hầu phục vụ cho Dân Ngài.
2. Tri thức
Không thể cho điều chúng ta không có. Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, Giáo Hội và nhân loại cần có những mục tử không phải nổi tiếng về sự thông thái nhưng cần những mục tử có sự hiểu biết và có tấm lòng – đức ái mục tử, đức ái theo gương mẫu Đức Kitô: “Trong nghi lễ truyền chức, Ðức Giám Mục khuyên bảo các Linh Mục hãy "trưởng thành trong sự hiểu biết" và lời giáo huấn của các ngài phải là "linh dược thiêng liêng cho Dân Chúa”. Nhưng kiến thức của các thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì nó phát xuất từ nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì vậy, kiến thức đó trước hết được rút ra từ việc đọc và suy gẫm Sách Thánh, nhưng nó cũng được nuôi dưỡng hữu hiệu bằng việc nghiên cứu những tài liệu của các Giáo Phụ, các Thánh Tiến Sĩ và các tài liệu khác của Thánh Truyền. Ngoài ra, để trả lời thỏa đáng những vấn đề do người thời nay nêu lên, các Linh Mục phải hiểu biết cho thấu đáo những tài liệu của Quyền Giáo Huấn, nhất là của các Công Ðồng và của các Ðức Giáo Hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần học thời danh nhất và đã được thừa nhận” (PO số 19).
Không dừng ở đó, PO số 19 mời gọi các linh mục hãy tự đào tạo chính mình cách liên tục để có thể đối diện với những thách đố của thời đại: “Thực ra, trong thời đại chúng ta, văn hóa nhân loại và ngay đến những khoa học thánh cũng tiến thêm một bước mới, nên khuyên các Linh Mục hãy hoàn bị kiến thức của mình về Thiên Chúa và về nhân loại một cách thích hợp và liên tục, và như thế, các ngài tự chuẩn bị để đối thoại với những người đương thời một cách thích hợp hơn.”
Ngay cả Giáo luật cũng đòi buộc như thế: Điều 279
(1) Giáo sĩ cần tiếp tục học các môn thánh khoa, cả sau khi đã chịu chức Linh Mục, và theo sát đạo lý vững chắc dựa trên Kinh Thánh, và đã được tiền nhân lưu lại và được tiếp nhận chung trong cả Giáo Hội, như đã xác định bởi các văn kiện do Công Ðồng và Ðức Giáo Hoàng; họ nên tránh những trào lưu rỗng tuếch và những khoa học giả hiệu.
Vậy, người giáo dân họ đang cần có những linh mục phải có sự hiểu biết, tri thức nhất định nào đó để có thể đối thoại với thế giới ngày nay. Những tiếng xầm xì, ca thán, phản ứng của anh chị em giáo dân về các bài giảng, những quyết định, thái độ hay hành động của chúng ta phản ánh quyền đòi hỏi của họ về chúng ta phải có một sự hiểu biết, một nền tảng tri thức phù hợp với Giáo Huấn và thực tiễn xã hội. Liệu chúng ta có can đảm để nhìn lại chính mình, để liên tục đào luyện chính mình, liên tục tự trau dồi tri thức, tự học hay không? Hay chúng ta nghĩ rằng đã tốt nghiệp chương trình ĐCV là đủ rồi, không cần phải học gì thêm?
3. Cử hành các bí tích
Điều cuối cùng liên quan đến việc người giáo dân có quyền đòi hỏi nơi linh mục chúng ta chính là việc được lãnh các bí tích và được hiểu biết về Thiên Chúa. Đây là trách nhiệm của chúng ta, các linh mục. Chúng ta phải hết sức để làm tròn trách nhiệm này. Tôi xin nhắc lại, đây là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta được TC chọn gọi và đặt lên để thực thi vai trò phục vụ, không phải là để được cung phụng, không phải là để trở nên những người thi ân, những con người lãnh đạo theo phong cách xin-cho. Không, chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận cử hành các bí tích cho anh chị em giáo dân, vì phần rỗi của họ và một cách nhưng không.
Vậy anh em linh mục thân mến, một lần nữa, chúng ta cần nhớ: Người giáo dân có địa vị quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Họ có quyền đòi hỏi những quyền lợi của họ được bắt nguồn từ chính trong bản chất của Giáo Hội, trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Còn linh mục chúng ta, những con người được Thiên Chúa kêu gọi và cất nhắc lên từ giữa anh chị em giáo dân, chúng ta hãy thực thi bổn phận của mình một cách trọn hảo nhất, đừng trở nên những cán bộ, những người thuộc một đẳng cấp ưu tuyển, những người ban ơn.
Chúng ta hãy kiên nhẫn, nhẹ nhàng trong việc dạy bảo, chỉ dẫn anh chị em giáo dân. Bởi lẽ, giáo dân không được học biết như chúng ta. Chúng ta không nên cư xử hà khắc, đòi hỏi họ như những người đã được học, được đào tạo. Chính khi họ còn thiếu sót, còn chưa hiểu biết lại chính là lúc cần chúng ta thể hiện vai trò là người hướng dẫn, vai trò ngôn sứ.
Chúng ta hãy quảng đại, đừng làm khó dễ hay đòi hỏi về vật chất. Chúng ta phải ý thức rằng thừa tác vụ linh mục là để phục vụ, để trao ban; chức linh mục thừa tác không phải là một công cụ để chúng ta thu quén cho bản thân (Ðiều 848: Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.)
Ghi chú: PO: Sắc lệnh về đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis
Bài 5: PHỤC VỤ BÁC ÁI
Giáo xứ hướng đến truyền giáo
Mt 25:31-46. Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?" Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom". Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy". Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời".
I. Bác ái - yếu tố thuộc về bản chất của Giáo Hội
1. Bác ái – sự đòi buộc của Tin Mừng
Quan tâm, trợ giúp, nâng đỡ những ai rơi vào cảnh túng thiếu, khó khăn không chỉ về vật chất nhưng còn về phương diện tinh thần, thiêng liêng, là một trong những chủ đề quan trọng và trải dài trong Kinh Thánh.
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta thấy Thánh Kinh đã đề cập rất nhiều đến vấn đề bác ái trong đời sống, rách riêng là quan tâm đến những người nghèo của Thiên Chúa, những bà góa, trẻ em mồ côi hay khách ngoại kiều:
- (Xh 22:20-22.24-26) “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
- (Hc 4:1-5) Con ơi, đừng tước đoạt miếng cơm manh áo của người nghèo, đừng để kẻ khốn cùng luống công chờ đợi. Ðừng làm cho kẻ đói phải buồn tủi, đừng chọc tức ai khi họ phải ngặt nghèo. Một tâm hồn đang bực bội, con đừng làm khổ thêm, đừng bắt kẻ túng thiếu đợi lâu mới được con giúp đỡ. Kẻ khốn khổ nài xin, con đừng từ chối, gặp người nghèo, con đừng ngoảnh mặt đi. Ðừng làm ngơ không nhìn đến kẻ thiếu thốn, kẻo nên cớ cho người ta nguyền rủa con.
Như vậy, tiêu chuẩn đánh giá sự trung thành với Lề Luật, trung thành và kính sợ Thiên Chúa, chính là việc quan tâm và đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho người nghèo. Đó là trách nhiệm của những người thuộc về dân Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, cách riêng 4 cuốn Tin Mừng, lời mời gọi hãy biết sống bác ái, làm việc lành, giúp đỡ, quan tân đến những người “anh em bé nhỏ”, những người bị loại trừ khỏi xã hội, được Đức Giêsu không chỉ nhắc đến nhưng còn thể hiện ra rất nhiều: đón tiếp trẻ em, những người tội lỗi, những con người bị cộng đoàn, bị xã hội kết án, …
Cách riêng, đoạn Tin Mừng chúng ta vừa lắng nghe, đoạn kết của chuỗi các bài giảng về thời cánh chung, nhắc nhớ chúng ta về mối bận tâm đến những người bé nhỏ nghèo hèn của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng này đang đặt câu hỏi và tra vấn những ai thuộc về dân Thiên Chúa, cách riêng là giáo xứ và cá nhân linh mục về thái độ quan tâm đến người nghèo. Từng câu, từng chữ như những tia sáng đang chiếu vào các hoạt động mục vụ và từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta đã cư xử ra sao khi đối diện với những thân phận nhỏ bé trong xã hội, trong Giáo Hội ngày nay? Liệu chúng ta đã thể hiện được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, lòng thương xót vô ngần của Ngài dành cho con người hay không, đặc biệt nơi những người kém may mắn trong giáo xứ của chúng ta?
Nói khác đi, sứ điệp Thiên Chúa (Cựu ước cũng như Tân ước) dành cho con người là sứ điệp của tình thương được thể hiện cách cụ thể qua những hành động bác ái thiết thực, tình yêu phải được “nhập thể” qua những hành động, lối cư xử của những thành viên trong đại gia đình Thiên Chúa đối với nhau và đối với tất cả mọi người.
2. Bác ái thuộc về bản chất của Giáo Hội
Trong tông huấn Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Thánh Cha Benedicto đã viết: “Với việc thiết lập nhóm bảy người này [bảy phó tế], công tác "diakonia" - việc phục vụ chung, có tổ chức, của tình yêu tha nhân - từ nay được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính Hội Thánh”. (DCE 21)
Trong phần dẫn nhập của tự sắc Intima Ecclesia Natura (Bản chất thâm sâu của Giáo Hội), ĐTC Benedicto diễn giải và khẳng định rõ ràng với chúng ta: “Bản chất thâm sâu của Hội Thánh được thể hiện trong trách nhiệm ba mặt là: rao giảng lời Chúa (kerygma-matyria), cử hành bí tích (leitourgia), và thực thi sứ mệnh bác ái (diakonia). Các trách nhiệm này bao hàm lẫn nhau và không thể tách rời”. Ngài nói tiếp: “Việc phục vụ bác ái còn là yếu tố cấu thành nên sứ mệnh của Hội Thánh và là cách biểu lộ thiết yếu sự hiện hữu của Hội Thánh”.
Sau đó, Đức Cha Michel Roy, Tổng thư ký của Caritas quốc tế, trong bài phát biểu chiều 17/10/2012, tại Thượng Hội Đồng về tân Phúc Âm hóa diễn ra tại Rôma đã lập lại tư tưởng của ĐTC Benedicto XVI: “Thực thi bác ái là một yếu tố cấu thành bản chất của Giáo Hội. Không thể có loan báo Tin Mừng mà không có bác ái. Đó là một trong những dấu chỉ cho tính khả tín của Giáo Hội”.
Như vậy, bác ái thuộc về bản chất của Giáo Hội. Vì thuộc về bản chất của Giáo Hội, như sứ mạng truyền giáo, không ai có thể chuẩn chước cho mình trách nhiệm phục vụ bác ái này: “Hội Thánh không được chuẩn chước cho mình khỏi việc thực hiện công tác bác ái […] không có hoàn cảnh nào, trong đó người ta không cần đến bác ái của từng người Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu” (DCE 29).
Nói khác đi, bác ái và truyền giáo luôn gắn chặt với nhau, không thể tách biệt. Khi thực hiện công việc bác ái chính là lúc chúng ta đang thực thi sứ vụ truyền giáo. Thánh giáo hoàng GP II mời gọi: “hãy lợi dụng rất nhiều cơ hội để làm việc bác ái, để loan truyền Phúc Âm, để thực hiện việc giáo dục Kitô giáo, thực hiện những nỗ lực về văn hoá Kitô giáo và thực hiện tình đoàn kết Kitô giáo với người nghèo khổ và những người bị kỳ thị, bỏ rơi và đàn áp. (Redemptoris Missio 69b)
II. Bác ái hướng đến sự sống và phẩm giá con người
1. Người nghèo – ưu tiên của Giáo Hội
Ngay từ đầu, ưu tiên của Giáo Hội chính là người nghèo. Bởi chưng, chính Thiên Chúa là Đấng đã chọn lựa người nghèo – anawim – trở nên dân riêng của Ngài. Không chỉ chọn lựa người nghèo làm dân riêng, Thiên Chúa còn trở nên người nghèo khi cho Con của Ngài trở nên một người nghèo trên mặt đất này (x. EG 197). Giáo Hội, thân mình của Chúa Ktô, không đi ngoài con đường chọn người nghèo là đối tượng phục vụ; và một khi chọn người nghèo, Giáo Hội cũng phải là Giáo Hội của người nghèo. ĐTC Phanxico nói: “Hội Thánh đã có một lựa chọn cho người nghèo được hiểu như một “hình thức đặc biệt ưu đãi trong việc thực thi bác ái Kitô giáo, mà toàn thể truyền thống của Hội Thánh làm chứng”. Đức Bênêđictô XVI dạy rằng sự chọn lựa này “tiềm ẩn trong đức tin vào một Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta, Đấng trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Người”. Đó là lý do tại sao tôi muốn có một Hội Thánh nghèo cho người nghèo” (EG 198).
Tuy nhiên, Giáo Hội cần chúng ta dấn thân trong các công cuộc bác ái không như là những công cuộc từ thiện, những cuộc ủy lạo, nhưng phải chú tâm, coi họ như một với mình. Chính thái độ này sẽ khai mào cho một cuộc gặp gỡ thú vị, thâm sâu hơn trong hành trình đức tin: “Việc dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ; […], nhưng trước hết một chú tâm đến những người khác, “coi họ như một với mình”. Chú tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm thực sự đối với con người của họ, và từ đó tôi muốn tìm kiếm sự tốt lành của họ một cách có hiệu quả. Điều này ngụ ý đánh giá cao những người nghèo trong sự tốt lành của họ, với con người thật của họ, với nền văn hóa của nó, với cách sống đức tin của họ. Tình yêu chân thật luôn luôn là chiêm niệm, cho phép chúng ta phục vụ lẫn nhau không vì nhu cầu của mình hoặc vì khoe khoang, nhưng vì người kia đẹp vượt trên và vượt ra ngoài những vẻ bề ngoài. “Từ tình yêu mà chúng ta thấy người khác dễ thương dẫn chúng ta đến việc tặng họ một điều gì đó một cách nhưng không”.[…] Chỉ từ sự gần gũi thực sự và thân thiện này mà chúng ta có thể đồng hành với họ cách đầy đủ […] sẽ làm cho “những người nghèo có thể cảm thấy thoải mái trong mọi cộng đồng Kitô hữu ‘như ở nhà’. Cách này không phải là cách trình bày hay nhất và có hiệu quả nhất về Tin Mừng của Nước Thiên Chúa sao?” Nếu không có sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, “việc công bố Tin Mừng, là việc bác ái đầu tiên, có nguy cơ bị hiểu lầm hoặc bị chìm trong đại dương của những ngôn từ mà xã hội thông tin đại chúng ngày nay phô bày cho chúng ta hàng ngày” (EG 199).
Lịch sử Giáo Hội hơn 2000 năm qua đã minh chứng cho chúng ta thấy việc chọn lựa người nghèo luôn là hướng đi, là con đường của Giáo Hội. Trên con đường dấn thân phục vụ người nghèo, Giáo Hội thể hiện dung mạo thánh thiện và nhân từ của Thiên Chúa.
Để nhắc nhở con cái mình không ngừng nghỉ dấn thân cho người nghèo, ĐTC Phanxico cảnh báo: “Không ai được nói rằng mình tránh xa những người nghèo vì những lựa chọn của đời sống buộc họ phải chú ý hơn đến các nhiệm vụ khác. […] không ai được nghĩ rằng mình được miễn trừ nhiệm vụ quan tâm đến người nghèo và công bằng xã hội: “Việc hoán cải tinh thần, cường độ của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, lòng nhiệt thành với công lý và hòa bình, ý nghĩa Tin Mừng của người nghèo và sự nghèo đói là điều đòi buộc tất cả mọi người” (EG 201).
2. Bác ái hướng đến con người toàn diện
Chúng ta nỗ lực chăm sóc người nghèo vì chúng ta ý thức được rằng con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Do là hình ảnh của Thiên Chúa, sự sống con người là thánh thiêng và phẩm giá con người thật cao cả vì như thánh Irênê đã nói“vinh quang của Thiên Chúa là con người sống”. Như thế, bác ái Kitô giáo hướng đến con người là để làm cho sự sống con người nên tròn hảo, sung mãn, xứng với phẩm giá của mình. Điều này được thể hiện rõ ràng, cụ thể nơi sự phục vụ những người bệnh tật, già yếu, neo đơn, những con người bị xã hội lãng quên hoặc loại bỏ, hay trong những phong trào bảo vệ sự sống (thai nhi, an tử,…
Intima Ecclesia Natura nhấn mạnh: “mọi tín hữu có quyền và nghĩa vụ hiến mình để sống theo giới răn mới mà Đức Kitô đã truyền lại cho chúng ta, và đem đến cho anh em đồng loại không những sự giúp đỡ vật chất mà cả sự chăm sóc và dưỡng nuôi linh hồn” (phần dẫn nhập). Như vậy, biên độ hoạt động bác ái của chúng ta thật rộng lớn, bao hàm tất cả những gì liên hệ đến con người.
Vì bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người, bác ái Công Giáo không giới hạn vào trong một nhóm hay một dân tộc nào đó, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là một sự dấn thân không mang đặc tính vụ lợi (không đòi hỏi hay lôi kéo người khác theo đạo) nhưng mang tính phổ quát và nhưng không. Giáo Hội mở rộng lòng và đôi tay để bao bọc, để ôm ấp lấy những mảng đời nghèo đói, bệnh tật, khó khăn…, nhưng không bận tâm về niềm tin, tín ngưỡng của những con người đó. Đây là một chương trình sống theo sát bước chân của Đấng Sáng Lập ngày xưa đã thực hiện: chữa lành đầy tớ của viên Đại đội trưởng (Lc 7:1-10), chữa lành đứa con gái của người phụ nữ Canaan (Mt 15:21-28), dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10:30-37), …
Điều cấp thiết nhất trong việc phục vụ bác ái của chúng ta ngày hôm nay là sự chăm sóc tinh thần cho người nghèo, quyền lợi và tôn giáo của họ. Đây là nhận định của ĐTC Phanxico trong EG (niềm vui TM) số 200: “tôi đau lòng mà nói rằng việc kỳ thị tồi tệ nhất mà những người nghèo đang phải chịu là thiếu sự chăm sóc tinh thần. Đại đa số người nghèo có một lòng cởi mở đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa, và chúng ta không thể không cung cấp cho họ tình bằng hữu của Ngài, phúc lành của Ngài, Lời của Ngài, việc cử hành các Bí Tích và đề nghị một con đường tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin. Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo cần phải được phản ảnh chủ yếu trong việc quan tâm đến đặc quyền và ưu tiên về tôn giáo của họ”.
Để có thể làm tốt việc quan tâm đến người nghèo, ĐTC Phanxico mời gọi chúng ta thực hiện sự “đồng hành”, bởi “việc đồng hành tinh thần đích thực luôn luôn bắt đầu và tiến triển trong lãnh vực phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng” (EG 173).
- Trong thế giới này, các thừa tác viên có chức thánh và những người làm mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu và cái nhìn cá nhân của Người hiện diện. Hội Thánh sẽ phải hội nhập các thành viên của mình – các linh mục, tu sĩ và giáo dân – vào “nghệ thuật đồng hành”. (EG 169)
- Chúng ta cần phải thực hành nghệ thuật lắng nghe, mà lắng nghe khác với nghe. Trong việc giao tiếp với người khác, điều đầu tiên là khả năng của con tim có thể tạo ra sự gần gũi, mà nếu không có nó thì không có cuộc gặp gỡ tinh thần thực sự. Việc lắng nghe giúp chúng ta tìm được những cử chỉ và lời nói thích hợp để kích hoạt tình trạng im lìm của khán giả. Chỉ qua việc lắng nghe cách tôn trọng này và khả năng thông cảm, chúng ta mời có thể tìm thấy những con đường tăng trưởng thật, chúng ta mới có thể đánh thức những ao ước về lý tưởng Kitô giáo, sự nóng lòng đáp trả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và ao ước phát triển cách tốt nhất những gì mà Thiên Chúa đã gieo trong cuộc đời họ. (EG 171)
- Những người bạn đồng hành phải ý thức rằng tình trạng của mỗi người trước mặt Thiên Chúa và đời sống ân sủng của họ là một mầu nhiệm mà không ai có thể hoàn toàn biết được từ bên ngoài. Tin Mừng đề nghị chúng ta sửa chữa và giúp họ tăng trưởng dựa vào việc nhận ra những sự dữ khách quan của những hành động của họ, mà không phán đoán về trách nhiệm và tội trạng của họ. (EG 172)
Ta có thể tóm lại khía cạnh bác ái Công Giáo hướng đến sự thăng tiến toàn diện con người qua bản tính thâm sâu của Hội Thánh, “hoạt động thực tiễn sẽ chẳng đem lại hiệu quả gì nếu nó không tỏ lộ tình yêu đối với con người, một tình yêu được nuôi dưỡng nhờ gặp gỡ Đức Kitô”. Vì thế, khi thực thi hoạt động bác ái, không nên tự giới hạn mình vào việc quyên góp và phân phát tài chính, nhưng cần phải thể hiện được mối quan tâm đặc biết đến những cá nhân đang thực sự cần giúp đỡ, và thực thi chức năng giáo dục rất cao quí trong cộng đồng Kitô hữu; giúp mọi người nhận biết tầm quan trọng của sự chia sẻ, tôn trọng và yêu thương trong tinh thần Tin Mừng của Đức Kitô. Hoạt động bác ái của Hội Thánh trên mọi bình diện cần phải tránh nguy cơ trở thành một loại hình hoạt động xã hội đơn thuần.
III. Giáo xứ cử hành phục vụ bác ái
Thuộc về bản chất của Giáo Hội, việc phục vụ bác ái là điều chắc chắn phải nằm trong mọi chương trình, kế hoạch mục vụ của giáo xứ. EG 28 viết: “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”. Như thế, việc cử hành phục vụ bác ái luôn phải đi liền với các việc cử hành phụng vụ, rao giảng và đối thoại với mọi người thuộc về nơi đó.
ĐTC Benedicto đã lưu ý chúng ta khi cử hành phục vụ bác ái như sau: “Hành động thực tiễn sẽ luôn là không đủ, trừ phi nó diễn tả một cách trông thấy được tình yêu dành cho một người, tình yêu được nuôi dưỡng bằng một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô” (DCE 34). Như vậy, việc bác ái phải được luôn hành động trong tâm tình của sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, hay nói theo ngôn ngữ của các nhà tu đức là “chiêm niệm trong hành động”.
1. Cầu nguyện
Cầu nguyện là hơi thở của đời sống Kitô hữu. Không cầu nguyện, không có những cuộc trao đổi, thưa chuyện với Thiên Chúa, tất cả những gì chúng ta làm đều phản ánh cái tôi của bản thân, cái tôi của nhân loại. Một khi không được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, chúng ta sẽ bị đuối sức, sẽ bị ngộp thở vì rơi vào trong những hoạt động bác ái chúng ta đề ra. Chính trong sự cầu nguyện, chúng ta “nhận ra rằng tất cả mọi người đều đáng cho chúng ta hiến thân. Không phải vì vẻ bề ngoài của họ, khả năng của họ, ngôn ngữ của họ, não trạng của họ hoặc sự thỏa mãn mà chúng ta có thể cung cấp, nhưng vì họ là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là tạo vật của Ngài. Ngài đã tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài, và họ phản ánh một phần nào đó vinh quang của Ngài. Mỗi con người là đối tượng của sự ân cần vô cùng của Chúa, và chính Người ngự trong cuộc sống của họ. Đức Chúa Giêsu Kitô đã ban bửu huyết của Người trên Thánh Giá cho người ấy. Vượt ra ngoài bất kỳ vẻ bề ngoài nào, mỗi người đều vô cùng thánh thiêng và xứng đáng với tình yêu của chúng ta và sự tận tụy của chúng ta (EG 274).
ĐTC Benedicto dạy: “Đây là lúc tái xác định sự quan trọng của việc cầu nguyện đối mặt với chủ thuyết duy hoạt động và chủ thuyết tục hoá đang hăm dọa nhiều Kitô hữu tham gia vào công tác bác ái. Người Kitô hữu cầu nguyện không có ý định thay đổi chương trình của Thiên Chúa, hay hoàn thiện điều Thiên Chúa quan phòng. Đúng hơn, họ tìm cách gặp gỡ Cha của Đức Gíêsu Kitô và khẩn cầu, để Người hiện diện trong họ với sự an ủi của Chúa Thánh Thần và trong công tác của họ. Việc phó thác vào Thiên Chúa và sự tùng phục ý muốn của Người ngăn chăn sự hạ giá con người và gìn giữ họ khỏi ảnh hưởng của những lý thuyết cuồng tín và khủng bố. Thái độ tôn giáo đúng đắn tránh cho con người khỏi trở thành quan tòa của Thiên Chúa và tố cáo Người đã để cho sự khốn cùng tồn tại, không động lòng thương xót với các thụ tạo của Người” (DCE 37).
Trong thông điệp Redemptoris Missio, thánh giáo hoàng GP II cũng nhắc nhớ chúng ta khi thực thi sứ vụ truyền giáo: “Nhà truyền giáo bị thôi thúc bởi "lòng nhiệt thành đối với các linh hồn", một lòng nhiệt thành do đức ái của Chúa Kitô thúc đẩy, dưới hình thức quan tâm, dịu dàng, thương cảm, cởi mở, sẵn sàng và chú trọng tới các vấn đề của con người. Tình yêu của Chúa Kitô rất sâu xa: Ngài là Ðấng "biết những gì nơi con người" (Jn 2:25), đã yêu thương mọi người bằng việc hiến cho họ ơn cứu chuộc và chịu đựng khổ đau khi bị ruồng bỏ. Nhà truyền giáo là một con người của đức ái. Ðể loan truyền cho tất cả mọi anh chị em của mình là những người anh chị em ấy được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương, nhà truyền giáo phải chứng tỏ tình yêu đối với tất cả mọi người, bằng việc hiến cuộc sống mình cho tha nhân. Nhà truyền giáo là "anh chị em của hết mọi người", khi mang nơi bản thân mình tinh thần của Giáo Hội, tấm lòng cởi mở và nỗi quan tâm của Giáo Hội đối với tất cả mọi dân tộc và mọi người, nhất là đối với những anh chị em thấp kém và nghèo hèn nhất (số 89).
Như thế, chính trong sự cầu nguyện để cử hành việc phục vụ bác ái, chúng ta khám phá ra rằng, bản thân mình đang được Lời Chúa soi sáng, đang được Thánh Thần thánh hóa, hay nói khác đi, chúng ta đang được Phúc Âm hóa. Với việc bản thân được Phúc Âm hóa, chúng ta sẵn sàng và can đảm dấn thân cho tất cả mọi dân mọi nước, tất cả những ai mà TC sai chúng ta đến và gửi đến cho chúng ta.
2. Những việc làm cụ thể
Có thể nói các giáo xứ đều có những hoạt động bác ái. Rất nhiều các nhóm, đoàn thể đã có những sáng kiến để tạo nên những sắc màu thật đẹp của bác ái Công giáo. Thế nên, trong phần chia sẻ những việc làm cụ thể này, chúng ta không đề cập hay bàn đến những việc gì, hay tổ chức ra sao. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến những khía cạnh cụ thể, những điều giáo xứ – cách riêng là linh mục chúng ta – cần phải quan tâm khi thực thi sứ mạng phục vụ bác ái.
Trước hết, phục vụ bác ái phải là hành động của giáo xứ.
Nói việc phục vụ bác ái phải là hành động của giáo xứ để nhắc nhớ chúng ta rằng tất cả những việc bác ái trong giáo xứ phải được thi hành trong sự hiệp thông, nhân danh Giáo Hội nói chung, và giáo xứ nói riêng. Chúng ta phải nhớ: mỗi người chúng ta lãnh nhận bất cứ một sứ vụ nào là chúng ta thực hiện nhân danh Giáo Hội – giáo xứ, chúng ta không làm vì chính bản thân mình. Đây là cảm thức thuộc về cần phải có nơi mỗi người chúng tra trong sự hiệp thông và thuộc về Giáo Hội – giáo xứ.
Đây là lời mời gọi cho mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi nhóm trong khi phục vụ bác ái, chúng ta phải vượt qua chủ nghĩa cá nhân (không chỉ bản thân, nhưng còn là nhóm, hội của tôi) để hướng đến chiều kích rộng lớn hơn là giáo xứ: tất cả những gì tôi/nhóm tôi làm là nhân danh giáo xứ, thực hiện thay mặt giáo xứ. Bên cạnh đó, các đoàn thể, các nhóm trong giáo xứ được mời gọi cộng tác với nhau để cùng thực thi việc phục vụ bác ái. Chắc chắn, một lối sống hiệp thông, một cảm thức thuộc về nơi mỗi người hay mỗi nhóm hoặc đoàn thể sẽ chứng từ hữu hiệu về đức tin Công Giáo trước mặt các anh chị em không cùng tôn giáo.
Kế đến, việc phục vụ bác ái của giáo xứ phải hướng đến con người toàn diện. Điều này có nghĩa việc hỗ trợ, giúp đỡ của chúng ta không chỉ là những hành động cấp thời nhưng còn phải hướng đến việc trả lại đúng phẩm giá của các anh chị em mà chúng ta đang phục vụ. Chúng ta nhìn thấy gì nơi các bữa cơm huynh đệ, những nồi cháo tình thương, nơi trú ngụ qua đêm, các nhà mở, nhóm phò sự sống, chôn cất thai nhi … của các tổ chức, nhóm, giáo xứ Công Giáo chúng ta? Chúng không là những giải pháp tạm thời nhưng cho thấy giá trị của tình yêu, sự trân trọng.
- Một bữa cơm rất tầm thường nhưng có bàn, có ghế, có người giúp đỡ, phục vụ cho những con người tàn tật, yếu đau … cho thấy sự tôn trọng phẩm giá của các anh chị em nghèo khổ đó.
- Những ngôi nhà mở được lập nên để ôm ấp, bảo bọc những người cô thế cô thân, những chị em có thai ngoài ý muốn; hay một số anh chị em dấn thân trong việc tiếp nhận các thai nhi – những nạn nhân của hành động phá thai – để chôn cất … vang vọng lên một lời mời gọi con người phải biết tôn trọng sự sống, biết sống giá trị yêu thương, trao ban và trách nhiệm.
- Những buổi thăm hỏi, gặp gỡ, tặng quà thể hiện một sự quan tâm, cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ dẫu cho những phần quà có nhỏ bé, những lần gặp gỡ có mau chóng.
Tiếp đến, việc phục vụ bác ái phải được thể hiện hay đúng hơn là phải được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bản thân những ai thực hiện việc phục vụ bác ái. Việc chuẩn bị này không đơn thuần là chuẩn bị kỹ năng, tiền bạc, vật chất … nhưng việc chuẩn bị đó chính là dự thế, thái độ đối với người nghèo của Thiên Chúa. Dự thế đó được tỏ lộ ra qua 3 chiều kích trong khi thực thi việc bác ái: nghĩ hay – nói tốt – làm lành (hay, tốt, lành = tích cực).
Hay trong ý nghĩ. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy ý nghĩ tác động mạnh mẽ đến tâm lý và hành động. Một suy nghĩ tiêu cực trước hết làm cho bản thân chúng ta mất bình an, làm ô nhiễm đầu óc và dễ dẫn đến hành động không hay. Ngược lại, một ý nghĩ tích cực sẽ là một sự khích lệ cho bản thân để quảng đại dấn thân phục vụ; là một lời mời gọi chúng ta tử tế, tin tưởng và yêu mến người khác hơn. Chính vì thế, trong khi làm việc bác ái, chúng ta đừng để cho sự nghi ngờ hay tiêu cực chi phối chúng ta. Nếu thực thi sứ mạng bác ái trong tâm trạng nghi ngờ, tiêu cực, chúng ta đánh mất đi giá trị của một tình yêu nhưng không được khởi nguồn từ Thiên Chúa. (chúng ta còn chưa tính đến hiệu năng của việc bác ái vì thái độ nghi kỵ phần nào sẽ được thể hiện qua thái độ và hành động của chúng ta mà người nghèo, những con người rất nhạy cảm, sẽ dễ dàng nhận ra).
Tốt trong lời nói. Những lời nói hoa mỹ, hình thức sẽ là những điều phản tác dụng trong những buổi gặp gỡ, những lần thăm hỏi hay giúp đỡ người nghèo của Thiên Chúa. Tốt trong lời nói chính là cách thể hiện sự cảm thông, trân trọng thực sự của chúng ta đối với những anh chị em đó nơi ngôn ngữ, câu từ của chúng ta. Những câu nói chân thành xuất phát từ tâm hồn ý nhị, yêu thương, tôn trọng sẽ làm cho người khác dễ đón nhận sự giúp đỡ và dễ dàng mở lòng để chia sẻ, gặp gỡ … sẽ góp phần tạo nên một mối liên hệ bằng hữu tốt đẹp, khởi sự cho một sự gặp gỡ trong đức tin.
Lành trong việc làm. Tất cả mọi hành động trong sự phục vụ bác ái phải cho thấy hành động đó là một hành động ngay lành; không mang tính chất vụ lợi, so đo, điều kiện hay phân biệt. Mọi hành động phải toát lên sự phục vụ trong hân hoan, trong tình yêu nhưng không.
Để kết luận, chúng ta đọc lại thư của HĐGM VN gửi Dân Chúa: “xác tín rằng việc Phúc-Âm-hóa giáo xứ phải được bắt đầu từ chính hàng linh mục.” (Thư Mục vụ, số 6-7) và nhắc nhở các linh mục “phải không ngừng canh tân đời sống bản thân cũng như cung cách thi hành tác vụ linh mục”, bằng cách coi lời nhắn nhủ của ĐTC Phan-xi-cô như kim chỉ nam cho tác vụ linh mục (“phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong giáo xứ của mình, theo lý tưởng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Để thực hiện điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hy vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ. Khi khác nữa, ngài sẽ phải đi theo họ, giúp đỡ những ai bị bỏ lại ở đằng sau, và trên hết, để cho đoàn chiên tự mình mở ra những lối đi mới” – (Niềm Vui Tin Mừng, số 31).
Ghi chú:
DCE: Deus Caritas est
EG: Evangelii Gaudium
Bài 6: NHỮNG BIÊN CƯƠNG MỚI CỦA GIÁO XỨ
Tin mừng (Mc 9:35-37.41): Ðức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy. Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Ðấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
I. Bài học từ Tin Mừng
Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tôi muốn đề cập đến 3 bài học mà Đức Giêsu nói với các môn đệ, cũng là đang nói với chúng ta:
- Giáo huấn về sự khiêm hạ trong phục vụ
- Hành động ôm lấy đứa trẻ, đặt vào giữa các ông, Đức Giêsu muốn chúng ta ôm lấy người nghèo, đặt người nghèo vào trọng tâm sự phục vụ
- Bác ái với nhau vì lẽ mọi người thuộc về Đức Kitô
1. Giáo huấn về sự khiêm hạ trong phục vụ
Bài học đầu tiên này, hơn ai hết, đang nhắm đến chúng ta, các linh mục. Chúng ta trong vai trò là mục tử, người đứng đầu, Đức Giêsu đang mời gọi chúng ta hãy trở nên những người rốt hết, những người đầy tớ luôn sẵn sàng quỳ xuống để phục vụ chủ nhân của mình; đừng trở nên những người chỉ ham hố danh lợi, địa vị, trở nên những ông quan, ông tướng hay ông vua trong lãnh địa là giáo xứ của mình: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người."
2. Người nghèo – trung tâm của sự phục vụ
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đặt đứa trẻ vào giữa các môn đệ rồi ôm lấy nó, Người khẳng định với chúng ta người nghèo của Thiên Chúa (đứa trẻ) phải nằm ở trung tâm sự phục vụ của chúng ta. Chúng ta cũng hãy theo gương Đức Giêsu ôm lấy đứa trẻ, nghĩa là hãy ôm lấy người nghèo không chỉ trên phương diện bao bọc, nâng đỡ nhưng còn phải là một tình yêu chân thành, cảm thông, mang lấy vào chính mình cái nghèo, cái mùi thiếu thốn tân toan của người nghèo.
Bài học thứ hai này được dành cho tất cả mọi thành viên trong giáo xứ trong việc thực thi sự phục vụ bác ái. Trong sự phục vụ bác ái đó, người nghèo phải là trung tâm.
3. Bác ái với nhau vì đều thuộc về Đức Kitô
Bài học thứ ba nhắc nhở chúng ta ý thức rằng con người thuộc về ĐK. Tất cả chúng ta thuộc về cùng một thân thể. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa. Cho nên, một chén nước lã dành cho người nghèo chính là chén nước đã được dâng lên cho TC.
Từ ba bài học trong đoạn tin mừng, chúng ta áp dụng vào trong sứ mạng phục vụ Hội Thánh nơi giáo xứ của chúng ta khi nhìn đến viễn cảnh những biên cương mới trong đời sống giáo xứ qua hai điểm:
- Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ
- Biên cương mới
II. Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ - đức ái tông đồ
1. Cảm thức thuộc về
Phạm Tấn Xuân Cao, trong tác phẩm Cảm thức Tha ngã luận [kỳ I] đã định nghĩa cảm thức như sau: “Cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình mang tính tác động chung cuộc trong việc hướng định đến tổng phần nội tại của chủ thể. Diễn trình đó, ở đây, chính là sự tương quan giữa cảm giác và tri giác, chúng cùng hòa quyện vào nhau và liên thông với nhau. Khi nhận thức, bản thân chủ thể luôn là trung tâm của những gì được tác động đến. Yếu tố đầu tiên chi phối quá trình nhận thức không gì khác đi ngoài cảm thức, nói cảm thức, ở đây, là muốn nhấn mạnh đến cả cảm giác lẫn tri giác, đồng thời, không loại trừ ra khỏi mối quan hệ trong quá trình tác động qua lại giữa cảm giác và tri giác. Rõ ràng rằng, việc chú ý đến tính tương quan giữa tác động qua lại giữa cảm giác và tri giác là một sự chú ý rất cần thiết, bởi lẽ, chỉ khi nhìn nhận về mối tương quan đó thì xem xét đến cảm thức, ta sẽ thấy được mức độ quan trọng của cảm thức là như thế nào.
Và chính sự tương quan ấy mà trong một mức độ tối thiểu sẽ cho chúng ta hiểu rằng, nó không gì khác chính là một diễn trình, do đó, cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình. Những gì tác động đến từ thế giới bên ngoài sẽ phải được thực hiện thông qua cảm thức. Như vậy, chính cảm thức là một sự tác động - một sự tác động trung gian - và giả sử, nếu như sự tác động này không tồn tại thì sẽ dễ dàng thấy rõ về một hệ quả rằng, chủ thể không có được tri thức. Nhưng sự tác động của cảm thức không chỉ có thế, mà cảm thức, vai trò quan trọng của nó, hơn hết, được nói đến ở đây, chính là bản chất của sự tác động mà nó đảm nhận. Sự tác động đó không thể được coi là một sự tác động đơn thuần, như chính sự tác động từ thế giới bên ngoài về phía chủ thể, mà sự tác động của cảm thức mang bản chất là một sự tác động chung cuộc, tất nhiên, chính sự tác động đó bao hàm một diễn trình như đã nói. Một sự tác động bao quát”.
Chúng ta có thể tóm lại như sau: cảm thức là một quá trình nhận thức bao gồm cả cảm giác và tri giác. Sự nhận thức này tác động đến hướng đi/hành động của chủ thể.
Như vậy, cảm thức thuộc về muốn nhấn mạnh đến việc mỗi người nhận thức rằng mình thuộc về một nhóm, một cộng đoàn, một tập thể (đối với điều chúng ta đang bàn tới là thuộc về Giáo Hội-giáo xứ) không chỉ bằng tri thức nhưng bao hàm cả cảm giác lẫn tri giác (bản thân cảm nhận và nhận thấy được), từ đó, tất cả mọi hành động, thái độ, suy nghĩ của chúng ta đều thực hiện trong sự ý thức mình thuộc về và vì ích lợi nhóm, cộng đoàn hay giáo xứ.
Tuy nhiên, khi bàn về cảm thức thuộc về ở đây, chúng ta cũng phải lưu ý đến 2 phương diện: thứ nhất, chúng ta – các cá nhân trong giáo xứ nói chung và linh mục nói riêng – phải ý thức mình thuộc về giáo xứ; thứ hai, chúng ta cũng phải ý thức tất cả mọi người chung quanh đều thuộc về gia đình của Chúa, gia đình giáo xứ, do đó, chúng ta không được phép loại trừ hay không tính đến, hoặc lãng quên.
2. Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ
Thánh Augustino nói “yêu rồi làm”. Điều này muốn nhắc chúng ta rằng một khi đã yêu ai, chúng ta thấy chúng ta cần phải làm cho người mình yêu được vui, được hạnh phúc. Vì thế, tình yêu sẽ làm cho chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người mình yêu. Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta có những ý tưởng, những kế hoạch, những sáng kiến độc đáo, hữu hiệu để làm cho người mình yêu được tăng trưởng.
Nói khác đi, khi cảm thức thuộc về giáo xứ luôn chi phối và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, chúng ta sẽ sẵn sàng xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo, đau khổ đang hiện diện trong giáo xứ. Khi biết mình thuộc về cộng đoàn, giáo xứ, chúng ta sẽ biết cách làm cho những ai chưa biết Chúa trong giáo xứ trở nên người nhà trong gia đình giáo xứ, những người chống đối trở nên những người bạn, những người anh em.
ĐTC Phanxico dạy chúng ta như sau: “Tình yêu đối với người khác là một sức mạnh tinh thần thúc đẩy cuộc gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn đến mức bất cứ ai không yêu anh em mình là “đi trong bóng tối”, là “ở lại trong sự chết” và “không biết Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt mình trước những người lân cận của chúng ta cũng làm cho chúng ta mù trước mặt Thiên Chúa” và rằng tình yêu cuối cùng là ánh sáng duy nhất “luôn luôn có thể soi sáng một thế giới đang tối tăm và ban cho chúng ta can đảm để sống và hành động”. Vì vậy, khi chúng ta sống tiếp cận thần bí với tha nhân nhằm mục đích tìm kiếm sự tốt lành cho họ, chúng ta mở rộng nội tâm của mình để nhận những hồng ân tốt đẹp nhất của Chúa. Mỗi lần chúng ta gặp gỡ một con người trong tình yêu, chúng ta đặt mình vào một điều kiện thuận lợi để khám phá một điều gì mới mẻ về Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta mở mắt để nhận ra những người khác, thì đức tin của chúng ta được sáng suốt hơn để nhận ra Thiên Chúa. Vì thế, nếu chúng ta muốn lớn lên trong đời sống tinh thần, chúng ta không thể ngưng là những nhà truyền giáo. Dấn thân truyền giáo phong phú hóa tâm trí và tâm hồn, mở ra cho chúng ta những chân trời tâm linh, giúp chúng ta nhạy cảm hơn để nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần, đưa chúng ta ra khỏi những mô thức tâm linh hạn hẹp của mình. Đồng thời, một nhà truyền giáo hoàn toàn dấn thân vào việc truyền giáo cảm nghiệm được niềm vui của việc trở thành một nguồn, tràn đầy và làm tươi mát những người khác. Chúng ta chỉ có thể là một nhà truyền giáo khi cảm thấy tốt trong việc tìm kiếm những điều tốt đẹp cho người khác và muốn hạnh phúc cho người khác. Việc mở rộng tâm hồn là nguồn gốc của hạnh phúc, bởi vì “cho đi thì có phúc hơn nhận được”. Không ai có thể sống tốt hơn bằng cách chạy trốn những người khác, ẩn nấp, từ chối chia sẻ, không chịu cho đi và nhốt mình trong sự thoải mái. Điều này chẳng khác gì một việc tự vận từ từ (EG 272).
Hóa ra, trong khi chúng ta dấn thân phục vụ anh chị em mình, chúng ta gặp được Thiên Chúa, chúng ta khám phá ra Thánh Thần đang ngự nơi chúng ta với những sáng kiến tông đồ hầu mang lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác.
Rồi ngài mời gọi chúng ta canh tân lại cảm thức thuộc về khi viết rằng: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49)
III. Biên cương mới
1. Biên cương mới là một cơ hội hay một thách đố
Khi nói biên cương mới, chúng ta đã mặc nhiên muốn nói rằng phải thay đổi. Thay đổi đó có thể là thay đổi cái nhìn, thay đổi não trạng, thay đổi hành động, thay đổi phương pháp, … Tuy nhiên, sự thay đổi có thể được xem như những rào cản, những thách đố hay cũng có thể là những cơ hội cho Giáo Hội – giáo xứ. Sự thay đổi có thể gây ra những tiêu cực nhưng cũng có thể là sự thúc đẩy những tiềm năng, năng lực của các thành viên trong giáo xứ.
Ở đây, nếu xét trên phương diện mục vụ giáo xứ, ta thấy, thay đổi vừa là cơ hội, vừa là một thách đố. Là cơ hội, vì thay đổi sẽ làm cho giáo xứ (bao gồm cả linh mục và giáo dân) thăng tiến. Là thách đố, vì nó đòi hỏi giáo xứ phải biết cần thay đổi cái gì, thay đổi như thế nào và thực hiện ra sao?
Tuy nhiên, các yếu tố con người với thói quen, thái độ và hành vi cũng như mong muốn duy trì những gì đã quen thuộc, thoải mái và yêu quí sẽ là những ngáng trở cho việc nhìn ra những biên cương mới. Đồng thời, các cơ chế, cơ cấu hay những cách thế hoạt động mục vụ không còn phù hợp cũng góp phần không nhỏ để khám phá ra những biên cương mới trong mục vụ.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng biên cương mới là một cơ hội và thách đố cho mỗi người chúng ta. Những biên cương mới đó là một mạo hiểm, một mạo hiểm can đảm theo gương Thầy Chí Thánh đến muôn nơi dẫu cho gặp khó khăn hay thập giá. Chúng ta tin tưởng rằng, sau những khó khăn hay thập giá, biên cương mới đó sẽ nở hoa, sẽ có một mùa bội thu.
2. Chuyển sang thế chủ động
Ở đây, thật hữu ích khi một lần nữa, chúng ta có thể lập lại lời mời gọi của ĐTC Phanxico: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49)
Lời mời gọi này giới thiệu cho chúng ta một phương pháp mới trong hoạt động mục vụ. Chúng ta hãy chuyển từ thế thụ động sang thế chủ động, một thế chủ động dầu phải mạo hiểm: nếu như các hoạt động mục vụ của chúng ta đang chỉ nằm trong giới hạn an toàn là nhà thờ, cử hành các bí tích, giờ đây chúng ta hãy can đảm mạo hiểm ra khỏi bốn bức tường của nhà thờ để đến với muôn dân, đến với những người nghèo của Thiên Chúa thay vì chờ họ đến với mình; chấp nhận bị bầm dập, bị thương tích, bị dơ bẩn, bị mất giờ, mệt mỏi, vất vả, không có giờ dành riêng cho bản thân, cho những chương trình nghỉ ngơi, giải trí.
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II nhắc các linh mục chúng ta như sau: “Là cộng sự viên của Giám Mục, các linh mục, bởi Bí Tích Truyền Chức Thánh, được kêu gọi để thông phần vào mối quan tâm về sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội […]. Bởi lý do này, [..] họ phải có "một tinh thần Công Giáo thực sự, nhờ đó, họ sẽ biết vượt các giới hạn thuộc giáo phận của họ, xứ sở hay nghi thức, và cộng tác giúp đỡ toàn thể Giáo Hội, sửa soạn cho việc rao giảng Phúc Âm khắp mọi nơi". Tất cả mọi linh mục phải có trí khôn và tâm hồn của các nhà truyền giáo -mở lòng ra trước các nhu cầu của Giáo Hội cũng như của thế giới, chú ý đến những người xa xôi nhất, nhất là với các nhóm người ngoài Kitô Giáo trong miền của mình. Họ phải mang trong lòng mình, trong lời cầu nguyện, nhất là ở Hy Tế Thánh Thể, mối quan tâm của toàn thể Giáo Hội đối với tất cả nhân loại. (Sứ vụ đấng cứu chuộc 67)
Hoặc “Việc chăm sóc mục vụ đòi hỏi phải từ bỏ tiêu chuẩn mục vụ tiện lợi: “Chúng tôi đã luôn luôn làm như thế này” nhưng phải táo bạo và sáng tạo bằng cách xét lại các mục tiêu, cấu trúc, phong cách và phương pháp. (x. EG 33)
Như thế, chủ động là điều cần thiết và chính đáng trong hoạt động mục vụ của chúng ta. Đặc biệt, thế chủ động mà Giáo Hội đang quan tâm ngày nay chính là chúng ta nhìn ra những biên cương mới và áp dụng phương pháp phù hợp trong mục vụ những biên cương mới đó.
3. Biên cương mới nơi giáo xứ
Những biên cương mới mà chúng ta đang quan tâm, theo tôi, chúng không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến.
Trong giới hạn nơi các biên cương mới của giáo xứ, chúng ta cùng chia sẻ một vài biên cương mới có lẽ thiết thực với linh mục chúng ta, vì chúng ta là người đứng đầu, người lãnh đạo, tổ chức và thực hiện kế hoạch mục vụ những biên cương mới đó.
Trước hết, biên cương chúng ta cần quan tâm đầu tiên chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ. Đây là não trạng làm việc chung, hiệp thông huynh đệ. Nhiều giáo xứ có lẽ đã làm được điều này, đó chính là một sự chúc lành của Thiên Chúa và khích lệ mỗi người, mỗi giáo xứ chúng ta. Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó có những linh mục trong việc mục vụ giáo xứ “chưa” sử dụng đến sự cộng tác của anh chị em giáo dân (bất cộng tác từ hai phía – Linh mục, giáo dân; hay Linh mục độc đoán, …).
Chúng ta cần nhớ rằng trong bối cảnh hiện nay với nhiều sắc thái khác nhau của cuộc sống, để thực hiện công việc mục vụ cho người nghèo của Thiên Chúa, một mình linh mục không thể làm được. Các linh mục phải cần đến anh chị em giáo dân, cần đến sự cộng tác, hỗ trợ, đôi bàn tay, đôi chân, đôi mắt và con tim của giáo dân. Làm sao linh mục chúng ta có thể biết hết và phục vụ hữu hiệu những người nghèo của Thiên Chúa trong giáo xứ nếu không có sự cộng tác của giáo dân? Hơn nữa, thời đại hiện nay, người nghèo của TC cũng muôn màu muôn dạng, sự cộng tác giữa mọi thành phần trong giáo xứ (Linh mục-giáo dân) càng quan trọng và khấp thiết hơn.
Biên cương thứ hai là mục vụ hôn nhân-gia đình. Giáo Hội nhắc nhở: “mỗi Hội Thánh địa phương và nói rõ hơn, mỗi cộng đồng giáo xứ, phải ý thức mạnh mẽ về ân sủng và trách nhiệm đã nhận được từ Chúa để cổ võ mục vụ gia đình. Mọi chương trình mục vụ được tổ chức, ở mọi cấp độ, không bao giờ được lướt bỏ mục vụ gia đình” (FC 70).
Tuy nhiên, biên cương này, trong quá khứ cũng như hiện nay, nhiều lúc chúng ta đã xem nhẹ. Chúng ta vẫn thường quan tâm mục vụ hôn nhân – gia đình dưới những góc độ: bảo đảm quyền được tổ chức hôn lễ theo nghi thức tôn giáo của các đương sự, đúng theo thể thức của Giáo Hội; dạy giáo lý hôn nhân và giúp đỡ họ thêm về đời sống đức tin trong thời kỳ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân; lo liệu phải lãnh nhận đầy đủ các bí tích khai tâm Kitô giáo trước khi cử hành bí tích hôn nhân; điều tra hôn nhân; cử hành thánh lễ/nghi thức hôn nhân.… và chấm hết.
Trong khi đó, giáo huấn của Giáo Hội khi bàn về mục vụ hôn nhân gia đình còn rộng hơn, không đơn thuần chỉ là mục vụ tiền hôn nhân, nhưng còn cả mục vụ sau khi kết hôn:
“ mọi thành phần cộng đồng Hội Thánh địa phương dấn thân giúp đỡ đôi bạn khám phá và sống ơn gọi cũng như sứ mạng mới của mình. Để gia đình ngày càng trở nên một cộng đồng yêu thương đích thực, phải làm cho mọi phần tử đều được giúp đỡ và được đào tạo, để chu toàn trách nhiệm của mình trước những vấn đề mới, để phục vụ lẫn nhau cũng như để dự phần vào đời sống gia đình.
Điều ấy càng đúng với các gia đình trẻ trong bối cảnh những giá trị và trách nhiệm mới, đặc biệt trong những năm đầu của hôn nhân, với nhiều khó khăn bất ngờ chẳng hạn phải thích nghi với cuộc sống chung hay khi sinh sản con cái. Các vợ chồng trẻ nên biết đón nhận cách chân tình và tận dụng một cách thông minh sự giúp đỡ kín đáo, tế nhị và quảng đại của những cặp vợ chồng khác đã trải qua một thời gian kinh nghiệm hôn nhân và gia đình. […] Được sinh động bởi một tinh thần tông đồ đích thực, mối tương trợ giữa các gia đình chính là một trong những phương thế giản dị nhất, hữu hiệu nhất và vừa tầm với mọi người để làm thấm nhập, lan truyền các giá trị Kitô giáo, là điểm khởi hành và cũng là đích điểm của mọi công tác mục vụ. Bằng cách ấy, các gia đình trẻ không tự giới hạn vào việc lãnh nhận, nhưng đến lượt họ, nhờ được giúp đỡ, họ lại trở nên nguồn mạch làm phong phú các gia đình thành lập trước họ, qua chứng từ đời sống và sự đóng góp tích cực.
Trong việc mục vụ với các gia đình trẻ, Hội Thánh phải quan tâm giáo dục cho họ biết sống tình yêu vợ chồng cách hữu trách, trong tương quan với các đòi hỏi về hiệp thông và phục vụ sự sống, cũng như dạy cho họ biết hoà hợp tình thân mật của tổ ấm gia đình với trách nhiệm quảng đại chung của mọi người trong việc xây dựng Hội Thánh và xã hội nhân loại. Khi có con cái, đôi bạn trở thành một gia đình theo nghĩa tròn đầy và chuyên biệt, lúc đó Hội Thánh vẫn còn phải gần gũi hai cha mẹ để giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như ân huệ sự sống được lãnh nhận từ Thiên Chúa, vui vẻ chấp nhận vất vả để phục vụ cho chúng lớn lên về mặt nhân bản và Kitô giáo. (FC 69)
Ngoài ra, biên cương của mục vụ hôn nhân gia đình còn bao hàm tất cả chiều kích của hôn nhân: “Với mối bận tâm muốn bảo vệ gia đình trong mọi chiều kích của nó – chứ không phải chỉ nguyên chiều kích tôn giáo – THĐGM cũng đã chú tâm xem xét một vài hoàn cảnh trái qui tắc trên bình diện tôn giáo và thường cả trên bình diện dân sự. Giữa những thay đổi nhanh chóng về văn hoá ngày nay, thật đáng tiếc những chuyện trái qui tắc này đang lan tràn ngay cả giữa những người Công Giáo, gây một thiệt hại nghiêm trọng cho cơ chế gia đình và xã hội mà gia đình là tế bào căn bản: Hôn nhân thử; Những vụ chung sống không hôn nhân; Những người Công Giáo kết hôn mà chỉ có hôn phối dân sự; Những người ly thân và những người ly dị không tái hôn; Những người ly dị tái hôn; hôn nhân đồng tính. …” (x. FC 79).
Một biên cương khác trong mục vụ hôn nhân gia đình là vấn đề chăm sóc và bảo vệ thai nhi. Vấn đề này phải đi liền với mục vụ hôn nhân gia đình. Mối bận tâm này không phải chỉ được thực hiện khi các hiện tượng tiêu cực xảy ra như một cách đối phó. Thay vào đó, ưu tư mục vụ này phải được thực hiện, phải được chuẩn bị từ xa và liên tục cho giới trẻ (từ các cấp học giáo lý cho đến sau kết hôn) ý thức được rằng: “việc bảo vệ sự sống của những người chưa sinh ra liên hệ mật thiết với việc bảo vệ bất kỳ quyền nào khác của con người. Nó dựa trên xác tín rằng một con người luôn luôn thánh thiêng và bất khả xâm phạm, ở mọi thời điểm và mọi giai đoạn phát triển của nó. Nó là cùng đích của chính nó chứ không phải là một phương tiện để giải quyết các vấn đề khác. Nếu xác tín này biến mất, thì không còn nền tảng vững chắc và lâu dài cho việc bảo vệ các quyền của con người […] Chỉ cần lý do này mà thôi cũng đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mọi sự sống con người” (FC 213).
Chúng ta đã có kế hoạch mục vụ như thế nào về hôn nhân gia đình và bảo vệ sự sống phù hợp với thời đại ngày hôm nay chưa?
Chúng ta cũng phải khiêm nhường nhìn nhận rằng chúng ta còn giới hạn trong các kế hoạch mục vụ hôn nhân gia đình và sự sống. Nhiều anh em linh mục trong chúng ta lắm lúc vẫn còn dựa trên sách vở và luật lệ mà chưa có các hành động mục vụ cụ thể. Chúng ta hy vọng THĐGM thường kỳ sắp diễn ra trong năm nay với mối quan tâm về mục vụ gia đình qua chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay” sẽ cho chúng ta những hướng dẫn cụ thể trong việc mục vụ hôn nhân gia đình quá ư là phức tạp này.
Nhân tiện khi nói đến biên cương mới của hôn nhân, tôi cũng muốn chúng ta suy nghĩ về mục vụ an táng.
Tại sao? Chúng ta biết rằng các dịp hiếu hỉ là những cơ hội thật thuận tiện và hữu ích để chúng ta thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân Ngài, là cơ hội chúng ta truyền giáo. Thực trạng sống đạo trong các giáo xứ cho chúng ta thấy không phải tất cả anh chị em giáo dân đều là những con chiên ngoan, những người sống và giữ đạo nghiêm túc. Nhiều anh chị em giáo dân chỉ đến với Giáo Hội qua những dịp như vậy.
Đặc biệt, mục vụ an táng là cơ hội rất thuận lợi để giáo xứ kiến tạo và kiện toàn sự hiệp thông nơi mọi thành viên trong giáo xứ, cách riêng nơi những anh chị em còn “lơ là” đời sống đức tin. Quả nhiên, việc kiến tạo và kiện toàn sự hiệp thông này được thể hiện rất cụ thể khi chúng ta “vui với người vui, khóc với kẻ khóc”, hiện diện để an ủi, nâng đỡ tinh thần thân nhân; khi cùng nhau chia sẻ và sống giá trị đức tin về mầu nhiệm sự sống trong Đức Kitô… Những hình ảnh thể hiện sự hiệp thông này cũng là một hành vi truyền giáo cho những anh chị em không cùng đức tin khi nhìn vào lối hành xử của chúng ta.
(Lưu ý: Thánh lễ tại gia không phải là một phần thưởng cho những người giữ đạo. Trên hết và trước hết, thánh lễ là ân sủng mà TC ban cho nhân loại qua Hy Tế của Đức Kitô. Giáo Hội, LM chỉ là máng chuyển thông ân sủng. Hơn nữa, Thiên Chúa luôn cho ánh sáng mặt trời chiếu sáng và mưa rơi trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vậy lý do gì chúng ta lại khó khăn, yêu sách khi những người thân trong tang quyến mở lòng xin một thánh lễ tại gia? Chúng ta cần vượt qua những cơ chế, những cứng cỏi trong mục vụ để tất cả vì lợi ích các linh hồn)
Cho nên, mục vụ hôn nhân và an táng cũng là dịp giáo xứ (linh mục và giáo dân) có thể đưa tay chạm đến được biên cương mới - những anh chị em đang sống trong tình trạng “ở xa” cộng đoàn, xa giáo xứ. Vì thế, việc cử hành sốt sắng các nghi thức, chuẩn bị bài chia sẻ Tin Mừng, cũng như thái độ hành xử của Linh mục, mối quan tâm tận tình của mọi thành viên trong giáo xứ không phải là một sự mời gọi nhưng là một trách nhiệm, một bổn phận mà chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiện trong hoạt động mục vụ. Vì chính trong việc cử hành sốt sắng, những bài giảng chuyển tải Lời Chúa đi vào lòng người, thái độ nhân từ của linh mục, và sự quan tâm tận tình của các thành viên trong giáo xứ, những anh chị em đang “xa quê” đó sẽ nhận ra mình không còn “xa quê”, không còn ở ngoài cộng đoàn, ở ngoài giáo xứ nhưng là một chi thể trong gia đình giáo xứ và đó chính là một trong những động lực để các anh chị em đó trở về.
Biên cương mới thứ ba chúng ta cần quan tâm là mục vụ bác ái – truyền giáo. Biên cương này chúng ta đã chia sẻ với nhau trong bài trước. Cho nên, trong phần này, một lần nữa, chúng ta chỉ lập lại một vài khẳng định chính yếu của Giáo Hội về ưu tiên chọn lựa người nghèo:
- Trong quả tim của Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo, đến nỗi chính Người “trở nên nghèo”. (EG 197)
- Hội Thánh lựa chọn người nghèo được hiểu như một “hình thức đặc biệt ưu đãi trong việc thực thi bác ái Kitô giáo, mà toàn thể truyền thống của Hội Thánh làm chứng” […] tôi muốn có một Hội Thánh nghèo cho người nghèo. […] Chúng ta cần phải để cho mình được họ (người nghèo) Phúc Âm hóa. […] Chúng ta được mời gọi để tìm thấy Đức Kitô trong họ, để cho họ mượn tiếng nói của mình mà nói lên những lý do của họ, nhưng còn là bạn bè của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn truyền thông qua họ. (EG 198)
- Nếu không có sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, “việc công bố Tin Mừng, là việc bác ái đầu tiên, có nguy cơ bị hiểu lầm hoặc bị chìm trong đại dương của những ngôn từ mà xã hội thông tin đại chúng ngày nay phô bày cho chúng ta hàng ngày (các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ). (EG 199)
- Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo cần phải được phản ảnh chủ yếu trong việc quan tâm đến đặc quyền và ưu tiên về tôn giáo của họ. (EG 200)
- Những hình thức mới của nghèo đói và yếu đuối mà trong đó chúng ta được mời gọi để nhận ra Đức Kitô đau khổ, mặc dù điều này có vẻ không mang lại cho chúng ta những lợi ích hữu hình và tức thời: những người vô gia cư, nghiện ngập, tị nạn, thổ dân, những người già cả và số những người bị cô lập và bị bỏ rơi càng ngày càng đông, cùng nhiều người khác (EG 210)
Biên cương mới thứ ba trong mục vụ giáo xứ của chúng ta là những người biết Chúa nhưng xa lìa giáo xứ vì những lý do nào đó (do thiếu hiểu biết, do hiểu lầm, do hoàn cảnh, bất mãn với linh mục, giáo xứ, …). Điều này mời gọi giáo xứ (linh mục cũng như giáo dân) phải chủ động, hãy lên chương trình, kế hoạch chữa trị những thiếu sót, hiểu lầm đó. Để có thể làm được, giáo dân cũng như chính bản thân linh mục chúng ta phải có một sự cởi mở, hiểu biết và thông cảm, không thành kiến và có tâm hồn luôn hướng về Chúa qua phần rỗi của anh chị em mình.
Biên cương mới thứ tư là mục vụ truyền thông.
Ngày nay, khi nói đến truyền thông, chúng ta đề cập đến tất cả mọi phương tiện thông tin đại chúng. Chúng ta rất vui vì nhiều giáo xứ (một số cha cũng vậy) đã có những trang thông tin trên mạng (trang web hay facebook, …). Đó là những phương tiện, những công cụ rất hữu ích để chúng ta loan truyền Lời Chúa, rao giảng các giá trị Tin Mừng. Một số giáo xứ khác, tuy không có trang web, cũng đang sử dụng những hình thức truyền thông thật sinh động qua các bảng thông tin giáo xứ, những bản tin (tờ rơi) mục vụ giáo xứ phát tận tay anh chị em giáo dân và đến mọi gia đình trong giáo xứ.
Đó là những sáng kiến mục vụ đáng khích lệ cho biên cương truyền thông, mang lại những hiệu quả tích cực.
Dẫu vậy, chúng ta cũng cần nhớ, trong phương diện truyền thông giữa con người với nhau, trước hết và trên hết, truyền thông đó là truyền thông bằng ngôn ngữ, ánh mắt và hành động. Do đó, mục vụ biên cương mới này, chúng ta hãy cổ võ một cách thế truyền thông, một lối sống đầy giá trị Tin Mừng: nói bằng ngôn ngữ của Tin Mừng, nhìn bằng lăng kính của Tin Mừng, hành động theo Tin Mừng.
Biên cương cuối mà chúng ta có thể chia sẻ với nhau trong mục vụ giáo xứ là mục vụ di dân.
Hiện nay, hiện tượng di dân đang là vấn đề nóng trong mục vụ của Giáo Hội, cách riêng nơi các giáo phận, các đô thị, các vùng có khu công nghiệp, có nền kinh tế xã hội thuận lợi. Tuy nhiên, bất cứ nơi đâu cũng sẽ có kẻ đi người đến. Vì thế, chúng ta cần phải quan tâm rất nhiều đến vấn đề di dân. Hiện nay có rất đông anh chị em, nhất là giới trẻ Công Giáo từ nông thôn tìm về thành phố để đi học hoặc kiếm công việc làm ăn. Thực tế này không những tác động trên đời sống kinh tế và xã hội, nhưng cả trên đời sống và sinh hoạt đức tin. Vì thế, cộng đoàn giáo xứ – cách riêng các linh mục – cần mở rộng vòng tay đón tiếp anh chị em di dân, tạo điều kiện cho họ tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, để họ cảm nhận được mình là thành viên của gia đình giáo xứ. Như thế, không những đời sống đức tin của họ được nâng đỡ, mà họ còn trở nên những nhân tố tích cực trong việc Tân Phúc-âm-hóa.
Theo tôi, quan tâm đến vấn đề di dân gồm 2 khía cạnh: thêm dân và mất dân.
Thêm dân (mối quan tâm di dân theo nghĩa thông thường hiện nay) nơi các đô thị, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến các bạn trẻ công nhân và sinh viên, dù là Công giáo hay không Công giáo, với những sáng kiến mục vụ tông đồ nơi giáo xứ: thánh lễ cho anh chị em xa quê, các nhà trọ, tư vấn, …
Mất dân (cách riêng là giới trẻ đi học hoặc làm việc ở các thành phố lớn):
- Khi giáo dân của chúng ta đến nơi khác học tập, sinh sống, chúng ta hãy tận dụng cơ hội để thể hiện sự quan tâm, động viên (điện thoại, email, …); khi cần thiết, hãy liên hệ, cộng tác với nơi mà giáo dân của chúng ta đến làm việc, sinh sống để có thể giúp đỡ, hỗ trợ đời sống đức tin cũng như cuộc sống mưu sinh, …
- Tại giáo xứ, để giữ dân, chúng ta cũng hãy tìm kiếm, kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức bác ái, phi chính phủ để giúp giáo dân của chúng ta nâng cao đời sống, có cơ hội phát triển, thăng tiến bản thân, …
Tóm lại, kính thưa anh em linh mục,
Đứng trước những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ ngày nay, linh mục chúng ta cần phải có một sự thích ứng tích cực. Chắc chắn, chúng ta phải giữ vững và dựa vào Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng ta phải có một sự áp dụng phù hợp vào mục vụ, phải đọc được các dấu chỉ thời đại – TC muốn chúng ta làm gì trong hoàn cảnh này. Để từ đó, chúng ta có những nỗ lực, cố gắng, có những sáng kiến trong mục vụ.
Để có thể được như vậy, chúng ta phải biết lên kế hoạch mục vụ. Điều này bắt nguồn từ trong chính Kinh Thánh: Kinh Thánh cho chúng ta kế hoạch cứu độ của TC được thực hiện từng bước, từng bước ra sao. Vậy, trong mục vụ, chúng ta cũng phải biết lên kế hoạch. Kế hoạch đó phải cho thấy được:
- Làm gì? Tại sao? Làm như thế nào? (ngay cả kinh phí để thực hiện)
- Sự cộng tác giữa mọi thành phần giáo xứ
- Sự quan tâm, ân cần, tôn trọng “người nghèo của TC”: mục tử ôm con chiên lạc – con chiên hư, con chiên ghẻ - không đánh đập, xua đuổi, chửi mắng nhưng vác trên vai.
Để kết thúc, chúng ta cùng suy tư “Điều con xin Chúa”: Con xin Chúa lấy đi sự kiêu ngạo ở trong con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng” sự kiêu ngạo không phải để Chúa lấy đi, nhưng là để con từ bỏ. Con xin Chúa chữa lành sự tật nguyền của con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: tinh thần mới là sự tuyệt hảo, còn thân xác chỉ là tạm thời. Con xin Chúa giúp con đừng gặp chước cám dỗ, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Cám dỗ sẽ dạy con biết con là ai, và giúp con biết nương tựa vào Chúa mà thôi. Con xin Chúa ban cho con hy vọng, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Hy vọng sẽ đến khi con biết cách tránh xa sự thất vọng. Con xin Chúa ban cho con sự kiên nhẫn, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Sự kiên nhẫn là sản phẩm của sự thống hối, nó không phải được ban tặng, nó phải được tìm kiếm. Con xin Chúa ban cho con hạnh phúc, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Chúa sẽ ban ơn lành, còn hạnh phúc tùy thuộc vào con. Con hỏi Chúa: Xin cho con nghỉ ngơi một chút, và Chúa nói: Con hãy tiếp tục phản ảnh tình yêu của Ta với mọi người. Con hỏi Chúa rằng: Chúa có yêu con không? Và Chúa nói CÓ. Vậy con xin Chúa giúp con yêu người khác nhiều như Chúa yêu con. Chúa nói: cuối cùng con đã hiểu ý Cha”.
Ước mong, một vài góp nhặt trong những bài chia sẻ có thể mang lại chút ít nào đó cho linh mục chúng ta trong vai trò là những người lãnh đạo, phục vụ giáo xứ. Cách riêng, trong năm Tân Phúc Âm hóa giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến này, khi nhìn lại giáo xứ, trách nhiệm linh mục, chúng ta sẽ tái phát xuất lại từ Tin Mừng, từ những mời gọi của Giáo Hội, và cụ thể tái phát xuất lại từ chính cam kết của mỗi anh em linh mục chúng ta trong ngày chịu chức Linh Mục để không chỉ làm cho dung mạo giáo xứ tươi đẹp, tràn ngập tinh thần Phúc Âm hơn, nhưng còn làm cho bản thân linh mục chúng ta bộc lộ chính xác và sinh động hình ảnh của Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành.
Kính thưa quý Cha và quý thày Phó tế.
Khi Đức Cha Giuse mời con đồng hành giúp quý Cha trong tuần Tĩnh Tâm Năm 2015 của Linh mục đoàn Giáo phận Phan Thiết, con đã đồng ý và từ đó suy tư để chọn lựa chủ đề cho tuần tĩnh tâm này. Với tâm tình theo hướng đi của Hội Đồng Giám Mục Việt-nam, con đã chọn lựa chủ đề Linh Mục và Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ và Cộng đoàn.
Giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định được thiết lập cách bền vững trong Giáo Hội địa phương, mà trách nhiệm mục vụ được ủy thác cho linh mục quản xứ như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền Giám mục giáo phận (GL 515 §1). Hay nói khác đi, Giáo xứ là một cộng đoàn bao gồm những người được rửa tội trong một không gian, phạm vi cụ thể. Như thế, nói đến giáo xứ là nói đến cả một thực thể sống động bao gồm tất cả mọi thành phần thuộc về nó. Cụ thể, với bầu khí tĩnh tâm năm của Linh mục đoàn trong năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ-Cộng đoàn, nói đến giáo xứ là nói đến linh mục và các anh chị em giáo dân, theo một khuôn mẫu thân thuộc với chúng ta.
Bên cạnh đó, trong tư cách là linh mục phục vụ giáo xứ, trong năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ này, chúng ta được mời gọi tái khám phá, làm tươi trẻ lại dung mạo của giáo xứ đúng theo ý muốn của Đức Kitô khi Ngài thiết lập Hội Thánh là cộng đoàn các môn đệ, cộng đoàn những người được sai đi.
Như vậy, thời gian ân sủng của những ngày tĩnh tâm này, chúng ta hãy đọc lại một vài giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến giáo xứ và những thành phần thuộc về nó. Để làm gì? Thưa, để có thể trả lại đúng dung mạo của giáo xứ, chúng ta cần phải tìm biết dung mạo của giáo xứ được Giáo Hội nói đến như thế nào.
Nói như thư chung của HĐGMVN 2014, Tân Phúc Âm hóa giáo xứ trong năm nay có nghĩa là giáo xứ cần được thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân. Tại sao lại cần làm cho tinh thần Phúc Âm phải thấm đượm giáo xứ? Phải chăng thật là mâu thuẫn khi giáo xứ, một cộng đoàn của dân Thiên Chúa, lại cần phải thấm đượm tinh thần Phúc Âm, vì tự thân, giáo xứ phải là như thế, tinh thần Phúc Âm phải tràn ngập nơi giáo xứ chứ?
Khiêm tốn nhìn nhận, chúng ta thấy rằng, các giáo xứ theo thời gian và trào lưu cuộc sống, diện mạo của giáo xứ đang bị bám bụi, đang bị lấm lem và có những vết bẩn. Do đó, năm phụng vụ 2015 đối với Giáo Hội Việt Nam là thời điểm mời gọi canh thân, thời điểm trở về nguồn của các giáo xứ.
Tuy nhiên, bất cứ một sự thay đổi, canh tân nào trong một nhóm, tổ chức, cộng đoàn nào cũng phải có người lãnh đạo, có người khởi xướng, thực hiện. Thông thường, người lãnh đạo, khởi xướng đó là người đứng đầu trong cộng đoàn, trong tổ chức, trong nhóm đó. Như vậy, chúng ta có thể nói với nhau rằng, để giáo xứ có thể được Tân Phúc Âm Hóa, các cha xứ nói riêng, các linh mục nói chung, phải là người cầm đầu, người lãnh đạo, phải là tác nhân thúc đẩy quá trình Tân Phúc Âm hóa trong sự cộng tác với ơn của Chúa Thánh Thần – Đấng là tác nhân chính.
Vì thế, để đạt đến mục tiêu “tái khám phá lại dung mạo của giáo xứ để có thể Tân Phúc Âm Hóa giáo xứ (có nghĩa là Phúc Âm Hóa cả linh mục và mọi thành phần khác trong giáo xứ)”, những bài chia sẻ trong tuần tĩnh tâm này, chúng ta sẽ bước đi theo một tiến trình như sau:
Trước tiên, nối tiếp năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình, chúng ta cùng đọc lại lời giáo huấn của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II về gia đình trong tông huấn Christifideles Laici với chủ đề “Giáo xứ - Mái ấm gia đình”.
Thứ hai, gia đình giáo xứ phải là một “Căn nhà của Lời” theo sứ điệp hậu THĐGM lần thứ 12 về Lời Chúa và tông huấn Verbum Domini của ĐTC Benedicto XVI.
Theo sau giáo huấn của hai ĐGH (Gioan Phaolô II và Benedicto XVI), chúng ta hãy đọc những thách đố của thế giới ngày nay của ĐTC Phanxico, Đức Giáo Hoàng đương nhiệm của chúng ta, trong sự soi chiếu về giáo xứ.
Sau ba bài suy tư về giáo xứ theo nhãn quan của ba vị Giáo Hoàng, trong bài thứ tư, chúng ta, trong tư cách là các linh mục, những người lãnh đạo cộng đoàn giáo xứ, nhìn lại quyền lợi và sự cộng tác của người giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội nói chung và của Giáo xứ nói riêng đã được đáp ứng và thực hiện ra sao.
Hai bài cuối cùng (bài năm và bài sáu) là hai bài xoay quanh việc dấn thân phục vụ trong tinh thần đức ái (bài năm) và các nẻo đường phục vụ mới của giáo xứ.
Ước chi, những góp nhặt này có thể mang lại cho quý cha một chút gì đó cho đời sống linh mục là hiện thân của Chúa Kitô cho dân Ngài, và góp phần làm cho hành trình Tân Phúc Âm hóa cộng đoàn giáo xứ nơi quý cha phục vụ đạt được những thành quả tích cực theo tinh thần mà Hội Đồng Giám Mục Việt-nam mời gọi cho Năm Phụng Vụ B này.
Bài 1: GIÁO XỨ - MÁI ẤM GIA ĐÌNH (Christifideles Laici)
Tin mừng Luca (Lc 2:51-52): “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Ðức Giêsu, ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.”
I. Giáo xứ - mái ấm gia đình
Gia đình luôn là hình ảnh thân thương và vô cùng gần gũi đối với mỗi người chúng ta. Trừ những trường hợp cá biệt, ai trong chúng ta cũng có những kỷ niệm, những ký ức, những hình ảnh thật đẹp về gia đình. Đó là khung cảnh cả gia đình quây quần bên mâm cơm; giây phút ngồi trao đổi, thưa chuyện cách đầm ấm; những khoảnh khắc chúng ta vui chơi, đùa giỡn với anh chị em, bè bạn, cha mẹ hay những người thân khác trong gia đình.
Đoạn Tin Mừng Luca chúng ta vừa nghe cũng cho chúng ta thấy hình ảnh một gia đình thật đẹp, thật hạnh phúc và thánh thiêng. “Vợ chồng thuận thảo, con cái ngày một ngoan hiền, tình làng nghĩa xóm đề huề” đi đôi với tâm tình luôn hướng về Thiên Chúa càng làm cho gia đình Giêsu-Maria-Giuse thật bình dị và ấm áp. Như vậy, nếu xét từ góc độ này, hai tiêu chuẩn làm cho một gia đình trở nên một mái ấm thật sự đó chính là sự tôn trọng, sự vâng phục thảo hiếu và ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa (cầu nguyện, suy niệm).
Gia đình là mái ấm mà trong đó mọi thành viên tôn trọng và yêu mến nhau. Hình ảnh gia đình Nazareth cho chúng ta thấy được sự thảo hiếu vâng phục của đứa con trong gia đình đối với người cha, người mẹ trong gia đình. Kinh Thánh còn nói tiếp, đứa trẻ ngày càng cao lớn, không chỉ càng có thêm ân nghĩa với Thiên Chúa mà còn có thêm ân nghĩa với người ta. Kinh thánh không kể gì thêm cho chúng ta về cuộc sống của gia đình Nazareth, ngoại trừ những gì chúng ta vừa đọc. Chúng ta không biết Giuse và Maria nói với nhau những điều gì, có tranh cãi với nhau về một chủ đề nào đó hay không? Nhưng người ta vẫn thường nói: “xem quả thì biết cây”. Như vậy, gia đình có một người con hiếu thuận, ân nghĩa với mọi người chung quanh đa phần, gia đình đó phải là một gia đình gương mẫu, một gia đình nề nếp. Hơn nữa, Kinh thánh cũng nói cho chúng ta “Đức Maria hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” tất cả mọi biến cố xảy ra; thánh Giuse sau khi được sứ thần báo mộng, ngài đã đón nhận Đức Maria về nhà mình. Thật đẹp thái độ và hành động của hai con người; thái độ và hình ảnh của hai con người luôn sẵn sàng mở lòng mình ra để đón nhận thánh ý Thiên Chúa, đón nhận những người thân trong gia đình, những người đi qua cuộc đời mình. Vậy thì còn nói gì nữa, chúng ta phải nói rằng, gia đình Giêsu-Maria-Giuse phải là một gia đình trên thuận dưới hòa, con cái thảo hiếu. Vâng, đó chính là một mái ấm.
Gia đình là mái ấm mà trong đó ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa luôn chi phối tất cả mọi hoạt động của các thành viên. Thánh Giuse được trình bày một cách mờ nhạt trong đời sống gia đình Nazareth. Kinh Thánh không trình thuật lại bất cứ một lời nói nào của ngài, ngoại trừ một vài những trắc ẩn, những nghi vấn và một vài thái độ, hành động của ngài mà thôi. Và như chúng ta vừa đề cập, thánh Giuse hoàn toàn làm theo thánh ý Thiên Chúa, chu toàn trách vụ là cha nuôi của Con Thiên Chúa; Đức Maria luôn ghi khắc mọi sự trong lòng; còn trẻ Giêsu ngày cảng thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa. Cho nên, gia đình thánh gia luôn ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa chi phối mọi hoạt động của các thành viên trong gia đình Nazareth.
Số 15 của tông huấn Familiaris Consortio còn mở cho chúng ta một sứ vụ to lớn hơn của gia đình, đó là sứ vụ đưa mỗi người vào trong một gia đình rộng lớn hơn, đó là “gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa” từ những tương quan cụ thể và thường ngày của đời sống gia đình. Hóa ra, gia đình là một mái ấm không chỉ bó gọn trong chính nó, nhưng mái ấm đó còn phải đưa dẫn mọi thành viên đến với những cá nhân khác ở ngoài gia đình riêng của mình, và đặc biệt là đến được với Thiên Chúa.
Như vậy, với lăng kính giáo xứ là một gia đình, chúng ta – những linh mục – chúng ta nghĩ gì?
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng chúng ta cũng có một gia đình: gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận. Từ đó, chúng ta thử nhìn lại về gia đình giáo xứ của chúng ta có thực sự là mái ấm tràn ngập tình yêu, sự tôn trọng và thánh ý Thiên Chúa luôn là mối bận tâm của mọi thành viên không?
Rồi với tư cách là những người đứng đầu, phục vụ cộng đoàn, chúng ta hãy xét mình, chúng ta đã làm cho giáo xứ chúng ta trở nên mái ấm? Nếu chúng ta đã làm được, vậy chúng ta hãy tự kể cho chính mình những gì chúng ta đã làm để có thể kiến tạo gia đình giáo xứ trở thành một mái ấm? Còn nếu giáo xứ chưa thực sự là mái ấm, chúng ta có nhìn ra được đâu là những vấn đề làm ngáng trở cho giáo xứ trở thành mái ấm cho mọi người? Chúng ta sẽ giải quyết ra sao đối với những ngáng trở đó?
Tương tự, chúng ta cũng hãy duyệt xét chúng ta đã, đang và sẽ phải làm gì để có thể đưa từng người, từng cá nhân một và ngay cả chính bản thân mình trong mái ấm đó đi vào được những gia đình rộng lớn hơn (“gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa”)?
Thực tế cuộc sống cho thấy có những gia đình không hạnh phúc, không thấy được tình yêu thương ngự trị,…; gia đình đó không là một gia đình thực sự, không là một mái ấm theo nghĩa của nó. Tương tự, đời sống Giáo Hội, giáo phận, giáo xứ cho chúng ta một số cộng đoàn cũng không có được “trong ấm ngoài êm”. Điều đó cho thấy đời sống giáo xứ vẫn còn đó một vài điểm tối. Và là người lãnh nhận trách nhiệm phục vụ, dù có nỗ lực, có cố gắng nhiều nhưng chúng ta phải thú nhận rằng, chúng ta còn thiếu sót, chưa làm tròn bổn phận mà chúng ta đã tự nguyện đảm nhận (những lời cam kết trước khi lãnh nhận chức thánh).
II. Giáo xứ - gia đình hiệp thông
Một khía cạnh khác nói lên “giáo xứ là mái ấm” chính là chiều kích hiệp thông.
Chúng ta nhận thấy rằng, hiệp thông không phải là một thứ có sẵn, hiện diện cách mặc nhiên trong đời sống tập thể, đời sống cộng đoàn. Nó là một “kết quả” được tạo nên từ thái độ và hành động của mỗi phần tử trong tập thể, cộng đoàn đó. Chỉ cần một phần tử, một thành viên trong nhóm, trong cộng đoàn đó không sống giá trị hiệp thông, cộng đoàn đó, nhóm đó chưa là một mái ấm, chưa là một gia đình hiệp thông.
Thế nên, sự hiệp thông luôn là một yếu tố không thể thiếu trong bất cứ một cộng đoàn, một nhóm nào. Đặc biệt hơn, trong đời sống đức tin của chúng ta, hiệp thông không chỉ là một yếu tố không thể thiếu, nếu có thể nói cách mạnh mẽ rằng nó là bản chất của cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta xác tín chính Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa, đã nói cho chúng ta biết nguồn cội sự hiệp thông mà chúng ta cần phải có trong bất cứ đời sống cộng đoàn nào, được khởi đi từ chính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi. Hay nói rõ hơn, sự hiệp thông mà chúng ta cần có trong đời sống giáo xứ phải khuôn đúc theo sự hiệp thông của Ba Ngôi.
Lần mở lại những trang Tin Mừng, chúng ta thấy tất cả mọi hoạt động của Đức Giêsu đều kết hiệp với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (biến cố chịu phép rửa ở sông Giođan, đi vào sa mạc ăn chay 40 đêm ngày, tuyển chọn các môn đệ, …), hay nói khác đi, ý định cứu độ tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, cho nên tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa đều có hình ảnh của Ba Ngôi, cả ba cùng hoạt động trong một kế hoạch duy nhất. Đây chính là nguồn cội cho sự hiệp thông của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận và cho cả toàn thể Giáo Hội.
Vì vậy, mỗi người Kitô hữu nói chung, mỗi cộng đoàn giáo phận, giáo xứ nói riêng, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Ba Ngôi. Đó là thái độ, tinh thần hiệp thông. Bởi chưng, được tháp nhập vào cây nho thật là Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy, được nuôi dưỡng, trở nên một Thân Mình với Đức Kitô, chúng ta phải sống sự hiệp thông với Chúa và anh em. Điều này ta có thể thấy được chính những tín hữu của cộng đoàn Giáo Hội sơ khai đã nêu gương cho chúng ta: "Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau […]. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ" (Cv 2:44-46).
Quả thật, cộng đoàn Giáo Hội sơ khai đã cho chúng ta một khuôn mẫu cụ thể hơn về sự hiệp thông của cộng đoàn, của giáo xứ, của giáo phận.
Trước tiên, đó là một cộng đoàn hợp nhất, đồng tâm nhất trí với nhau. Đây là một điều không dễ đối với chúng ta. Dễ dàng gì chúng ta có được một cộng đoàn, một giáo xứ, một giáo phận hoàn toàn hợp nhất với nhau, hoàn toàn cùng một lòng một chí. Bởi nơi giáo xứ trong đời sống giáo phận, có những chuyện chia rẽ, những lời nói, thái độ, hành động gây mất tình đoàn kết, hiệp thông, những chống đối “nổi” cũng như “chìm” vẫn diễn ra. Ngay trong cộng đoàn Giáo Hội sơ khai, được xem là cộng đoàn hiệp nhất, đồng tâm nhất chí với nhau, vẫn còn có những điều tiêu cực, những con người sống không chân thành (vợ chồng ông bà Khanania và Xaphira – Cv 5:1-11 – giấu bớt số tiền bán đất), hoặc không công bằng với các bà góa.
Tuy sự hiệp thông không dễ có nhưng không phải là không thể được. Chúng ta có thể khám phá ra một giá đỡ cho sự hiệp thông của cộng đoàn đầu tiên. Giá đỡ đó là sự cầu nguyện, là việc cùng nhau quy tụ để cử hành lễ bẻ bánh.
Thì ra, chính đời sống thiêng liêng, đời sống cầu nguyện là một trong những tác nhân vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên và duy trì sự hiệp thông. Như thế, sự ấm áp, yêu thương, sự hiệp thông nơi gia đình giáo xứ phải được củng cố nơi nguồn mạch của nó chính là việc cử hành lễ bẻ bánh, Hy Tế Thánh Thể. Vì chưng, trong Hy Tế Thánh Thể, chúng ta cử hành, chúng ta sống giá trị của sự tự hiến, trao ban và hiệp nhất.
Sự quy tụ với nhau trong một ngôi thánh đường, cử hành một giờ cầu nguyện, cử hành Thánh Thể là một dấu chỉ hữu hình cho thấy sự hiệp thông, sự hiệp nhất của gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận. Hay ngay giây phút này đây, trong những ngày ân sủng này đây, anh em linh mục trong toàn giáo phận quy tụ về mái nhà chung, quy tụ bên Đức Giám Mục – người cha, người thầy, người anh em của mình – cũng là một dấu chỉ nói lên sự hiệp thông trong đời sống gia đình giáo phận.
Hơn nữa, không chỉ quy tụ để cử hành, chúng ta còn sống Hy Tế Thánh Thể. Chính việc sống Hy Tế Thánh Thể bộc lộ triệt để hơn giá trị của sự hiệp thông. Đó là một sự hiệp thông của tình yêu, của sự trao ban, của sự tự hiến. Sau khi cử hành Thánh Thể trong ngôi thánh đường, mọi thành viên trong gia đình giáo xứ cử hành Thánh Thể nơi gia đình, nơi môi trường sống của mình khi chấp nhận tự hủy, chấp nhận mất mát, chấp nhận hy sinh vì lợi ích, vì phần rỗi của những người chung quanh.
Câu hỏi được đặt ra: cộng đoàn nơi chúng ta đang sống – giáo xứ, giáo phận - tinh thần hiệp thông ra sao? Trong gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận, liệu chúng ta có như các tín hữu sơ khai là hợp nhất với nhau? Hy tế Thánh Thể chúng ta, những linh mục đóng vai trò chủ sự, đã được cử hành và sống như thế nào?
Trong tình gia đình, trong tinh thần thẳng thắn và khiêm nhường, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta ít nhiều cũng mang lấy nơi mình men Pharisiêu, men biệt phái. Nhiều khi chúng ta nói, chúng ta cử hành nhưng chúng ta chưa sống bao nhiêu. Đáng ra trong vai trò là người đứng đầu, là người chủ sự cử hành Thánh Thể, chúng ta phải trở nên Thánh Thể. Nghĩa là, chúng ta phải thực hiện sự nối kết, quy tụ, hiệp nhất, trao ban, tự hiến. Thế nhưng, nhiều lúc, chính chúng ta là những người gây sự chia rẽ, phân biệt, loại trừ, chống đối. Nếu như thế, hóa ra Thánh Thể lại tự mâu thuẫn sao? Không, Thánh Thể không bao giờ mâu thuẫn tự nội, không bao giờ đi ngược và tự phá hủy chân giá trị của mình. Những tiêu cực xảy ra là do chính bản thân mỗi người chúng ta đã không thực thi, đã không sống đúng với giá trị Thánh Thể mà đích thân mình cử hành. Đây là một sự nhắc nhớ cho linh mục chúng ta. Chúng ta hãy cử hành và hãy sống những gì chúng ta cử hành. Ở đây, tôi mời gọi anh em hãy nhớ lại lời khuyến dụ trong ngày thụ phong phó tế “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy” cũng như trong ngày chịu chức linh mục “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thánh giá Chúa”.
Vì vậy, sự hiệp thông bao hàm những mối tương quan sinh động và cụ thể. Trong hiệp thông, mọi thành viên sống tinh thần liên đới và chia sẻ không chỉ với nhau về mọi khía cạnh của cuộc sống nhưng còn mở rộng tình liên đới và chia sẻ đó cho những người không thuộc về gia đình giáo xứ của mình. Nói khác đi, hiệp thông là đồng trách nhiệm và bác ái. Để là mái ấm, giáo xứ phải có tinh thần huynh đệ, đồng trách nhiệm, bác ái và rộng mở.
Chiều kích Huynh đệ: Cùng quy hướng về sứ mạng mà Đức Giêsu để lại, tất cả các thành viên trong gia đình giáo xứ cộng tác với nhau trong tinh thần hiệp thông và đồng trách nhiệm. Đích nhắm chỉ đạt được khi mọi đoàn thể, tất cả các thành viên đều đồng tâm nhất chí với nhau. Vì vậy, tinh thần huynh đệ, sự hiệp thông và việc cảm thông, tha thứ liên tục phải là dưỡng khí cho mọi hoạt động, mọi sự cộng tác của các thành viên trong gia đình giáo xứ.
Chiều kích Rộng mở: Sự rộng mở đó không chỉ bao hàm sự cởi mở, ân cần và vui tươi đón tiếp mọi người, nhưng nó còn bao hàm cả một sự tôn trọng và đón nhận sự cộng tác của tất cả những ai muốn cộng tác và dấn thân cho việc mục vụ và sự thăng tiến của giáo xứ, của cộng đoàn. Hơn nữa, sự rộng mở còn mang yếu tố toàn diện. Nó là một sự dàn trãi, rộng mở cho tất cả mọi đối tượng thuộc mọi giới, lứa tuổi hay trình độ. Bởi vì, đặc tính rộng mở của gia đình giáo xứ được bắt nguồn từ khuôn mẫu Ba Ngôi.
Nói đến việc rộng mở, tôi nhớ đến lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: “tôi muốn cánh cửa nhà thờ lúc nào cũng phải luôn rộng mở” (EG, số 47). Đối với tôi, sự rộng mở cánh cửa của nhà thờ bao hàm hai ý tưởng: chào đón mọi người và đón nhận sự cộng tác.
Cánh cửa luôn rộng mở để mọi người có thể đến với ngôi nhà của Chúa, ngôi nhà chung. Chúng ta nghĩ gì khi người giáo dân được mời gọi đóng góp, đóng góp và đóng góp để xây dựng ngôi thánh đường, ngôi nhà xứ; nhưng khi đã hoàn thành, ngôi nhà thờ, nhà xứ đó lại được cửa đóng then cài. Dĩ nhiên, cũng có những lý do về an ninh, về gìn giữ của cải chung. Nhưng liệu có công bằng hay không khi chúng ta nói nhà thờ, nhà xứ là của giáo dân (và đúng là như vậy, nhà Chúa là nhà của dân Người, là nơi quy tụ và diễn ra mọi hoạt động – hãy đọc lại diễn tiến cuộc xuất hành, Hòm bia TC – chính là TC – luôn ở giữa dân Người, họ cầu nguyện, dâng hy lễ, ca hát nhảy múa trước Hòm bia TC), chúng ta lại khó khăn, lại khó chịu vì không muốn bị làm phiền bởi giấc ngủ, vì sự ồn ào, bởi sợ mất thời gian, … Có một số giáo xứ, nhà thờ đã trở thành một cơ quan hành chính, linh mục đã trở nên một công chức vì quy định giờ giấc làm việc, giờ giấc tiếp giáo dân một cách cứng ngắt và lạnh lùng; nhà thờ, nhà xứ trở nên một lãnh địa, một thế giới riêng của cha mà không một ai được phép xâm phạm. Đức Hồng Y Bergolio khi chưa là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từng nói: “Hãy mở cánh cửa cho người nghèo, vì nguy cơ lớn nhất... là khi cánh cửa nội tâm bị đóng kín với những tư lợi, thì không còn chỗ cho người khác nữa, những người nghèo không thể vào được nữa, người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa..., tim họ không còn đập những nhịp nhiệt thành để làm việc thiện nữa…”
Cánh cửa luôn rộng mở còn bao hàm một sự mời gọi và đón nhận sự cộng tác của tất cả mọi thành phần: tuổi tác, học vấn, đức tin, những người thuộc về giáo xứ hay ngoài giáo xứ, …
Mục tiêu cần mời gọi mọi thành phần trong giáo xứ cùng cộng tác đạt tới: “Tất cả chúng ta thi hành sứ vụ cách mới mẻ, bằng nhiệt tình mới, năng lực mới và phương pháp mới.” (Thư Mục vụ HDGMVN, số 3).
Bài 2: GIÁO XỨ - CĂN NHÀ CỦA LỜI
(Sứ điệp hậu THĐGM 12 – Lời Chúa)
Tin mừng Gioan (Ga 1:1-5): “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.”
I. Giáo xứ - Căn nhà của Lời (x. Sứ điệp hậu THĐGM 12 – Lời Chúa)
1. Thiên Chúa đến nhà của Ngài
Trong ngày đại lễ Giáng Sinh, bài Phúc Âm của lễ ban ngày được trích trong Tin Mừng Gioan – đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Đoạn Tin Mừng này muốn khẳng định cho chúng ta về nguồn gốc sâu xa của Đức Giêsu. Đó là việc Người là “Lời” của Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa. Khởi điểm của toàn thể lịch sử là Thiên Chúa. Qua Lời của Thiên Chúa, mọi sự được hiện hữu, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.” (Ga 1:1-3).
Thánh Phaolô giải thích và nói cụ thể hơn cho chúng ta về phương diện mọi sự được tạo thành nhờ, qua và trong Đức Giêsu Kitô và quy hướng về Người. Đó là Cha tạo dựng qua Đức Kitô; nhờ Đức Kitô, chúng ta hiện hữu là quy hướng về Cha, về Đức Kitô, trở nên như Đức Kitô.
- Chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Ðấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu. (1Cr 8:6)
- Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình và vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. (Cl 1:16)
- Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Ðấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1:2)
Như thế, khi Nhập Thể và Nhập Thế, Đức Giêsu Kitô – Lời của Thiên Chúa và là Thiên Chúa – đã đi vào nhà của Người. Người đi vào gia đình của mình, không phải đi vào một nơi xa lạ, đất khách quê người.
2. Giáo xứ - Căn nhà của Lời
Ngôi Lời đã mặc lấy tính đặc thù của con người khi Người nhập thể và đi vào trong một gia đình nhân loại cụ thể, khởi đầu cho một câu truyện, một lịch sử về con người mang tên là Giêsu trong một nơi chốn, thời gian và nét văn hóa đặc thù. Giáo Hội – thực thể được Đức Giêsu thiết lập – cũng vậy. Giáo Hội được nhập thể trong một không gian và thời gian. Để chính trong bối cảnh cụ thể đó, Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình. Tương tự thế, giáo xứ - tế bào của Giáo Hội - cũng phải là căn nhà của Lời. Bởi chưng, được quy tụ gồm những con người cụ thể, trong một nơi chốn đặc thù, giáo xứ trở nên mái nhà của Thiên Chúa, hay đúng hơn, trong giáo xứ, con người được sống với Thiên Chúa.
Kế đến, trong lăng kính của việc đón nhận Lời, chúng ta thấy rằng Giáo Hội như là một thực thể được xác định qua việc đón nhận Lời – lắng nghe liên lỉ và công bố Lời Thiên Chúa không ngừng. Lời Thiên Chúa là nguồn sinh dưỡng cho tất cả mọi khía cạnh sự sống của Giáo Hội. Thu nhỏ lại, giáo xứ cũng phải như vậy. Giáo xứ, căn nhà của Thiên Chúa, cũng phải là tập hợp những con người không ngừng đón nhận Lời Thiên Chúa, hầu làm cho sự sống nơi mình ngày càng tràn đầy nhựa sống.
Ở đây, lời của Tông huấn Verbum Domini đang vang vọng lên cho mỗi người chúng ta khi chúng ta suy tư về việc Giáo Hội nói chung và Giáo xứ nói riêng – căn nhà của Thiên Chúa – trong việc đón nhận Lời:
- "Người đã đến nhà mình" (Ga 1:11) nhưng "người nhà" "đã không chịu đón nhận" Người (Ga 1:11). Không đón nhận Lời có nghĩa là không lắng nghe tiếng của Lời, không sống phù hợp với Logos. Ngược lại, nơi nào con người, dù mỏng giòn và tội lỗi, chân thành mở ra gặp gỡ Đức Kitô, thì nơi ấy bắt đầu xuất hiện một sự thay đổi tận căn: "còn những ai đón nhận thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Ga 1:12). Đón nhận Ngôi Lời có nghĩa là để cho Người uốn nắn để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, với "Con một đến từ Chúa Cha" (Ga 1:13) nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đó là khởi đầu cho một cuộc tạo thành mới. (VD 50)
- Giáo Hội là một cộng đoàn lắng nghe và công bố Lời Thiên Chúa. Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng và, từ Tin Mừng này, Giáo Hội vẫn lại luôn luôn rút ra được một định hướng cho hành trình của mình. Đây là một nhận định mà mọi Kitô hữu phải đón nhận và áp dụng cho chính mình: chỉ người nào đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời thì mới có thể trở thành kẻ loan báo". ( VD 51)
II. Vai trò “chủ nhà” của Lời
Giáo xứ là căn nhà của Lời, có nghĩa Lời chính là chủ nhà và tất cả mọi khía cạnh của căn nhà đó phải thể hiện, phải phản ánh dung mạo của Lời.
1. “Lời” chi phối mọi hoạt động
Trong một gia đình, những ý muốn, mệnh lệnh hay yêu cầu của người đứng đầu luôn phải được tôn trọng và tuân phục. Sự tôn trọng và tuân phục thể hiện tấm lòng yêu mến, thảo kính với người trên. Hơn nữa, trong ngôi nhà của Ngôi Lời, trong gia đình của Thiên Chúa, điều này càng phải được thực hiện một cách nghiêm túc, trọn vẹn và ngay lập tức. Bởi vì, tất cả những gì chúng ta có (sự hiện hữu, được quy tụ trong gia đình Thiên Chúa) là ân sủng, là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa tặng ban: “Trước tình thương chan chứa của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi mở rộng lòng, “vâng phục” trước tình yêu bao la đó. Đó là một lời đáp trả tự do của con cái đối với Cha. Vì con người được mời gọi nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô, Con Chí Ái của Ngài.”(VD 22)
Cho nên, toàn bộ đời sống của Giáo Hội, của Giáo xứ, của từng cá nhân phải trở nên, phải luôn là một chuỗi những lời đối thoại không ngừng với Thiên Chúa vì cuộc sống con người chúng ta phải dọi chiếu vào những lời mời gọi của Ngài. (x.VD 24) Như thế, Lời Thiên Chúa phải là quy luật cho đời sống đức tin và đời sống luân lý của chúng ta (x. LG 15):
- Kinh Thánh là một quy luật khách quan tối thượng cho đời sống đức tin. Vì Thiên Chúa nói với chúng ta qua Thánh Kinh và Thiên Chúa không thay đổi. (DV 1; VD 18)
- Thánh Kinh truyền lại cho chúng ta những gì Đức Giêsu nói, hành động. Đồng thời, luân lý không gì khác hơn là bắt chước giống Đức Kitô. Vì cội rễ của tội lỗi là khước từ Thiên Chúa. (x. VD 26)
2. Giáo xứ “sống” Lời
Nét đặc trưng, cụ thể nhất mà người ta thường nói đến giáo xứ chính là việc cử hành phụng vụ. Tuy nhiên, giáo huấn Giáo Hội cũng dạy chúng ta rằng “Phụng vụ là môi trường đặc trưng để Thiên Chúa nói trong đời sống hiện tại của chúng ta, là nơi hôm nay Thiên Chúa đang nói với dân của Ngài và dân đang lắng nghe và đáp trả”. (VD 52). Như thế, giáo xứ “sống” Lời cũng có nghĩa là giáo xứ đang liên lỉ thực hiện các hành động nối tiếp nhau như một vòng trôn ốc của sự “lắng nghe – cử hành phụng vụ – cử hành đời sống – lắng nghe” trong chính thực tại hằng ngày của giáo xứ, rõ hơn là của tất cả mọi thành viên trong giáo xứ.
2.1. Lắng nghe
Đây là bước đầu tiên trong việc “sống” Lời. Tuy là bước đầu tiên nhưng nói lại là bước vô cùng quan trọng. Nó quan trọng vì Lời luôn vang vọng, luôn ngỏ với con người và mời gọi con người đón nhận qua tất cả mọi biến cố, mọi giây phút và cách đặc biệt qua chính Lời nhập thể nơi cuốn sách – Kinh Thánh. Bên cạnh đó, sự lắng nghe đòi buộc người nghe phải tập trung để nghe và có một dự thế nội tâm là sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Lời đang ngỏ với. Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng "đức tin đến từ việc lắng nghe và lắng nghe ở đây là nghe Lời Chúa" (Rm 10:17). Đồng thời, việc lắng nghe này không chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng nó còn phải mang chiều kích của cộng đoàn được quy tụ để đón nhận Lời. Bởi lẽ, Lời Cứu Độ không mang chiều kích cá nhân nhưng mang tính cách cộng đoàn.
2.2. Cử hành Phụng Vụ
Hiến chế Phụng Vụ thánh Sacrosanctum Concilium số 52 viết “Phụng Vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội”. Còn trong tông huấn Verbum Domini số 52, ĐTC Benedicto XVI nói với chúng ta rằng “tự bản chất, mọi hành động phụng vụ (bí tích, thánh lễ, các giờ kinh phụng vụ…) đều được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh”.
Như vậy, trong khi cử hành Phụng Vụ, giáo xứ đang “sống” Lời trên phương diện kín múc nguồn ân sủng được tuôn tràn trên nhân loại qua các hành động phụng vụ:
- Người ta thấy khoa sư phạm khôn ngoan của Giáo Hội khi theo nhịp điệu của năm phụng vụ mà công bố và lắng nghe Kinh Thánh. Sự dàn trải của Lời Thiên Chúa trong thời gian được thể hiện một cách đặc biệt trong việc cử hành Thánh Thể và trong Phụng Vụ các Giờ Kinh. Ở trung tâm của tất cả, Mầu nhiệm Vượt Qua chói sáng và gắn liền với mầu nhiệm ấy là tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô và của lịch sử cứu độ được hiện tại hóa theo cách bí tích: "Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc". (VD 52)
- Trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính trình diễn (performatif, trình bày-và-thực-hiện) của Lời […] Trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời đang thực hiện điều Lời nói. (VD 53)
- Điều xảy ra hằng ngày trong các thánh đường của chúng ta: tiếp nối bài giảng của Chúa Giêsu về Môisê và các ngôn sứ, là việc Bẻ Bánh Thánh Thể tại bàn ăn. Ðó chính là lúc đối thoại thân tình của Thiên Chúa với dân của Ngài, là hành vi giao ước mới được ký kết trong máu Chúa Kitô (x. Lc 22:20), là công trình tột đỉnh của Ngôi Lời, Ðấng hiến mình làm lương thực trong thân thể chịu hiến tế, là nguồn mạch và là tột đỉnh đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. […] Vì vậy, cần phải đưa trở lại vị trí trung tâm đời sống Kitô giáo "phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, vốn được liên kết chặt chẽ với nhau đến độ họp thành một hành vi thờ phượng duy nhất " (SC 56) (Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 8).
- Lời và Thánh Thể liên kết mật thiết với nhau đến độ không thể hiểu cái này mà không có cái kia … Giáo Hội đã không bao giờ ngừng cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô bằng cách họp nhau để "đọc trong tất cả Sách Thánh những gì liên quan đến Người" (Lc 24:27) và để thực hiện công trình cứu độ nhờ việc tưởng niệm Đức Chúa và nhờ các Bí tích". (VD 55)
- Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa và không ngừng lấy bánh ban sự sống từ tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể để ban phát các tín hữu (DV 21).
- Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng. Không phải của ăn Thánh Thể biến thành chúng ta, nhưng chính chúng ta được biến đổi cách mầu nhiệm bởi Thánh Thể. Đức Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng cách nối kết chúng ta với Người; “Người lôi kéo chúng ta đến với Người". Việc cử hành Thánh Thể, với tất cả sức mạnh của mình, tỏ hiện như là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, vì nó đồng thời vừa là khởi đầu vừa là hoàn bị phượng tự mới và tối hậu (Sacramentum Caritatis, 70)
2.3. Cử hành đời sống
Từ việc cử hành phụng vụ, đón nhận, kín múc ân sủng, giáo xứ được mời gọi đi đến bước thứ ba là cử hành đời sống. Nếu việc cử hành phụng vụ được thực hiện trong nhà thờ, nhà nguyện, việc cử hành đời sống này được cử hành trong chính bối cảnh sống của mỗi thành viên trong giáo xứ và của giáo xứ. Tông huấn Sacramentum Caritatis nhắc nhớ:
- Các tín hữu “được đào tạo bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi hàn tiệc Mình Chúa, họ tạ ơn Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với Ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Đức Kitô, Đấng Trung Gian, họ được cuốn hút vào trong tình liên đới với Thiên Chúa và với nhau. (số 52)
- Thánh Thể, hy lễ của Đức Kitô, cũng là hy lễ của Hội Thánh, và như thế là của mọi tín hữu. (Sacramentum Caritatis, 70)
Vì vậy, việc cử hành đời sống chính là "sự hiệp thông huynh đệ, một danh xưng khác của từ agápe, nghĩa là tình yêu Kitô. Như Chúa Giêsu nhắc nhớ, để trở thành anh chị em của Ngài, thì cần phải là "những người lắng nghe Lời Chúa và mang ra thực hành" (Lc 8:21). Lắng nghe đích thực chính là vâng lời và hành động, là làm cho công lý và tình thương nảy sinh trong cuộc sống, là làm chứng tá trong cuộc sống và trong xã hội theo đường hướng tiếng gọi của các ngôn sứ, liên tục nối kết Lời Chúa với cuộc sống, niềm tin và sự ngay chính, việc phụng tự và sự dấn thân xã hội. Ðó là điều Chúa Giêsu đã nhiều lần lập lại, từ lời nhắn nhủ nổi tiếng trong Bài Giảng trên núi: "Không phải kẻ nói rằng: Lạy Chúa, Lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng là những người thi hành ý Cha Thầy ở trên trời" (Mt 7:21). Trong câu nói này dường như vang âm Lời Chúa đã được ngôn sứ Isaia trình bày: "Dân này chỉ đến gần Ta bằng lời nói, cầu khẩn Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa Ta" (29:13). (Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 10)
2.4. Lắng nghe
Lắng nghe ở giai đoạn này chính là khởi điểm cho một chu trình lắng nghe mới. Quả thế, được Thiên Chúa ngỏ lời, mời gọi và quy tụ, giáo xứ “sống” Lời khi cùng nhau cử hành phụng vụ. Qua việc cử hành phụng vụ, giáo xứ kín múc được nghị lực, ân sủng để có thể “sống” Lời trong đời sống, hay nói khác đi là cử hành phụng vụ đời sống. Và chính thực tại của đời sống là những lời ngỏ của Thiên Chúa mời gọi chúng ta lại tiếp tục và tiếp tục mãi hành trình lắng nghe.
“Nhìn trong viễn tượng này, toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe, đang mời gọi và hướng dẫn đời ta. Ở đây, Lời Thiên Chúa cho ta thấy trọn cuộc sống con người diễn ra dưới lời mời gọi của Ngài.” (VD 24)
Cho nên, bản thân chúng ta, những linh mục, hãy thực hiện lectio divina (việc đọc và cầu nguyện trong Thánh Linh) cũng như hãy thúc đẩy việc thực hành này trong giáo xứ của mình theo lời mời gọi của Giáo Hội. Hy vọng qua việc thực hành này, mọi người trong giáo xứ có thể khám phá ra kho tàng quý giá của Lời Chúa và có được cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô là Lời Chúa hằng sống. (x. Sứ điệp hậu THĐGM 12, số 9)
3. Diện mạo “Lời” nơi Linh mục
3.1. Linh mục – Thừa tác viên của Lời
Thật hữu ích cho chúng ta khi đọc lại Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis - PO) trong phần này. Vì lẽ, số 4 của Sắc lệnh nhắc nhớ cho chúng ta những bổn phận phải thực thi trong tư cách là linh mục:
“Dân Chúa được đoàn tụ trước hết là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống; lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các Linh Mục. Thực vậy, không ai có thể được cứu rỗi nếu trước đó không có lòng tin. Do đó, các Linh Mục, vì là cộng sự viên của các Giám Mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Phúc Âm của Thiên Chúa, để khi thi hành mệnh lệnh của Chúa: "Các con hãy đi khắp thế giới rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật" (Mc 16:15), các ngài thiết lập Dân Chúa và làm cho Dân Chúa càng ngày càng đông thêm. Thật thế, chính lời cứu rỗi khơi động đức tin trong tâm hồn những người chưa tin và nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu; chính đức tin này đã khai sinh và phát triển cộng đoàn tín hữu, như lời Thánh Tông Ðồ: "đức tin do nghe nói, còn điều nghe nói thì bởi lời Chúa Kitô" (Rm 10:17). Do đó, các Linh Mục mắc nợ với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý Phúc Âm mà các ngài đã nhận được nơi Chúa. Vì thế […] trong mọi trường hợp, phận sự của các ngài không phải là giảng dạy sự thông biết của mình, nhưng là giảng dạy lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh. Nhưng trong tình trạng thế giới ngày nay, lời giảng thuyết của Linh Mục thường gặp rất nhiều khó khăn. Do đó để dễ lay chuyển tâm hồn thính giả, giảng thuyết không phải chỉ là trình bày lời Chúa một cách tổng quát và trừu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý ngàn đời của Phúc Âm vào các hoàn cảnh cụ thể của đời sống.” (PO 4)
Ngoài ra, ĐTC Benedicto trong tông huấn Verbum Domini cũng nói với chúng ta rằng trong hành động mục vụ, các tín hữu không phải lúc nào cũng ý thức hay nhận ra được tính duy nhất giữa cử chỉ và lời nói. Do đó, trong khi cử hành các Bí tích, các linh mục phải nêu bật sự duy nhất giữa Lời và Bí tích trong thừa tác vụ mình lãnh nhận Giáo Hội. (x. VD 53)
Hay nói rõ hơn, đời sống của linh mục phải là một sự thống nhất từ trong ra ngoài, từ lời nói đến hành động. Hay như tôi đã đề cập trong bài vừa rồi khi mời gọi chúng ta nhớ lại lời huấn dụ của Đức Giám Mục trong ngày thụ phong Phó Tế và Linh Mục: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy” và “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và khuôn rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thánh Giá Chúa”.
Kế đến, trong tư cách là thừa tác viên của Lời, chúng ta không thể không đề cập đến vấn đề bài giảng – một chủ đề nóng bỏng, được rất nhiều mối quan tâm không chỉ từ Giáo Hội mà còn từ phía người giáo dân.
Ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến những lời khen chê từ bất cứ một phía nào, nhưng chúng ta hãy lắng nghe lại những lời mời gọi, chỉ dạy của Giáo Hội:
Trước tiên là tầm quan trọng của bài giảng. ĐTC Benedicto khẳng định “Bài giảng lễ 'là một phần của hành động phụng vụ'; bài giảng lễ có chức năng giúp hiểu biết Lời Thiên Chúa rộng rãi hơn và hữu hiệu hơn trong đời sống các tín hữu. (VD 59)
Hay nói theo sứ điệp của hậu THĐGM 12 về Lời Chúa: “tột đỉnh của việc rao giảng là ở nơi bài giảng mà ngày nay đối với nhiều tín hữu Kitô, đó là lúc quan trọng chủ yếu để gặp gỡ với Lời Chúa. Trong việc giảng, thừa tác viên cũng phải trở thành ngôn sứ. Thực vậy, vị giảng thuyết phải có ngôn ngữ rõ ràng, quyết liệt và có chất lượng, không những "loan báo một cách thế giá những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ" (SC 35), những công trình được trình bày trước tiên qua việc đọc một cách rõ ràng và sinh động bản văn Kinh Thánh mà phụng vụ đề nghị, nhưng cũng phải thời sự hóa những công trình ấy trong thời đại thính giả đang sống và làm nảy sinh nơi tâm hồn họ câu hỏi về sự hoán cải và sự dấn thân quyết liệt: "Chúng tôi phải làm gì đây?" (Cv 2:37)”. (số 7)
Thứ hai là bổn phận linh mục phải thực thi vai trò giảng trong thánh lễ: “Bài giảng căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm đức tin và những qui tắc cho đời sống Kitô giáo trong suốt chu kỳ năm phụng vụ, rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ. Hơn nữa, trong những Thánh Lễ được cử hành những ngày Chúa Nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự, không được bỏ giảng, nếu không có lý do hệ trọng. (Hiến chế PV Sacrosanctum Concilium 52).
Bởi tầm quan trọng của bài giảng và bổn phận chia sẻ Lời Chúa trong Thánh lễ, các linh mục được mời gọi phải nhớ:
- Bài giảng lễ là một việc hiện tại hóa sứ điệp Kinh Thánh, sao cho các tín hữu được đưa đến chỗ khám phá ra sự hiện diện và tính hiệu năng của Lời Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của họ. Bài giảng phải giúp hiểu Mầu nhiệm đang được cử hành, mời người ta dấn thân cho sứ mạng, khi chuẩn bị cho cộng đoàn tuyên xưng đức tin, cầu nguyện phổ quát và cử hành phụng vụ Thánh Thể. Vì thế, do thừa tác vụ chuyên biệt, những ai được đề cử lo việc giảng dạy, phải rất quan tâm đến bổn phận này. Phải tránh những bài giảng mơ hồ và trừu tượng, che giấu mất tính đơn giản của Lời Thiên Chúa, cũng như phải tránh những kiểu nói lan man lạc đề vô bổ rất có thể lôi kéo chú ý đến người giảng hơn là chú ý đến trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng. Các tín hữu phải thấy rõ ràng rằng điều mà vị giảng thuyết đang bận tâm, đó là cho thấy Chúa Kitô, trung tâm của mọi bài giảng. Vì thế, các vị giảng thuyết cần phải quen biết và tiếp xúc chuyên cần với bản văn thánh; họ phải chuẩn bị bài giảng bằng suy niệm và cầu nguyện, để có thể giảng với xác tín và say mê. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã khuyến khích lưu ý đến các câu hỏi sau đây: "Các bài đọc được công bố muốn nói gì? Các bài đọc ấy nói gì riêng với tôi? Tôi phải nói gì với cộng đoàn, trong khi quan tâm tới hoàn cảnh cụ thể của họ?" (VD 59)
- Việc giảng thuyết đòi phải đọc, hiểu, diễn nghĩa và giải thích, một sự can dự của tâm trí trong đó. Trong việc giảng thuyết có hai chuyển động. Chuyển động thứ nhất, ta đi ngược tới căn cội của các đoạn Sách Thánh, các biến cố, những câu nói tạo nên lịch sử cứu độ, để hiểu chúng trong ý nghĩa và sứ điệp của chúng. Chuyển động thứ hai ta đi xuống hiện tại, tới cuộc sống thực tế của người nghe và đọc, luôn luôn dưới ở dưới ánh sáng của Chúa Kitô vốn là sợi dây rạng ngời nhắm thống nhất toàn thể Kinh Thánh (Sứ điệp hậu THĐGM 12, 7)
- Cần đặc biệt chăm sóc bài giảng Chúa Nhật và các lễ trọng; nhưng trong các lễ cum populo (có giáo dân tham dự) trong tuần, nếu có thể, xin cũng đừng bỏ cung cấp những suy tư vắn tắt hợp thời giúp các tín hữu đón nhận và làm sinh hoa kết quả Lời họ vừa lắng nghe. (VD 59)
Đặc biệt, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, ĐTC đương kim của chúng ta đã dành riêng một phần gồm 25 số (từ số 135 đến số 159 để bàn về Bài Giảng). Trong phần này, ĐTC đã phân tích và khai triển thật tỉ mỉ về bài giảng và trách nhiệm, cũng như việc phải soạn bài giảng ra sao [có thể nói, ĐTC Phanxico chỉ dẫn chúng ta từng bước rất cụ thể hơn về bài giảng so với các giáo huấn trước].
- Tầm quan trọng: “Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của một mục tử với dân mình […]. Bài giảng có thể thực sự là một kinh nghiệm mãnh liệt và hạnh phúc về Chúa Thánh Thần, một cuộc gặp gỡ an ủi với Lời Chúa, một nguồn mạch không ngừng của việc canh tân và tăng trưởng”. (số 135)
- Bản thân chúng ta, “chúng ta hãy phục hồi lòng tin tưởng của mình trong việc giảng dạy, dựa trên xác tín rằng Chính Thiên Chúa, Đấng muốn đi đến với con người qua các nhà thuyết giảng và rằng Ngài sẽ bày tỏ quyền năng của Ngài qua các lời của loài người.(số 136).
- Bài giảng có một giá trị đặc biệt vì phát sinh từ bối cảnh Thánh Thể, là điều làm cho nó vượt trên mọi hình thức dạy giáo lý bởi vì nó là một cuộc đối thoại tuyệt vời nhất giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trước khi hiệp thông Bí Tích. […] Nhà thuyết giảng phải biết trọng tâm của cộng đồng của mình để nhận ra lòng ao ước Thiên Chúa sống động và mãnh liệt ở đâu, và thậm chí một cuộc đối thoại thoại yêu thương như vậy đã bị bóp nghẹt hoặc không thể sinh hoa kết quả ở chỗ nào. (số 137)
- Cho nên, “bài giảng không thể là một hình thức giải trí, như được trình bày trên các phương tiện truyền thông, nhưng phải đem lại sự nhiệt thành và ý nghĩa cho buổi lễ.” (số 138) và ngôn ngữ của bài giảng như một cuộc nói chuyện của người mẹ - một thái độ gần gủi, yêu thương và khích lệ. (x. số 139-141)
- Bài giảng phải là một cuộc đối thoại, trong bài giảng đó, “chân lý được đi kèm với sự thiện và mỹ […] Được mở ra cho niềm hy vọng về một thực hành hân hoan và khả năng yêu thương được rao giảng, tâm hồn họ (người nghe) cảm thấy rằng từng Lời trong Thánh Kinh trước hết là một hồng ân, trước khi là một đòi hỏi” (số 142). Vì vậy, bài giảng phải được hội nhập vào trong chính hiện sinh của người nghe. Nó phải nối kết được trái tim của Chúa và những trái tim của dân Người (x. số 143)
- ĐTC nhấn mạnh việc soạn bài giảng trong sự cầu nguyện: “phải dành nhiều thì giờ để học hỏi, cầu nguyện, suy niệm và sáng tạo mục vụ; […]nhớ dành một thì giờ ưu tiên cho mục vụ cao quý này. […] Tôi mạo muội yêu cầu quý cha mỗi tuần dành riêng một phần thì giờ cá nhân và cộng đồng đủ dài cho công tác này, thậm chí nếu cần thì phải bớt thì giờ cho những công tác khác, mặc dù quan trọng. […] Một mục tử không chuẩn bị thì mục tử ấy bất hảo và vô trách nhiệm đối với những hồng ân mà mình đã nhận được (số 145)
- Nhà giảng thuyết phải được cá nhân hóa về Lời. “Họ cần phải tiếp cận Lời Chúa bằng một tâm hồn ngoan ngoãn và cầu nguyện, ngõ hầu Lời Chúa thấm sâu vào những suy nghĩ và cảm xúc của họ cùng phát sinh nơi họ một não trạng mới, […] chúng ta hãy kiểm chứng lại xem tình yêu Lời Chúa mà chúng ta giảng có lớn lên trong chính mình chúng ta không. (số 149; x. số 149-151)
- Hỗ trợ cho bài giảng, chúng ta cần đọc sách thiêng liêng (lectio divina) và cần lắng nghe nhu cầu của dân chúng, những con người cụ thể đang lắng nghe, họ muốn nghe điều gì, họ đang bận tâm về vấn đề nào. Để được như thế, chúng ta phải có một sự bén nhạy nhận ra những gì đang ảnh hưởng đến đời sống của họ. (x. số 152-155)
3.2. Kim chỉ nam cho mục vụ: Lời
Cuộc đời của người tông đồ phải được thấm đẫm, tràn đầy Lời. Nói cách khác, Lời phải chi phối, hướng dẫn tất cả mọi suy tư, thái độ, lời nói và hành động của linh mục. Cho nên, kim chỉ nam cho công việc mục vụ của linh mục không gì khác hơn “Lời”. Chúng ta đọc thấy trong Verbum Domini:
- Hãy đảm bảo rằng, trong các sinh hoạt quen thuộc của các cộng đoàn Kitô hữu, trong các giáo xứ, trong các hội đoàn và trong các phong trào, người ta thật sự quan tâm đến việc gặp gỡ riêng tư với Đức Kitô, Đấng thông truyền chính Người cho chúng ta nơi Lời Người. Bởi vì nếu "không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô", việc linh hoạt bằng Kinh Thánh tất cả hoạt động mục vụ thông thường và ngoại thường sẽ dẫn đưa đến một hiểu biết lớn lao hơn về con người của Đức Kitô, Đấng mạc khải Chúa Cha và là Mạc Khải viên mãn của Thiên Chúa. (số 73)
- Chính vì thế, trước tiên vị linh mục đã phải rất quen thuộc với Lời Thiên Chúa. Biết phương diện ngôn ngữ hoặc chú giải Lời Chúa, thì chưa đủ, dù là cần thiết. Vị linh mục phải đón tiếp Lời Chúa với một tấm lòng vâng phục và cầu nguyện, ngõ hầu Lời Chúa thấm nhuần sâu xa các tư tưởng và các tâm tình của ngài và làm phát sinh nơi ngài một tinh thần mới, 'tư tưởng của Đức Kitô' (1Cr 2:16)". Như thế, các lời nói, hơn nữa các chọn lựa và các thái độ của ngài sẽ ngày càng trong suốt với Tin Mừng, sẽ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. "Chỉ khi 'ở lại trong' Lời Chúa, vị linh mục mới trở thành người môn đệ hoàn hảo của Chúa, mới nhận biết chân lý và mới thật sự tự do".
Nói tóm lại, ơn gọi linh mục đòi hỏi phải được hiến thánh "trong sự thật". Chính Đức Giêsu đã yêu cầu như thế với các môn đệ Người: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian" (Ga 17:17-18). Theo một ý nghĩa nào đó, các môn đệ được "lôi cuốn vào trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa do họ được đắm mình vào trong Lời Thiên Chúa. Có thể nói, Lời Thiên Chúa là bể tắm thanh tẩy, là quyền lực sáng tạo biến đổi họ và làm cho họ thuộc về Thiên Chúa". Bởi vì chính Đức Kitô là Lời Thiên Chúa làm người (Ga 1:14), là "sự thật" (Ga 14:6), nên lời Đức Giêsu cầu xin với Chúa Cha: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ" có ý nghĩa sâu xa nhất: "Xin Cha làm cho họ nên một với con, là Đấng Kitô. Xin liên kết họ lại với con. Xin lôi kéo họ vào trong con. Bởi vì trong thực tế, chỉ có một tư tế duy nhất của Giao Ước Mới, là chính Đức Giêsu Kitô". Vậy các linh mục cần phải ý thức liên tục và ngày một sâu xa hơn về thực tại này. (80)
Ghi chú:
- DV: Dei Verbum
- VD: Verbum Domini
- SC: Hiến Chế PV Thánh Sacrosanctum Concilium
- PO: Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống các Linh Mục (Presbyterorum Ordinis)
*********
Bài 3: GIÁO XỨ VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THẾ GIỚI NGÀY NAY
Tin Mừng (Mt 24:4-13): Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính Ta đây là Ðấng Kitô", và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn. "Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe nằm trong chuỗi bài giảng về ngày cánh chung. Đức Giêsu nói với các môn đệ về những biến cố sẽ xảy đến, những thách thức phải đối diện.
Trong bài chia sẻ này, khi suy tư về những thách đố của thế giới ngày nay đối với giáo xứ, lời của Đức Giêsu cũng đang nhắc nhớ chúng ta “những việc đó phải xảy ra nhưng chưa phải là chung cục”. Quả vậy, những bất trật tự trong xã hội, trong đời sống đức tin vẫn đang diễn ra. Chúng là những thách đố mà chúng ta phải đối diện khi đời sống nhân loại đang thay đổi một cách nhanh chóng. Chúng ta không được phép hãi sợ những thách đố đó nhưng chúng chính là cơ hội, là dịp để đức tin của giáo xứ, của người phục vụ giáo xứ trong vai trò lãnh đạo được thanh luyện và tăng triển.
Thật may mắn cho chúng ta, ĐTC Phanxico, vị Giáo Hoàng đương kim của chúng ta, là một con người thực tế. Ngài không ngại nói lên những khiếm khuyết hay đúng hơn là ngài không ngần ngại vạch tội của nhân loại và ngay của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội. Điều này được thể hiện rõ trong những giáo huấn của ngài, cách riêng trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng. Dựa vào lời dạy của ngài, chúng ta cùng suy tư về đề tài “Giáo xứ và những thách đố của thế giới ngày nay” để, một chút ít nào đó, có thể giúp chúng ta góp phần Tân Phúc Âm hóa giáo xứ nơi chúng ta đang phục vụ.
I. Nhận diện những thách đố
Chương 2 của tông huấn trình bày cho chúng ta những thách đố mà chúng ta đang phải đối diện. Tôi xin được tóm tắt trong 2 khía cạnh:
1. Thế giới phẳng nhưng không phẳng
“Thế giới phẳng” là một danh từ được sử dụng rộng rãi rất nhiều, đặc biệt từ năm 2004 với việc xuất hiện tác phẩm của ông Thomas Friedman, một biên tập viên chuyên mục ngoại giao và kinh tế của tạp chí New York Times. Ông sử dụng danh từ này để đặt tên cho tác phẩm của mình. Trong tác phẩm đó, ông muốn nói lên sự chuyển đổi ngày càng phẳng hơn về mọi phương diện của thế giới. Theo ông, quá trình toàn cầu hóa kinh tế kéo theo quá trình toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội của con người. Và như thế, tất cả mọi người hiện diện trên trái đất này đều có cơ hội là như nhau, họ sẽ đi vào một “sân chơi chung” và có “luật chơi chung”. Một trong những yếu tố làm cho mọi người có cơ hội ngang nhau, gần nhau là sự phát triển của công nghệ thông tin. Cụ thể, ngày hôm nay, nếu ai trong chúng ta không biết sử dụng Internet, người đó sẽ bị coi là lạc hậu, quê mùa (chưa tính đến việc để được coi là người đẳng cấp, người hợp thời thì phải có trong tay những chiếc điện thoại thông minh, những máy tính bảng mới nhất, hiện đại nhất, nhiều tính năng nhất…).
Thế nhưng, thực tế cuộc sống đã minh chứng rằng thế giới này không phẳng. Không phải ai cũng có thể tham gia vào “sân chơi chung” và thực thi “luật chơi chung” đó. Không thể có một thế giới đại đồng của những người bình đẳng về mọi khả năng và quyền lợi theo như quan điểm “thế giới phẳng” của Thomas Friedman. Thế giới vẫn còn đó sự tách biệt giữa người với người, còn đó những khoảng cách mà chúng ta gọi là tầng lớp xã hội: giàu-nghèo; trí thức-vô học; thành thị-thôn quê, nước lớn-nước nhỏ-nước thuộc thế giới thứ 3, …. Sự cách biệt, phân cấp, xung đột vẫn diễn ra và diễn ra càng lúc càng khắc nghiệt hơn.
Đối với ĐTC Phanxico, sự phát triển của xã hội và xu thế toàn cầu hóa, bên cạnh những hiệu quả tích cực, những thành công cho xã hội loài người, nó cũng mang lại rất nhiều hệ lụy. Những hệ lụy đó là sự bấp bênh làm cho con người ta ngày càng sợ hãi và tuyệt vọng; sự tách biệt, chênh lệch xã hội càng gia tăng và dẫn tới sự lãng quên, khai thác và loại trừ:
- Số 52. Trong thời đại chúng ta, nhân loại đang sống ở một khúc quanh lịch sử, mà chúng ta có thể thấy từ những tiến bộ đạt được ở nhiều lãnh vực khác nhau. Chúng ta phải ca ngợi những thành công góp phần vào sự thịnh vượng của con người, chẳng hạn như trong lãnh vực y tế, giáo dục và truyền thông. Tuy nhiên, chúng ta không thể quên rằng hầu hết những người nam nữ ở thời đại chúng ta đang sống trong sự bất ổn định mỗi ngày, với những hậu quả tai hại. Một số bệnh học gia tăng. Sợ hãi và tuyệt vọng chiếm đóng quả tim của nhiều người, ngay cả trong những nước gọi là giàu có. Niềm vui của đời sống thường xuyên bị dập tắt, không có sự tôn trọng người khác và bạo lực gia tăng, chênh lệch về xã hội ngày càng trở nên rõ ràng. Chúng ta phải đấu tranh để sống, và thường sống với một chút nhân phẩm.
- Số 53. Như điều răn “chớ giết người” đặt ra một giới hạn rõ ràng về giá trị của đời sống con người, ngày nay, chúng ta phải cũng phải nói “không với một nền kinh tế loại trừ và chênh lệch xã hội”. Một nền kinh tế như thế cũng giết người. Làm sao mà việc một ngưởi già vô gia cư bị chết vì lạnh không phải là một tin tức, trong khi thị trường hối đoái bị xuống hai điểm lại là tin tức? Đó là loại trừ. Làm sao chúng ta có thể chịu đựng nổi khi thức ăn dư thừa bị đổ đi trong khi có nhiều người bị đói? Đó là sự chênh lệch xã hội. Ngày nay, tất cả đều tham gia trò chơi cạnh tranh và sống sót của những kẻ thích hợp nhất, ở đó những người mạnh nuốt trửng những ngưởi yếu. Như hậu quả của tình trạng này, một khối lớn dân chúng đang bị loại trừ và gạt ra ngoài lề: không có công ăn việc làm, không có triển vọng, không có có lối thoát. Người ta coi con người là chính nó như những đồ tiêu thụ, nay sử dùng mai bỏ đi. Chúng ta đã bắt đầu nền văn hóa của “loại bỏ được”, thậm chí còn cổ võ nó. Nó không còn chỉ đơn thuần là hiện tượng khai thác và áp bức, nhưng một điều gì mới: Với việc loại bỏ cuối cùng được ảnh hưởng tận gốc đến việc là thành phần xã hội mà chúng ta đang sống, những người bị loại bỏ khi đó không còn ở tầng lớp thấp, ở ngoài lề, hay không có quyền lực, nhưng ở bên ngoài xã hội. Những người bị loại trừ không phải là 'những người bị bóc lột', nhưng là rác, là ‘đồ thừa’.
2. Văn hóa “hời hợt”
Sự thay đổi một cách nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến một thái độ sống mang tính cách tạm thời và hời hợt. Bởi lẽ, sự tiến bộ như vũ bão của công nghệ làm cho con người cảm thấy dường như không có gì là bất biết, không có gì là trường cửu. Mọi sự chỉ có tính cách tạm bợ, tương đối. Trong cái thế giới tạm thời và tương đối ấy, người ta cố làm cho chính mình là trung tâm của mọi sự. Thật thế, người ta làm tất cả để bảo vệ chính mình, tìm ích lợi cá nhân mà không cần quan tâm đến lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng. Từ đó, con người không phải là điểm hướng tới nhưng chỉ là phương tiện trong muôn vàn phương tiện khác để đạt đến cùng đích là lợi ích của cái tôi.
- Số 55. Chúng ta đã âm thầm chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và trên các xã hội của mình. […] Chúng ta đã tạo ra những ngẫu tượng mới. […]; hạ con người xuống thành chỉ một trong những nhu cầu tiêu thụ.
- Số 56. Nạn tham nhũng có hệ thống và trốn thuế ích kỷ đạt đến mức độ toàn cầu. Nạn tham quyền và tham của thì không biết giới hạn.
II. Những thách đố nơi người giáo dân
Chắc chắn, khi đứng trước những biến động về lối sống, trào lưu hiện nay, người Kitô hữu phải đối diện với biết bao thách đố. “Chúng ta có thể nhận ra một số yếu điểm vẫn cần phải được chữa lành bởi Tin Mừng: nạn chồng chủ vợ tôi, nghiện ngập, bạo lực trong gia đình, ít người dự Thánh Lễ, tin tưởng vào thuyết định mệnh hoặc mê tín dị đoan khiến người ta cậy đến bùa phép, vv.” (số 69)
Tuy nhiên, trong phần này, với mục đích để duyệt xét lại đời sống giáo xứ để canh tân trong năm Tân Phúc Âm hóa giáo xứ này, tôi muốn giới hạn vào ba phương diện:
1. Cảm thức thuộc về Giáo Hội, thuộc về Giáo xứ
Chúng ta sống trên thế giới này là chúng ta sống trong sự liên đới với người khác. Mỗi người sinh ra đều thuộc về một nhóm, một gia đình, một vùng, một nơi chốn nào đó. Chúng ta không thể sống tách biệt khỏi mạng lưới liên hệ dày đặc trong đời sống nhân sinh. Khi ý thức mình thuộc về một bộ phận, một chi thể, tế bào nào, chúng ta sẽ góp phần làm tăng triển bộ phận, chi thể đó.
Đời sống giáo xứ cũng vậy. Một giáo xứ có đời sống đức tin vững mạnh khi tất cả mọi thành viên trong gia đình giáo xứ đó luôn ý thức mình thuộc về giáo xứ đó. Khi ý thức thuộc về chi phối mọi hoạt động cá nhân, trong niềm tri ân Thiên Chúa và yêu mến nhau, họ sẽ không ngừng dấn thân trong chính hoàn cảnh sống để xây dựng cộng đoàn và thực thi sứ mạng của Giáo Hội tại chính giáo xứ của mình.
Tuy nhiên, ngày hôm nay, cảm thức thuộc về cần được quan tâm nhiều. Nhiều khi, các thành viên trong giáo xứ không ý thức hay không cảm thấy được mình thuộc về giáo xứ. Sự tham dự nghi lễ phụng vụ, tham dự các nhóm một cách hời hợt, theo phong trào, không ý thức được vận mạng của giáo xứ cũng chính là vận mạng của cá nhân. Hay trầm trọng hơn là thái độ vô cảm, “không phải chuyện của tôi”. Từ đó, ở một số nơi, đời sống giáo xứ có những căng thẳng, lạnh lẻo hay ầu ơ qua ngày.
- Số 63. Chúng ta phải thừa nhận rằng, nếu một phần những người đã được rửa tội không cảm thấy thuộc về Hội Thánh, điều đó có thể là do một số cơ cấu nào đó và bầu khí lạnh nhạt ở một số giáo xứ và cộng đồng của chúng ta, hoặc một thái độ quan liêu khi đối phó với những vấn đề, dù đơn giản hay phức tạp, của đời sống của dân chúng của chúng ta. Ở nhiều nơi bình diện hành chính của các khía cạnh mục vụ chiếm ưu thế, cũng như việc chỉ cử hành các Bí Tích mà không có những hình thức truyền giáo khác.
- Số 70. Chúng ta không thể phủ nhận rằng nhiều người cảm thấy thất vọng và không còn coi là mình theo truyền thống Công Giáo nữa, […] có một cuộc xuất hành nào đó về phía những cộng đồng đức tin khác.
- Số 81. Nhiều giáo dân sợ rằng mình bị mời làm một nhiệm vụ tông đồ, nên tìm cách trốn tránh để thoát khỏi bất kỳ cam kết nào có thể làm mất thì giờ rảnh rỗi của mình. Chẳng hạn như ngày nay rất khó để tìm thấy các giáo lý viên được đào tạo cho các giáo xứ và kiên trì trong công tác của họ nhiều năm. (thiếu cộng tác, dấn thân)
2. Tương đối về luân lý
Ngày hôm nay, luân lý cũng rơi vào trong một trào lưu của sự tương đối. Với não trạng tạm bợ, không có gì là trường cửu, người ta cũng cỗ võ một nền luân lý tương đối. Nói khác đi, người ta muốn chối bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa đừng can thiệp gì vào cuộc đời tôi, hãy để tôi quyết định theo ý thích cá nhân tôi. Bởi lẽ, luân lý bị coi là phản tác dụng và quá nhân bản bởi vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền lực. Nó là một mối đe dọa, vì nó lên án việc thao túng và hạ giá con người, nó đề cập đến một Thiên Chúa là Đấng kêu gọi một đáp trả dấn thân (x. số 57). Đó là điều đi ngược với lối sống cá nhân chủ nghĩa ngày nay, tôi muốn làm gì tôi làm.
ĐTC Bênêđictô XVI đã khẳng định và chỉ ra giá trị thật của chủ nghĩa tương đối cho chúng ta rằng “nó chỉ làm cho con người bị hụt hẫng, thất vọng và ích kỷ”. (cuộc tiếp kiến ông Nigel Marcus Baker, tân đại sứ Anh quốc bên cạnh Tòa Thánh đến trình ủy nhiệm thư, vào ngày 9 tháng Chín năm 2011)
Với giáo xứ, sự tương đối hóa về luân lý được thể hiện qua một số khía cạnh:
- Giáo huấn Giáo Hội: lỗi thời, cổ hủ, quá khắt khe, hạn chế sự thăng tiến của con người
- Tự do cá nhân: tự quyết định lối sống theo ý riêng, tự do phái tính (đồng tính, tình dục, …)
- Con người làm ra hay khám phá ra được điều gì, con người có quyền tự do làm điều đó (sự sống: sinh sản vô tính, thụ tinh ống nghiệm, thay đổi giới tính, …)
- Cách riêng, não trạng tương đối trong hôn nhân, phản ánh một thái độ ích kỷ của con người: “Hôn nhân có khuynh hướng bị coi như một hình thức đơn giản của sự mãn nguyện tình cảm, là điều có thể là được xây dựng bất kỳ cách nào và thay đổi theo cảm xúc của mỗi người” (Số 66). Hay “chủ nghĩa cá nhân của thời đại hậu hiện đại và toàn cầu hóa ủng hộ một cách sống làm suy yếu sự phát triển và ổn định của những mối dây liên hệ giữa con người, và làm biến dạng các mối liên hệ gia đình” (số 67). Nói khác đi, thích thì đến, chán thì chia tay; được thì góp gạo thổi cơm chung, không được thì đường ai nấy bước. Nhiều gia đình loại này đã hiện diện trong các giáo xứ của chúng ta và không ít những hệ lụy thật khó giải quyết hiện nay: phá thai, ngoại hôn, …
3. Đức tin
Nhìn từ bên trong đời sống đức tin, ta thấy thuyết Tương Đối làm cho nhiều người Công Giáo lung lay và mất niềm tin. Thuyết Tương Đối mang lấy khuôn mặt chiết trung, dĩ hòa vi quý khi cho rằng không có gì là tuyệt đối cả. Do đó, một số người đã cho rằng “đạo nào cũng tốt” và Đức Giêsu Kitô là một trong những vị sáng lập tôn giáo.
- Số 63. Đức tin Công Giáo của nhiều người hiện đang phải đối diện với những thách đố của sự phát triển rộng rãi của các phong trào tôn giáo mới, một số có chiều hướng cơ bản và một số khác dường như đề ra một linh đạo không có Thiên Chúa.
- 64. Tiến trình tục hóa có chiều hướng thu gọn đức tin và Hội Thánh vào phạm vi riêng tư và và thầm kín […] vì Hội Thánh bị coi là cổ võ một thành kiến cá nhân và như can thiệp vào tự do cá nhân.
Ta có thể nhìn thấy tác động của thuyết tương đối và trào lưu tục hóa ảnh hưởng đến đức tin, được thể hiện trong việc cử hành Phụng vụ.
Trước tiên, bầu khí phụng vụ chưa được sốt sắng, thiêng liêng: mang nặng tính hình thức bề ngoài với những rước sách, kèn trống (đây là điều nên có nhưng phải hướng dẫn và đưa người ta vào trong chiều sâu thiêng liêng của những hành động đó); cung thánh nhiều khi bị lạm dụng trở nên một sân khấu văn nghệ không khác gì ngoài đời; trật tự trong khi cử hành phụng vụ bí tích (Hòa Giải, Thánh Thể…) lắm lúc không khác gì một cái chợ chen lấn, chụp giật, tranh giành; những “sáng kiến: cắt xén, thêm bớt” trong Phụng Vụ (nói theo ngôn ngữ ngày nay là sử dụng chiêu trò) nhằm thỏa mãn sở thích của một nhóm người nào đó, khiến cho Phụng Vụ ngày càng mất đi vẻ đẹp thiêng liêng (chia sẻ của giáo dân trong phần chia sẻ Lời Chúa),…
Kế đến, tác phong cử hành phụng vụ của các thừa tác viên (đi, đứng, đọc, …) qua loa, vội vàng, … thể hiện một sự thiếu trang trọng, tâm tình thờ phượng và xác tín về việc mình đang cử hành.
Một phương diện khác, ta thấy đức tin Công Giáo trên toàn thế giới cũng chịu những tác động ngoại tại như bạo lực, bị tấn công và đàn áp mang màu sắc của sự thù hận (x. số 61). Điều này không xa lạ gì với chúng ta. Biết bao biến cố xảy ra trong quá khứ cũng như hiện tại trên thế giới, hay những biến cố gần đây đã minh chứng cho điều đó.
III. Những thách đố nơi người làm mục vụ (cụ thể là linh mục)
Trong phần này, tôi xin được giới hạn trong 2 khía cạnh liên quan đến người làm mục vụ – linh mục – là khía cạnh nhân bản và thiêng liêng.
1. Nhân bản:
Khía cạnh nhân bản, tôi cũng xin giới hạn ở hai trong các đặc điểm tiêu cực ĐTC Phanxico nhắc đến trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: ngại dấn thân và bi quan.
Trước tiên đó là việc ngại dấn thân. Đây là một biểu hiện cho thấy linh mục chưa “tròn đầy” trong ơn gọi và sứ vụ, vì nếu linh mục ý thức đầy đủ về căn tính của mình, linh mục sẽ không ngại khó, không ngập ngừng trong tất cả mọi hoạt động liên quan đến sứ vụ. ĐTC nói
- 78. bận tâm quá đáng về tự do cá nhân và giải trí của mình, khiến họ sống những nhiệm vụ của họ như là một phần phụ thuộc đơn giản của đời sống, như thể chúng không phải là một phần của căn tình của họ.
- 80. gắn bó với sự an toàn về kinh tế, hoặc với việc muốn có quyền hành và vinh quang loài người bằng bất cứ giá nào, thay vì dâng hiến đời mình cho tha nhân.
- 81. sợ rằng mình bị mời làm một nhiệm vụ tông đồ, nên tìm cách trốn tránh để thoát khỏi bất kỳ cam kết nào có thể làm mất thì giờ rảnh rỗi của mình. […] Nhưng một điều gì đó tương tự cũng xảy ra cho các linh mục, những người bận tâm quá mức với thì giờ rảnh rỗi của họ. […] Một số chống lại việc tận hiến hoàn toàn cho sứ vụ và chung cuộc bị bao bọc trong một trạng thái ươn lười tê liệt.
- 82. Sự ươn lười về mục vụ này có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau: theo đuổi những dự án thiếu khả thi và không âm thầm hài lòng với những gì khả thi; không kiên nhẫn nổi với sự tiến hành khó khăn của những tiến trình và muốn tất cả mọi sự từ trời rơi xuống; gắn bó với một số dự án và những ước mơ thành công được vun trồng bởi tính khoa trương của họ; mất liên lạc thật sự với dân chúng trong việc không còn cá nhân hóa việc mục vụ của mình, họ quan tâm nhiều đến tổ chức hơn là nhân sự, để rồi các “bảng lộ trình” làm cho họ hứng thú hơn là chính cuộc hành trình; không biết chờ đợi, họ muốn chế ngự cả nhịp sống. Ngày nay, việc nóng lòng muốn có kết quả ngay khiến cho những người làm mục vụ không dễ dàng chấp nhận cảm thức có một chút mâu thuẫn, việc có thể thất bại, một lời chỉ trích, một thập giá.
Hình như trong tất cả những điều ĐTC Phanxico nói đến, chúng ta thấy hình như loáng thoáng có chúng ta trong đó. Cụ thể:
- Ngại giảng lễ
- Ngại đi thăm giáo dân, và khi đi thăm giáo dân thì chọn lựa nhà nào có lợi cho mình thì tới, nhà nào không thích, không ưa thì tìm cách tránh né…
- Ít ngồi tòa Giải Tội (dĩ nhiên vẫn phải có thời gian biểu, nhưng hình ảnh thật đẹp của linh mục siêng năng ngồi tòa giải tội và sẵn sàng chào đón người khác đến lãnh nhận bí tích Hòa Giải dường như ngày càng giảm)
- Ngại xa (ở những giáo xứ có địa bàn rộng, giáo dân ở tản mác, …)
- Thiếu lắng nghe và quan tâm đến nhu cầu của giáo dân, như không cần sự cộng tác…
Khía cạnh thứ hai là bi quan.
Sự bi quan luôn là một ngáng trở cho sự dấn thân phục vụ, cho sự tăng trưởng về mọi phương diện. nó sẽ góp phần làm cho chúng ta có một lối sống hời hợt, vô vị, … từ đó, chúng ta không tìm thấy được giá trị, niềm vui của cuộc đời phục vụ. Lý do của sự bi quan này là gì? Nó có thể bắt nguồn từ sự thiếu tự tin, không xác tín, nhìn mọi sự chung quanh với lăng kính màu xám hay kinh nghiệm “thất bại” trong cuộc đời làm chùn bước, …
- Số 79. thái độ yếm thế. Kết quả là, nhiều người làm mục vụ, ngay cả khi họ cầu nguyện, phát triển một loại mặc cảm, dẫn họ đến việc tương đối hóa hoặc che giấu căn tính và những xác tín Kitô giáo của họ. Vì thế một vòng luẩn quẩn được hình thành, cho nên họ không hài lòng với những gì họ đang có và những gì họ làm, họ không cảm thấy được đồng hóa với sứ vụ rao giảng Tin Mừng, và điều này làm suy yếu việc dấn thân.
- Số 83. Thất vọng với thực tại, với Hội Thánh hoặc với chính mình, họ sống trong cám dỗ bám víu không ngừng vào một nỗi buồn mơ hồ, không có hy vọng, là điều xâm nhập quả tim của họ như “rượu thuốc quý giá nhất của ma quỷ”, […] rốt cuộc họ cũng bị quyến rũ bởi những điều chỉ tạo ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm, và những điều ấy làm suy yếu động năng tông đồ.
- Số 85. Một trong những cám dỗ nghiêm trọng hơn bóp nghẹt sự nhiệt tình và mạnh bạo là cảm giác thất bại, là điều biến đổi chúng ta thành bi quan bất mãn và thất vọng khi phải đối diện với tình trạng đen tối.
2. Thiêng liêng (tu đức)
Phần thách đố về mặt thiêng liêng (tu đức) đối với linh mục, tôi muốn trình bày dựa vào tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhưng được xoay quanh 4 khía cạnh rất quen thuộc với ơn gọi linh mục của chúng ta: Nghèo khó, vâng phục, thanh khiết và cầu nguyện.
Chúng ta cần nhớ rằng, ba lời khuyên Phúc Âm (3 lời khấn: nghèo khó, vâng phục, thanh khiết) không chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Chúng cũng là sự đòi hỏi, mời gọi dành cho cả chúng ta, các linh mục (dù là linh mục giáo phận hay linh mục dòng).
Đức Giêsu trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Người luôn mời gọi các môn đệ, các tông đồ phải sống triệt để các lời khuyên Phúc Âm.
• Nghèo khó
Có lẽ, một vài người trong chúng ta sẽ nói, khi chịu chức linh mục, tôi đâu phải hứa sống nghèo khó đâu. Điều này đúng. Nhưng lần giở lại Tin Mừng, chúng ta thấy rằng dân Chúa là những con người nghèo, anawim. Họ nghèo không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn trước mặt con người. Lối sống của chúng ta, những người lãnh đạo trong sự phục vụ khiêm hạ, chúng ta có sống giá trị người nghèo của Thiên Chúa để nêu gương cho anh chị em giáo dân trong giáo xứ?
Một vài lối sống xa hoa, trưởng giả đã làm nhạt đi hình ảnh người mục tử chăm sóc đàn chiên cách tận tình như: tìm kiếm, bồi bổ, dám ôm lấy đàn chiên, dám để cho mùi của đàn chiên bám vào người …; ĐTC Phanxico cảnh báo chúng ta về lối sống và sự phục vụ thiên về vật chất.
Có bao giờ chúng ta thử so sánh giữa những công việc chúng ta trong một ngày với người giáo dân bình thường của chúng ta không?
Chúng ta được đảm bảo đời sống bởi những quy định của Giáo Hội, của giáo phận (tiền lễ); được sung túc hơn bởi sự nâng đỡ, quảng đại của anh chị em giáo dân vì họ tin vào Thiên Chúa, tin vào lời cầu nguyện, tin vào đời sống và thừa tác vụ linh mục của chúng ta. Bởi lẽ, đa phần giáo dân của chúng ta là những nông dân và làm nghề đánh cá, phải vất vả, nắng nôi, đêm ngày mới có thể kiếm ra đồng tiền để lo cuộc sống mưu sinh. Chúng ta đừng nghĩ rằng bản thân linh mục chúng ta phải suy tư bài giảng, phải ưu tư mục vụ, phải thế này thế kia…, trách nhiệm chúng ta nặng nề. Chúng ta đừng quên, người giáo dân họ cũng phải đảm nhận những suy tư, cầu nguyện, bận tâm, … cho chính gia đình và những người thân của họ.
Một linh mục đã khuyên các chủng sinh như sau: chúng ta hãy sống một ngày của chúng ta làm sao để chúng ta thấy rằng những gì chúng ta làm trong ngày có thể sánh với một người bình thường làm trong một ngày để có thể nuôi được gia đình mình. Cách nào đó, lời khuyên trên cũng là một lời nhắc nhở hữu ích cho chúng ta.
• Vâng phục:
Trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, chúng ta đọc thấy lời mời gọi: “Hoạt động mục vụ phải chứng tỏ tốt hơn nữa rằng sự liên hệ với Cha của chúng ta đòi hỏi và khuyến khích một sự hiệp thông chữa lành, thúc đẩy và tăng cường mối liên hệ giữa các cá nhân” (số 67). Như vậy, nếu kiểm điểm lại sự vâng phục của chúng ta – các linh mục – trong năm tân PÂH giáo xứ, chúng ta phải xét đến mối liên hệ giữa bản thân với Cha (Thiên Chúa); giữa bản thân với mọi người trong sự hiệp thông-chữa lành và tăng trưởng các mối tương quan đó.
Mối tương quan với Thiên Chúa, chúng ta sẽ bàn đến trong phần cầu nguyện. Giờ đây, chúng ta nói tới các mối tương quan cá nhân của linh mục chúng ta với ba đối tượng: Giám mục – anh em linh mục – giáo dân.
Đối với Giám mục
Vâng phục là một trong những điều được thẩm vấn buộc chúng ta phải trả lời trong ngày thụ phong Phó Tế và Linh Mục: “Con có vâng phục cha và những người kế vị cha không?” Một cử chỉ thật ý nghĩa được thực hiện trong khi thực hiện cuộc thẩm vấn đó, chính là hành động đôi bàn tay của tiến chức chắp lại và đặt trong lòng bàn tay của ĐGM. Cử chỉ đó nói lên sự vâng phục, quyết tâm trở nên nhỏ bé trong sự kính trọng, yêu mến và vâng lời vị chủ chăn – người cha, người thầy – của mình. Sự vâng phục, quyết tâm đó là một quyết tâm dám từ bỏ chính ý muốn của bản thân và ngay cả chính con người trước Đấng kế vị các thánh tông đồ, người đại diện của Chúa Cha trong Giáo Hội địa phương theo quan điểm Giáo Hội học của thánh Ignatio Antiokia (Chúa Cha là Giám mục thực sự trong Giáo Hội địa phương). Đôi bàn tay của vị tiến chức nói lên điều đó. Đó không phải là hai bàn tay tự nắm lại (như một sự tức giận hay nắm đấm) nhưng chắp lại trong tin tưởng, tựa nương, tin tưởng nơi trong bàn tay vị Mục tử Giáo phận.
Đôi bàn tay chắp lại ngày chịu chức có còn được thể hiện, còn được sống trong từng ngày sống của chúng ta hay không?
Có rất nhiều gương mẫu anh em linh mục sống hoàn toàn vâng phục giám mục của mình. Đó là hồng ân, là lời chúc phúc dành cho đời sống linh mục nói riêng, dành cho giáo phận, Giáo Hội nói chung. Tuy nhiên, biển không có sóng thì không phải là biển; không khí không có sự chênh lệch áp suất sẽ không tạo ra gió và mưa. Đó là quy luật tự nhiên và cũng là một điều không thể tránh trong đời sống Giáo Hội, giáo phận hay giáo xứ. Dẫu vậy, chúng ta hy vọng rằng, những cơn sóng, làn gió ngầm không quá ghê gớm để tạo nên sự phá hủy tinh thần hiệp thông, vâng phục của linh mục đối với Đức Giám Mục của mình.
Nhân đây, từ cả nghiệm cá nhân và liên đới với những nơi khác, tôi cũng xin được chia sẻ một vài thái độ, não trạng tiêu cực:
Thứ nhất, “giáo xứ là của Đức Giám Mục”. Điều này không sai. Trên nguyên tắc, ĐGM giáo phận là chủ chăn của giáo phận, có toàn quyền trên giáo phận, tất nhiên bao gồm cả giáo xứ. Tuy vậy, linh mục chính xứ được đặt lên là để chia sẻ trách nhiệm với ĐGM giáo phận, thay ngài chăm sóc anh chị em giáo dân tại giáo xứ. Những điều này đã được tiên liệu trong giáo luật và các giáo huấn của Giáo Hội. Thế mà, có những linh mục đã vịn vào việc “giáo xứ là của ĐGM” để lẫn tránh trách nhiệm, quên đi bổn phận cá nhân trong việc phục vụ Giáo xứ.
Thứ hai là tiếng “vâng hai mặt”. Trước sự hiện diện của ĐGM, tôi thưa vâng. Nhưng khi không có ĐGM, những lời xầm xì, những phê bình, chỉ trích về bản thân hay quyết định của ĐGM; để sau khi bình phẩm, lên án là sự kéo nhóm, kéo bè, gây ra sự chia rẽ trong hàng ngũ linh mục và chống đối ngay cả với vị mục tử giáo phận. Đây là một điều tiêu cực trầm trọng trong tư cách chúng ta là linh mục. Tại sao hy tế tạ ơn chúng ta dâng mỗi ngày lại không là lối sống của chúng ta – những Alter Christus, những Chúa Kitô khác? Hay phải chăng chúng ta là những người khác Chúa Kitô, những phản Kitô mà thư Gioan nhắc đến?
Tại sao chúng ta không lấy lòng kính trọng, tình yêu mến, thảo hiếu để đối đãi với giám mục của mình, là người cha, người thầy trong gia đình đức tin, trong gia đình giáo phận?
Chắc chắn, là mục tử, là người đứng đầu giáo phận, các giám mục không thể nào là con người hoàn hảo, trọn vẹn, hoàn toàn thánh thiện. Cũng chính vì thế, mà các giám mục mới cần đến các linh mục để trợ giúp, để cộng tác. Lời nguyện phong chức linh mục nhắc nhớ bản thân các giám mục và linh mục chúng ta về điều đó: “Lạy Cha, chúng con nài xin cha cũng thương ban cho con người yếu đuối của chúng con được (những) người này để trợ giúp vì chúng con cần có (những) người này để chu toàn sứ vụ tư tế Tông Truyền”.
Đối với anh em linh mục
Sự vâng phục đối với các anh em linh mục khác được thể hiện trong sự tông trọng, yêu mến, hỗ trợ, cộng tác, … để giúp nhau sống trọn vẹn ơn gọi thánh hiến linh mục.
ĐTC nói với chúng ta khi ngài đề cập đến những thách đố với với người làm mục vụ:
- Số 97. họ từ chối lời tiên tri của anh em, họ thanh trừng những người có thắc mắc, liên tục nhấn mạnh đến những sai lầm của người khác và chú ý quá đáng đến vẻ bề ngoài. Họ thu hẹp những gì liên quan đến quả tim của họ vào một chân trời khép kín của nội tại và tư lợi, và do đó họ không học được gì về tội lỗi của họ và không thực sự mở lòng ra cho sự tha thứ. Đây là một sự thối nát khủng khiếp đội lốt một vẻ bề ngoài tốt lành.
- Số 98. Có biết bao nhiêu cuộc chiến tranh trong Dân Chúa và trong các cộng đồng khác nhau! […] vì ham muốn và ganh tỵ, ngay cả giữa các Kitô hữu! […] Ngoài ra, một số người ngưng sống như thành viên thân yêu trong Hội Thánh, để nuôi dưỡng một tinh thần bất hòa. Thay vì thuộc về toàn thể Hội Thánh, với sự phong phú đa dạng của nó, họ thuộc về một nhóm tự cho là mình khác người hoặc đặc biệt.
Và ĐTC nhấn mạnh: “tôi cảm thấy rất đau lòng khi khám phá ra rằng làm sao trong một số cộng đồng Kitô hữu và thậm chí giữa những người được thánh hiến, còn có chỗ cho các hình thức khác nhau của hận thù, chia rẽ, vu khống, nói xấu, trả thù, ghen ghét, mong muốn áp đặt ý tưởng của mình với bất cứ giá nào, để đàn áp tương tự như một cuộc tróc nã phù thủy không thương xót. Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng cho ai với những hành vi như thế? (số 100)
Chúng ta nghĩ gì khi nghe vị cha chung của Giáo Hội nói điều đó? Người cha, người mẹ nào trong gia đình vui cho được, bình an cho cam khi biết anh chị em trong gia đình đấu đá, hận thù, chia rẽ? Giám mục nào yên lòng khi thấy linh mục đoàn của mình có sự phe nhóm, chống đối, hạ bệ nhau? Anh chị em trong gia đình liệu có vui khi gia đình không thể có những bữa cơm ấm cúng tình gia đình? Anh em linh mục có cảm thấy mình thuộc về một gia đình giáo phận khi anh em linh mục không muốn nhìn mặt nhau, không thể ngồi với nhau để cùng dùng bữa, cụng chén rượu huynh đệ với nhau? Chưa kể là trong bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, có những linh mục không muốn cùng dâng lễ, cùng đồng tế với nhau?
ĐTC mời gọi chúng ta: “Hãy coi chừng cám dỗ ghen tị! Chúng ta ở trên cùng một con thuyền và chúng ta đi đến cùng một bến! Chúng ta hãy xin ơn để vui mừng vì các hoa quả của những người khác, mà cũng là của tất cả mọi người” (số 99).
Đối với giáo dân
Sự vâng phục của linh mục đối với giáo dân ngày hôm nay được hiểu chính là cần phải lắng nghe những tâm tình, những thao thức, nguyện vọng của họ và mở lòng mời gọi cũng như đón nhận sự cộng tác của họ trong việc phục vụ của Giáo Hội, cụ thể là trong giáo xứ: “Khi chúng ta cố gắng đọc các dấu chỉ của thời đại trong tình hình hiện nay, chúng ta nên lắng nghe những người trẻ và những người già. Cả hai đều là những niềm hy vọng của mọi dân tộc. Những người lớn tuổi mang với họ ký ức và sự khôn ngoan của kinh nghiệm, là những điều nhắc cho chúng ta đừng lặp lại một cách ngu xuẩn những sai lầm trong quá khứ. Những người trẻ mời gọi cho chúng ta đánh thức và phát huy hy vọng, bởi vì các em mang theo những khuynh hướng mới của nhân loại và mở lòng chúng ta hướng về tương lai, để chúng ta không bám chặt lấy trong nhung nhớ những cơ chế và tục lệ không còn mang lại sự sống trong thế giới ngày nay” (số 108).
Hay như trong số 102, ĐTC nói: “Trong một số trường hợp vì người giáo dân không được đào tạo để đảm nhận trách nhiệm quan trọng, trong những trường hợp khác vì họ không tìm thấy chỗ đứng trong Hội Thánh địa phương […] vì chế độ giáo sĩ trị, là điều gạt họ ra ngoài lề trong việc đi đến những quyết định”.
Đó là lời cảnh tỉnh và nhắc nhở vô cùng hữu ích cho chúng ta khi phục vụ giáo xứ trong bối cảnh ngày nay.
• Khiết tịnh: vấn nạn đang làm đau đầu các mục tử trong Giáo Hội
Một lần nữa, tôi xin được nhắc đến lời thẩm vấn trong ngày chúng ta chịu chức Phó Tế: “(Các) con là người đã sẵn sàng sống bậc độc thân, vậy (Các) con có muốn suốt đời giữ quyết tâm này làm bằng chứng (Các) con, vì Nước Trời, đã dâng hiến tâm hồn mình cho Chúa Kitô, để phụng sự Thiên Chúa và nhân loại không?” Như vậy, giá trị của sự khiết tịnh trong đời linh mục chính là để hiến dâng và phụng sự Thiên Chúa và con người cách trọn vẹn. Vậy mà trong thập niên vừa qua, vấn nạn về khiết tịnh linh mục nổi lên một cách khủng khiếp ở rất nhiều nơi trên thế giới. Các vấn nạn về khiết tịnh được làm “nổi bật” bởi nạn lạm dụng tình dục trẻ em. Bao nhiêu tờ báo, trang đài, các phóng viên, một số tổ chức nhắm vào vấn nạn lạm dục tình dục trẻ em này.
Mục tin nhanh của trang thông tin The Media Report
(http://www.themediareport.com/fast-facts/) đã đưa ra một thống kê và nhận định về nạn lạm dụng tình dục trẻ em nơi các linh mục so với các trường hợp khác. Theo đó, tỷ lệ phạm tội này nơi các linh mục là rất nhỏ (Ví dụ: tại Mỹ trong năm 2010, số trường hợp nơi linh mục là 10, các trường hợp khác là 63.527).
Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng người ta nhắm vào linh mục, bởi linh mục là những người lãnh đạo, là những người hướng dẫn đức tin, đời sống thiêng liêng, đời sống luân lý. Hơn nữa, vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nạn lạm dụng tình dục đó lại là nạn lạm dụng tình dục trẻ em. Đó là một tội ác kinh khủng.
Vậy chỉ cần có một chấm đen sẽ làm cho tờ giấy trắng bị giảm giá trị, hay nói theo tục ngữ Việt Nam “một con sâu làm rầu nồi canh”.
Như vừa đề cập, vấn nạn về đời sống khiết tịnh của linh mục không chỉ là vấn nạn lạm dụng tình dục trẻ em (vấn nạn này được/bị đẩy lên cao, được sử dụng để tấn Công Giáo Hội) nhưng nó còn có những diện mạo khác, mà đáng lo ngại nhất chính là não trạng thoáng về tính dục. Não trạng này bị tác động bởi thuyết tương đối. Cho nên, đời sống khiết tịnh của linh mục đang bị rình rập và đe dọa; nếu không tỉnh táo, chúng ta sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, sẽ ngã chiều theo sự thúc đẩy của bản năng tính dục nơi mỗi người. Như thế, sự hiến dâng của chúng ta cho Chúa Kitô và tha nhân chỉ là một sự dâng hiến gian dối; chúng ta đánh lừa Thiên Chúa và tha nhân bởi trước mặt mọi người thì tỏ ra dâng hiến, nhưng đằng sau thì thu vén, lấy lại hay đánh cắp những gì đã hứa dâng cho Thiên Chúa và tha nhân. Một khi sống như thế, chúng ta sẽ không còn đặt hết tình yêu, tâm trí, khả năng vào việc phụng sự Thiên Chúa qua Giáo Hội, qua giáo phận, qua các thành viên trong giáo xứ mà chúng ta được trao.
Lối sống hai mặt này đã bị ĐTC Phanxico lên án: “Tinh thần thế tục là tinh thần nấp đằng sau những vẻ đạo đức bề ngoài và ngay cả tình yêu đối với Hội Thánh, để tìm vinh quang và phúc lợi cho con người thay vì vinh quang của Chúa. […] Đây là một cách tinh vi để tìm “lợi ích riêng của mình chứ không phải của Đức Giêsu Kitô” (Pl 2:21). Nó có nhiều hình thức, tùy thuộc vào loại người và hoàn cảnh mà nó xâm nhập. Vì nó liên quan đến việc tìm kiếm vẻ bề ngoài, nên không luôn luôn đi kèm với các tội công khai, và nhìn bề ngoài mọi sự đều có vẻ như thường” (số 93).
ĐTC còn nói nặng hơn: “Chúng ta xấu hổ vì những chiến bại của các giám mục, linh mục, giáo dân […] Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng lời Chúa thì họ không có… Tội nghiệp dân! Chúng ta không cho họ bánh sự sống để ăn, chúng ta không cho họ chân lý! Thậm chí chúng ta cho họ ăn bánh bị nhiễm độc, bao nhiêu lần!” (bài giảng lễ ngày 16/1/2014 tại nhà nguyện Martha).
Bên cạnh đó, phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại, một cú click chuột, vào một trang mạng nào đó trên màn hình, bao nhiêu sự hiện ra cho chúng ta một cách nhanh chóng. Đây là một thuận lợi cũng như thách thức cho đời sống khiết tịnh của chúng ta. Nó thuận lợi, tích cực vì nó giúp chúng ta tiếp cận với nhiều hình thức, lối đường tu đức khác nhau; ngược lại, nó sẽ giúp chúng ta tiếp cận với nhiều điều không lành mạnh, sẽ kéo chúng ta xuống bùn.
Trong bài nói chuyện vào ngày 5/4/2013, khi đề cập đến đời sống khiết tịnh của linh mục, cách riêng về vấn nạn lạm dụng tình dục, ĐTC Phanxicô phát biểu nói: “nếu không vượt thắng được, thì nên quyết định ra đi (rời bỏ đời sống giáo sĩ). Đây là một lời đề nghị thẳng thắn để mỗi chúng ta suy xét, cảnh tỉnh về kỷ luật đời sống cá nhân, sự trong sáng của các mối tương quan …, trong khi phục sự Chúa nơi cộng đoàn giáo xứ của mình.
• Cầu nguyện
Một trong những bệ đỡ vô cùng hữu hiệu cho sự trung thành và dấn thân phục vụ là sự cầu nguyện. Ý thức cầu nguyện liên lỉ, ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng giây phút, trong mỗi hành động hay công việc sẽ là nguồn lực khiến chúng ta trao hiến cách quảng đại hơn. Nếu thiếu đi sự cầu nguyện, những điều chúng ta làm có thành công đến đâu, tất cả chỉ là cái mác bên ngoài, chúng ta chỉ như một cái máy, một cái xác không hồn, làm mà không biết mục đích và điểm đến. Đến một lúc nào đó, cái máy không còn chất bôi trơn (dầu – ân sủng, sự cầu nguyện), nó sẽ bị hư hỏng và có thể phải bị vất đi hay bán sắt vụn.
Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng cho ta những nguyên nhân ảnh hưởng đến đời sống cầu nguyện: Nơi những người làm mục vụ đang diễn ra việc “sa mạc hóa” về tâm linh (x. số 86), “họ hành động như thể không có Thiên Chúa, quyết định như thể không có người nghèo, mơ ước là không có tha nhân, làm việc như thể không có những người chưa nhận được lời rao giảng Tin Mừng” (số 80).
Chúng ta có đang rơi vào tình trạng “sa mạc hóa” trong tâm hồn, trong đời sống thiêng liêng hay không? Mỗi ngày, chúng ta dành thời gian và cử hành Thánh lễ, các giờ kinh Phụng Vụ, các giờ đạo đức, đặc biệt là giờ nguyện ngắm, cầu nguyện cá nhân ra sao? Anh chị em giáo dân, người nghèo, những người đang cần đến chúng ta có là đối tượng chúng ta “trò chuyện” với Thiên Chúa không? Trong cuộc “trò chuyện” với Thiên Chúa, chúng ta nói ra sao? (vội vàng, chóng vánh, kể lể, từ tốn, lắng nghe,. ..?)
Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời của ĐTC Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (số 109) để thấy rằng, dù có nhiều thách đố, nhưng chúng ta đừng bao giờ để giáo xứ hay bản thân rơi vào đêm tối của sự bi quan: “Những thách đố hiện hữu là để được khuất phục. Chúng ta phải thực tế, nhưng không làm mất niềm vui, sự mạnh dạn và sự dấn thân đầy hy vọng”.
Bài 4: NGƯỜI KITÔ HỮU GIÁO DÂN TRONG GIÁO XỨ:
QUYỀN VÀ SỰ CỘNG TÁC (Christifideles Laici)
Tin Mừng (Ga 15:4-8): Anh em hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Ðiều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
Trong tâm tình của năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ và cộng đoàn, là người đứng đầu, lãnh đạo giáo xứ, việc chúng ta đọc lại giáo huấn của Giáo Hội về người giáo dân là một điều rất chính đáng và phải đạo. Nếu chúng ta không biết rõ, ý thức đủ về vị trí của người giáo dân, chúng ta làm sao có thể thúc đẩy, dẫn đầu giáo xứ thực hiện công cuộc Tân Phúc Âm hóa.
Cho nên, trong bài chia sẻ giờ đây, dựa trên tài liệu chính yếu là tông huấn Kitô hữu giáo dân, chúng ta cùng nhau tái khám phá và khẳng định lại vị thế của người giáo dân trong Giáo Hội nói chung, và trong giáo xứ nói riêng, qua các đề mục: Người giáo dân
- Là phần tử của Cây Nho
- Tham gia sứ mạng Hội Thánh
- Quyền đòi hỏi mục tử của mình (các linh mục)
I. Là phần tử của Cây Nho
1. Phần tử của Cây Nho
Tông huấn Christifideles Laici- Kitô hữu giáo dân trình bày cho chúng ta dung mạo người giáo dân trong Giáo Hội. Khởi đi từ lời Đức Kitô khi Người dùng hình ảnh cây nho để nói đến sự kết hợp nên một trong Người của những ai tin vào Người. Theo đó, người giáo dân không chỉ là người thợ trong vườn nho, nhưng đích xác hơn, đúng hơn, họ là chi thể, là tế bào của cây nho; và nếu xét trên phương diện Giáo Hội học, họ là thành phần của Giáo Hội, là Giáo Hội: - Số 8. Hình ảnh cây nho trong Thánh Kinh được dùng nhiều cách và nhiều ý nghĩa. Đặc biệt nó được dùng để diễn tả mầu nhiệm Dân Chúa. Theo ý nghĩa này, người giáo dân không chỉ là những người thợ làm việc trong vườn nho, nhưng họ là một phần tử cây nho. Người giáo dân chỉ nhận diện mình, nhận chân bản tính nguyên thủy của mình bên trong mầu nhiệm của Giáo Hội là mầu nhiệm hiệp thông ơn gọi cũng như sứ mệnh trong Giáo Hội và thế giới của người giáo dân cũng chỉ định nghĩa được bên trong phẩm giá này.
- Số 9. Để trả lời câu hỏi nguời tín hữu giáo dân là ai, Công Đồng […] còn thêm: "Danh hiệu Giáo dân có nghĩa là tất cả các Kitô hữu không thuộc thành phần chức thánh hay bậc tu trì được Giáo Hội công nhận, nghĩa là các Kitô hữu đã được rửa tội sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được nhập tịch Dân Chúa, được trở thành kẻ tham gia theo cách của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ vương giả của Chúa Kitô, họ là những người thi hành sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa trần thế theo nhiệm vụ riêng của mình. Đức Piô thứ XII đã quả quyết: "Các tín hữu nói một cách rộng hơn, là các giáo dân là kẻ đứng ở mặt trận tiền phong trong đời sống của Giáo Hội. Nhờ họ, Giáo Hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc về Giáo Hội mà là Giáo Hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục hiệp thông với Ngài. Họ là Giáo Hội".
Với khẳng định của Đức Piô XII, ta thấy diện mạo của người giáo dân thật vĩ đại, vai trò của họ thật to lớn và mang tính sống còn cho sứ mạng của Giáo Hội. Đây là điều anh em linh mục chúng ta cần phải nhớ và ý thức cho đủ. Là những người lãnh đạo, đứng đầu cộng đoàn, những công việc mục vụ nhiều khi làm cho chúng ta tưởng rằng chúng ta là những người chiếm vị trí số 1 trong đời sống của Giáo Hội. Đúng ra, chúng ta là những người được kêu gọi và cất nhắc lên từ giữa lòng dân Chúa để phục vụ dân Chúa trên phương diện mục vụ bí tích, hướng dẫn thiêng liêng,…Chúng ta cũng chỉ là một phần tử trong Dân Thánh. Những người đang sống, đang thực thi và làm chứng cho giá trị Tin Mừng và giáo huấn của Đức Giêsu qua Giáo Hội là anh chị em giáo dân. Từng ngày, từng giờ, từng phút họ phải chiến đấu trong cuộc chiến thiêng liêng để sống đúng giá trị Tin Mừng trong chính cuộc sống đầy thử thách, cạm bẫy của cuộc sống. Linh mục được mời gọi luôn đồng hành, tôn trọng, yêu mến anh chị em giáo dân, những người mà nhiều khi chưa được chúng ta đón nhận và tôn trọng cho đủ.
2. Tham dự 3 chức vụ: Tư Tế - Vương Đế - Ngôn Sứ
Được tháp nhập vào cây nho Giêsu, gia nhập Giáo Hội qua bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu tham dự vào ba chức vụ của Đức Kitô, Đấng là đầu Giáo Hội và là Cây Nho:
- Số 14: Sự tham gia của giáo dân vào ba chức vụ của Chúa Giêsu: tư tế, ngôn sứ, vương đế bắt nguồn từ việc xức dầu của phép Rửa Tội, được phát triển nhờ phép Thêm Sức, được nâng đỡ và kiện toàn trong phép Thánh Thể. Đây là một sự tham gia ban cho mỗi tín hữu giáo dân, nhưng với tư cách là họ tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô. Bởi vì Chúa Giêsu làm cho Giáo Hội được sung túc bằng các ân huệ của mình, vì Giáo Hội là Thân thể và là Hiền thê của Ngài. Như thế mỗi người được tham gia vào ba sứ vụ của Đức Kitô chỉ vì họ là phần thân thể của Giáo Hội, như Thánh Phêrô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội " là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa," (1Pr 2:9). Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Kitô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Augustinô viết:"Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục duy nhất."
Số 14 của Tông huấn giải thích tiếp cho chúng ta tại sao Kitô hữu lại được tham dự vào 3 chức vụ của Đức Kitô:
- Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở cho chúng ta về về sứ mệnh của Đức Kitô là Tư Tế, Ngôn Sứ, Vương Đế vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Tất cả mọi ngườỉ, toàn dân Thiên Chúa tham gia vào ba sứ mệnh này:
- Các tín hứu giáo dân tham gia vào chức vụ tư tế, đó là trách vụ Chúa Giêsu đã dùng để hiến tế mình trên Thánh Giá và còn tiếp tục hiến tế mình trong nghi lễ Phép Thánh Thể để làm vinh danh Đức Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại. Được ghép vào Đức Giêsu Kitô, những ai đã chịu phép Rửa Tội đều được kết hợp với Ngài bằng việc dâng hiến chính mình và các hoạt động của mình (Rm 12:l-2). Trong Thánh Lễ, các của lễ này hiệp với Thánh Thể được dâng lên cho Đức Chúa Cha với tâm hồn sất sắng. Như thế người giáo dân thánh hiến cho Thiên Chúa chính cả trần thế này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng một đời sống thánh thiện.
- Việc tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô làm cho người giáo dân có đủ khả năng và dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. […] Hơn nữa, họ được mời gọi chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời đại.
- Người tín hữu giáo dân tham gia vào chức vụ vương giả của Đức Kitô, và được Đức Kitô kêu gọi để phục vụ và loan truyền Ngài trong lịch sử. Họ sống vương quyền Kitô hữu trước tiên bằng cách chiến đấu để chiến thắng thế gian tội lỗi (Rm 6:12) ngay trong chính mình, rồi hiến dâng mình để phục vụ trong công bằng và bác ái.
Chúng ta thấy, ba chức vụ mà anh chị em giáo dân tham dự, thực thi và sống mang một giá trị thật cao đẹp, thật thánh thiêng. Bởi vì, chính trong sự kết hợp liên lỉ, duy nhất trong thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, nơi Cây Nho, tất cả mọi hành động, công việc, lời nói của anh chị em giáo dân trở nên một của lễ sống động, tinh tuyền và thánh thiện mang lại ơn cứu độ cho nhân loại và cho chính bản thân người anh chị em đó.
Điều này nhắc nhớ anh em linh mục chúng ta hai điều:
Thứ nhất, chúng ta hãy giúp anh chị em giáo dân ý thức được việc cử hành hy tế Tạ Ơn cách sống động trong Phụng Vụ và trong chính đời sống thường ngày. Với những lao nhọc, hy sinh, vất vả khi sống đúng với giá trị Tin Mừng, họ đang cử hành hy tế Tạ Ơn cách sống động nơi môi trường của mình; để rồi, với hy tế Tạ Ơn trong Phụng vụ, một lần nữa, họ dâng lên Thiên Chúa tất cả những ưu tư, bận tâm, niềm vui, nỗi buồn của kiếp người trong đĩa và chén Thánh mà linh mục dâng trên bàn thờ.
Thứ hai, đối với chính bản thân chúng ta, khi chúng ta nâng bánh và rượu lên mà nói “này là Mình Thầy; này là Máu Thầy”, cũng là lúc chúng ta thực sự được mời gọi hãy hiệp với Đức Kitô dâng chính mình lên cho Thiên Chúa, cam kết dâng hiến chính mình, trao ban chính mình cho anh chị em giáo dân. Để có thể sống như tâm tình của Thánh Ignatio Antiokia: “Cuộc đời mình là tấm bánh cho mọi người ăn”.
3. Nên thánh trong ơn gọi trần thế
Trước hết, chúng ta biết rằng Giáo Hội có sứ mạng mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho muôn người. Mọi thành phần của Giáo Hội đều chia sẻ sứ mạng đó, anh chị em giáo dân cũng vậy, không ngoại lệ. Tuy nhiên, sự tham dự vào sứ mạng của người giáo dân mang một nét đặc thù riêng. Số 15 của tông huấn dạy chúng ta:
- Nhờ phẩm giá chung do phép Rửa Tội, người tín hữu giáo dân là người đồng trách nhiệm với tất cả các thừa tác viên có chức thánh, với các tu sĩ nam nữ, đối với sứ mệnh của Giáo Hội.
- Nhưng phẩm giá chung do phép Rửa Tội nơi người tín hữu giáo dân có một hình thái làm cho họ khác biệt, nhưng không chia cách họ khỏi linh mục và tu sĩ. Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả hình thái này chủ tại trong tính cách trần thế. Tính cách trần thế là đặc tính riêng biệt của giáo dân.
Số 15 của tông huấn tiếp tục nói với chúng ta rằng dù đặc tính trần thế là đặc tính nằm ở tận bản tính thâm sâu của Giáo Hội, bởi vì nó được cắm rễ sâu trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng Giáo Hội không thuộc về trần thế. Giáo Hội được sai đi để tiếp nối công trình Cứu Chuộc của Đức Kitô. Công trình này chính là mang lại ơn cứu rỗi cho con người và canh tân những trật tự thế giới.
Như vậy, đối với anh chị em giáo dân, bởi đặc tính trần thế của mình, trần thế là nơi họ được Thiên Chúa mời gọi và là nơi họ mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em, trong chính đặc tính trần thế của mình. (tiếp theo số 15)
- Các hình ảnh trong Phúc âm nói về muối, ánh sáng và men, mặc dầu có ý nói về tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, nhưng áp dụng cách nêng cho người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang nặng ý nghĩa tuyệt vời, bởi vì không những nó diễn tả việc hội nhập sâu xa và tham gia toàn diện của các người tín hữu giáo dân trên mặt đất, vào sự sống của thế giới, của cộng đồng nhân loại, nhưng nhất là nói lên nét mới mẻ và độc đáo của một sự hội nhập và tham gia để loan Tin Mừng Cứu Độ.
Không dừng lại ở khía cạnh thánh hóa, mang ơn cứu độ cho thế giới với đặc tính trần thế của mình, người Kitô hữu giáo dân còn được mời gọi hãy nên thánh trong khi thực thi sứ vụ thánh hóa thế giới của mình. Do đó, trần thế là nơi người giáo dân nên thánh, là bàn thờ để anh chị em giáo dân cử hành hy tế tạ ơn trong đời sống thường nhật:
Ơn gọi nên thánh phải được người tín hữu giáo dân nhận thức và sống, không phải như một bổn phận đòi hỏi và không thể lẫn tránh, nhưng một dấu chỉ chói sáng của tình yêu vô biên của Chúa Cha là Đấng đã tái sinh họ trong đời sống thánh thiện. […] Đồng thời, ơn gọi nên thánh lại được liên kết mật thiết với sứ mệnh và trách nhiệm được trao phó cho người tín giáo dân trong Giáo Hội và giữa thế giới. Bởi vì, sự thánh thiện đang sống trong tín hữu phát xuất từ việc tham gia vào đời sống thánh thiện của Giáo Hội, tự nó cũng biểu tượng sự đóng góp tiên khởi và căn bản vào việc xây dựng Giáo Hội như là "việc các thánh thông công".
II. Quyền tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội (Giáo xứ)
Là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội Chúa Kitô, người Kitô hữu được tham dự vào ba chức vụ của Người mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Giờ đây, chúng ta khám phá rõ nét hơn hình ảnh người giáo dân khi chúng ta bàn đến quyền tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội nói chung, cách riêng là Giáo xứ. Quyền này trình bày cách cụ thể việc người giáo dân thông dự vào ba chức vụ của Đức Kitô ra sao.
Trước hết, chúng ta cần khẳng định với nhau rằng “Giáo xứ, nghĩa là "mầu nhiệm" của Giáo Hội hiện diện và tác động trong Giáo xứ. Mặc dầu đôi lúc Giáo xứ không có nhiều người cũng không đầy đủ phương tiện, có khi Giáo xứ lại tản mác trên những địa hạt rộng lớn, hay lẩn khuất giữa những khu phố tân thời đông đúc và lộn xộn. Nhưng Giáo xứ không phải là một cơ cấu, một địa hạt, hay một ngôi nhà, nó là "một gia đình của Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có một linh hồn", là "mái gia đình, đầy tình huynh đệ và mở rộng đón tiếp mọi người", là "cộng đồng các tín hữu. (số 26)
Vì vậy, trong gia đình, cộng đoàn đó, mọi người đều được mời gọi cộng tác làm cho gia đình đó, cộng đoàn đó tăng trưởng trong ân sủng, trong tình yêu và sự hiệp thông.
Trong tinh thần đó, chúng ta cũng bàn về 3 phương diện người giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội:
- Quản trị giáo xứ
- Lãnh nhận các tác vụ
- Lập và tham gia các nhóm, hội đoàn
1. Quản trị giáo xứ
Phương diện đặc biệt để nói lên việc người giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội chính là việc họ tham dự vào việc quản trị giáo xứ. Điều này bắt nguồn từ việc họ là tế bào của Thân Thể Chúa Kitô, chi thể của Giáo Hội, họ có quyền được tham dự vào việc quản trị thân thể mà mình là một thành phần. Và chúng ta cần nhớ, hoạt động tham gia quản trị của người giáo dân cần thiết đến nỗi nếu không có sự tham gia đó, các việc tông đồ của các vị chủ chăn lắm lúc không thể đạt được kết quả mỹ mãn (x. số 27).
2. Lãnh nhận các tác vụ
Quyền được lãnh nhận các tác vụ được khởi đi từ chính bí tích Rửa Tội, vì lãnh nhận bí tích Rửa Tội, người giáo dân tham dự vào các chức vụ của Đức Kitô. Sự tham dự vào đời sống Giáo Hội qua việc lãnh nhận các tác vụ cho thấy mối dây hiệp thông, sự hiệp nhất huynh đệ trong Giáo Hội, giáo xứ:
- Số 20: Người tín hữu giáo dân "không được quyền tự cô lập mình với cộng đoàn, nhưng họ phải luôn sống trong sự chia sẻ với anh em khác trong tình huynh đệ sâu đậm, trong niềm vui vẻ bình đẳng, và hợp tác với nhau để kho tàng gia tài mênh mông đã được nhận lãnh được sinh hoa kết quả. […]Số 23. Sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội giữa thế giới được thực hiện không chỉ nhờ các vị thừa hành đã nhận lãnh bí tích Truyền chức Thánh, nhưng cũng nhờ các tín hữu giáo dân; vì họ đã được chịu phép Rửa Tội và được kêu gọi đặc biệt, để tham dự theo mức độ của mỗi người vào chức vụ tư tế, rao giảng và vương giả của Đức Kitô. […] Bởi thế, khi cần thiết hoặc vì lợi ích của Giáo Hội đòi buộc, các chủ chăn có thể theo quy chế dự định trong bộ luật chung, giao phó cho tín hữu giáo dân một số nhiệm vụ hay chức vụ. Những nhiệm vụ hay chức vụ này vẫn (tuỳ thuộc) với thừa tác vụ chủ chăn của các ngài, nhưng không cần chức Thánh mới thi hành được.
Điều này được quy định thành luật. Giáo Luật điều 230 xác định:
(2) Các giáo dân có thể được chỉ định tạm thời đảm nhận việc đọc sách trong các việc phụng vụ. Cũng thế, tất cả các giáo dân có thể thi hành những công tác của người chú giải, ca trưởng hoặc những công tác khác theo quy tắc luật định.
(3) Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi và thiếu thừa tác viên, thì các giáo dân dù không có tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số việc, như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa các buổi cầu nguyện, rửa tội và cho rước lễ theo các quy tắc luật định.
Như vậy, là người lãnh đạo giáo xứ, chúng ta hãy cỗ võ sự tham gia của anh chị em giáo dân vào các công việc giáo xứ và công việc mục vụ mà không nhất thiết phải cần đến chức thánh (như đã được gợi ý trong Giáo luật và tông huấn). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải lưu ý rằng chúng ta không được phép khoán trắng cho anh chị em giáo dân, nhưng chúng ta cần phải luôn đồng hành với họ trong các trách vụ họ thực hiện, vì chúng ta là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về đời sống của giáo xứ trước mặt Chúa, Giáo Hội. Đó mới là điều Giáo Hội mong muốn nơi mỗi linh mục chúng ta.
3. Lập và tham gia hội đoàn
Một phương diện khác nói lên quyền của người giáo dân trong việc quản trị Giáo Hội, giáo xứ chính là việc “lập và tham gia hội đoàn”. Quyền này cho thấy trách nhiệm và sự trưởng thành của người giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội.
- Số 29: Trước tiên phải công nhận là người tín hứu giáo dân có quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội. Quyền tự do này là một quyền lợi thật, nó không phải chỉ là một hình thức "nhân nhượng" của giáo quyền mà là hậu quả đương nhiên của phép Rửa Tội.
Đây là một quyền tự do được công nhận và bảo đảm do giáo quyền, nhưng phải luôn luôn thi hành trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Do đó, quyền lợi của người tín hữu giáo dân được tự do hội họp là một quyền lợi nối kết mật thiết với đời sống chung và sứ mệnh chính của Giáo Hội.
Một điều đặc biệt chúng ta có thể nhận ra rằng quyền này cũng là một công cụ nên thánh của người giáo dân. Các phong trào giáo dân như Focolare, Legio, Cursillo,… đã lan rộng trên thế giới (ngay cả tại Việt Nam), tỏ lộ ra diện mạo tươi đẹp của Giáo Hội qua sự thánh thiện người giáo dân.
Trong các giáo xứ ở đất nước chúng ta hiện nay, các phong trào giáo dân cũng đang được quan tâm và phát triển. Một số phong trào như gia đình trẻ, các hội bác ái, các hội thân hữu, các nhóm ve chai, …cho thấy sự năng động, sáng kiến của người giáo dân trong sự nỗ lực đem Tin Mừng đi vào cuộc sống.
III. Quyền được đòi hỏi nơi các linh mục
Thật sự mà nói, chúng ta thường quên khía cạnh giáo dân có quyền được đòi hỏi nơi các linh mục. Chúng ta thường chỉ nhớ chúng ta có quyền này, quyền kia và người giáo dân phải tôn trọng, lắng nghe và tuân phục chúng ta. Do đó, việc lãng quên vai trò người tôi tớ phục vụ nơi thừa tác vụ linh mục hay giám mục của chúng ta là điều dễ hiểu. Chúng ta nói cho giáo dân về sự dấn thân phục vụ nhau thì rất hay nhưng ngay bản thân chúng ta, chúng ta nhiều lúc không ý thức Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên người phục vụ giữa dân Người: “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ”, một sự phục vụ hạ mình như người đầy tớ rửa chân cho ông chủ (ĐG rửa chân các môn đệ)
Đã là người phục vụ, dĩ nhiên, người “tôi tớ” phải đáp ứng những đòi hỏi của “người chủ”; nói khác đi, giáo dân có quyền đòi hỏi nơi các cha xứ của mình.
Ở đây, tôi chỉ giới hạn trong 3 khía cạnh mà người giáo dân có thể đòi hỏi nơi linh mục chúng ta. Ba khía cạnh này nếu chúng ta có thể chu toàn và thực hiện đầy đủ, chúng ta có thể nên thánh trong ơn gọi linh mục.
1. Sự thánh thiện
Trên hết và trước hết, sự thánh thiện luôn là một đòi buộc chung đối với những ai thuộc về dân thánh. Sự đòi buộc đó còn ngặt hơn đối với những ai thực thi vai trò thánh hóa trong chức linh mục thừa tác. Sắc lệnh về đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (số 12) đã nhắc nhở nghĩa vụ phải sống thánh thiện nơi các linh mục: “Nhờ Bí Tích Truyền Chức Thánh, các Linh Mục nên giống Chúa Kitô Linh Mục, để như là thừa tác viên của Ðầu Nhiệm Thể và như những cộng tác viên của hàng Giám Mục, các ngài xây dựng và kiến thiết toàn Thân Người là Giáo Hội. Ðành rằng ngay từ khi được thánh hiến nhờ phép Rửa Tội, như mọi Kitô hữu, các ngài đã lãnh nhận dấu tích và ân huệ của ơn gọi và ơn sủng cao trọng, dù bản tính nhân loại yếu hèn, các ngài vẫn có thể theo đuổi và phải theo đuổi sự hoàn thiện, đúng như lời Chúa phán: "Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Ðấng Hoàn Thiện" (Mt 5:48). Nhưng các Linh Mục còn có lý do đặc biệt phải đạt tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận Chức Thánh là các ngài được thánh hiến cho Thiên Chúa theo một cách thức mới: các ngài trở nên những khí cụ sống động của Chúa Kitô Linh Mục Ðời Ðời, để qua các thời đại, các ngài có thể tiếp tục công việc kỳ diệu của Ðấng đã lấy quyền năng cao cả mà tái lập toàn thể xã hội con người”
Như vậy, tự bản chất, sự thánh thiện là một điều đòi buộc đối với linh mục chúng ta. Việc đòi hỏi của người giáo dân về việc các mục tử sống thánh thiện không phải là một yêu sách mới mẻ, không phải là một đòi hỏi quá đáng nếu như họ nói lên điều đó. Chúng ta nghĩ gì khi chúng ta vẫn rao giảng và mời gọi người khác sống thánh thiện mà chính bản thân lại không nỗ lực sống sự trọn hảo, điều mà chúng ta vẫn nói? Chúng ta là linh mục, là một Chúa Kitô khác, vậy thì thật là mâu thuẫn nếu cuộc đời, những việc làm, sự phục vụ của chúng ta trong chức linh mục thừa tác lại không bộc lộ được sự thánh thiện của người môn đệ Chúa Kitô.
Giáo luật điều 276 đã tiên liệu và mời gọi chúng ta như sau (đây không chỉ là Giáo Hội, nhưng cụ thể là chính anh chị em giáo dân của chúng ta đang muốn chúng ta):
(1) Trong đời sống, giáo sĩ phải lo theo đuổi sự thánh thiện vì một lý do riêng, xét vì do việc lãnh thánh chức, họ được thánh hiến cho Thiên Chúa với tước hiệu mới là những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa hầu phục vụ cho Dân Ngài.
2. Tri thức
Không thể cho điều chúng ta không có. Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay, Giáo Hội và nhân loại cần có những mục tử không phải nổi tiếng về sự thông thái nhưng cần những mục tử có sự hiểu biết và có tấm lòng – đức ái mục tử, đức ái theo gương mẫu Đức Kitô: “Trong nghi lễ truyền chức, Ðức Giám Mục khuyên bảo các Linh Mục hãy "trưởng thành trong sự hiểu biết" và lời giáo huấn của các ngài phải là "linh dược thiêng liêng cho Dân Chúa”. Nhưng kiến thức của các thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì nó phát xuất từ nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì vậy, kiến thức đó trước hết được rút ra từ việc đọc và suy gẫm Sách Thánh, nhưng nó cũng được nuôi dưỡng hữu hiệu bằng việc nghiên cứu những tài liệu của các Giáo Phụ, các Thánh Tiến Sĩ và các tài liệu khác của Thánh Truyền. Ngoài ra, để trả lời thỏa đáng những vấn đề do người thời nay nêu lên, các Linh Mục phải hiểu biết cho thấu đáo những tài liệu của Quyền Giáo Huấn, nhất là của các Công Ðồng và của các Ðức Giáo Hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần học thời danh nhất và đã được thừa nhận” (PO số 19).
Không dừng ở đó, PO số 19 mời gọi các linh mục hãy tự đào tạo chính mình cách liên tục để có thể đối diện với những thách đố của thời đại: “Thực ra, trong thời đại chúng ta, văn hóa nhân loại và ngay đến những khoa học thánh cũng tiến thêm một bước mới, nên khuyên các Linh Mục hãy hoàn bị kiến thức của mình về Thiên Chúa và về nhân loại một cách thích hợp và liên tục, và như thế, các ngài tự chuẩn bị để đối thoại với những người đương thời một cách thích hợp hơn.”
Ngay cả Giáo luật cũng đòi buộc như thế: Điều 279
(1) Giáo sĩ cần tiếp tục học các môn thánh khoa, cả sau khi đã chịu chức Linh Mục, và theo sát đạo lý vững chắc dựa trên Kinh Thánh, và đã được tiền nhân lưu lại và được tiếp nhận chung trong cả Giáo Hội, như đã xác định bởi các văn kiện do Công Ðồng và Ðức Giáo Hoàng; họ nên tránh những trào lưu rỗng tuếch và những khoa học giả hiệu.
Vậy, người giáo dân họ đang cần có những linh mục phải có sự hiểu biết, tri thức nhất định nào đó để có thể đối thoại với thế giới ngày nay. Những tiếng xầm xì, ca thán, phản ứng của anh chị em giáo dân về các bài giảng, những quyết định, thái độ hay hành động của chúng ta phản ánh quyền đòi hỏi của họ về chúng ta phải có một sự hiểu biết, một nền tảng tri thức phù hợp với Giáo Huấn và thực tiễn xã hội. Liệu chúng ta có can đảm để nhìn lại chính mình, để liên tục đào luyện chính mình, liên tục tự trau dồi tri thức, tự học hay không? Hay chúng ta nghĩ rằng đã tốt nghiệp chương trình ĐCV là đủ rồi, không cần phải học gì thêm?
3. Cử hành các bí tích
Điều cuối cùng liên quan đến việc người giáo dân có quyền đòi hỏi nơi linh mục chúng ta chính là việc được lãnh các bí tích và được hiểu biết về Thiên Chúa. Đây là trách nhiệm của chúng ta, các linh mục. Chúng ta phải hết sức để làm tròn trách nhiệm này. Tôi xin nhắc lại, đây là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta được TC chọn gọi và đặt lên để thực thi vai trò phục vụ, không phải là để được cung phụng, không phải là để trở nên những người thi ân, những con người lãnh đạo theo phong cách xin-cho. Không, chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận cử hành các bí tích cho anh chị em giáo dân, vì phần rỗi của họ và một cách nhưng không.
Vậy anh em linh mục thân mến, một lần nữa, chúng ta cần nhớ: Người giáo dân có địa vị quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Họ có quyền đòi hỏi những quyền lợi của họ được bắt nguồn từ chính trong bản chất của Giáo Hội, trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Còn linh mục chúng ta, những con người được Thiên Chúa kêu gọi và cất nhắc lên từ giữa anh chị em giáo dân, chúng ta hãy thực thi bổn phận của mình một cách trọn hảo nhất, đừng trở nên những cán bộ, những người thuộc một đẳng cấp ưu tuyển, những người ban ơn.
Chúng ta hãy kiên nhẫn, nhẹ nhàng trong việc dạy bảo, chỉ dẫn anh chị em giáo dân. Bởi lẽ, giáo dân không được học biết như chúng ta. Chúng ta không nên cư xử hà khắc, đòi hỏi họ như những người đã được học, được đào tạo. Chính khi họ còn thiếu sót, còn chưa hiểu biết lại chính là lúc cần chúng ta thể hiện vai trò là người hướng dẫn, vai trò ngôn sứ.
Chúng ta hãy quảng đại, đừng làm khó dễ hay đòi hỏi về vật chất. Chúng ta phải ý thức rằng thừa tác vụ linh mục là để phục vụ, để trao ban; chức linh mục thừa tác không phải là một công cụ để chúng ta thu quén cho bản thân (Ðiều 848: Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.)
Ghi chú: PO: Sắc lệnh về đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis
Bài 5: PHỤC VỤ BÁC ÁI
Giáo xứ hướng đến truyền giáo
Mt 25:31-46. Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?" Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom". Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy". Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời".
I. Bác ái - yếu tố thuộc về bản chất của Giáo Hội
1. Bác ái – sự đòi buộc của Tin Mừng
Quan tâm, trợ giúp, nâng đỡ những ai rơi vào cảnh túng thiếu, khó khăn không chỉ về vật chất nhưng còn về phương diện tinh thần, thiêng liêng, là một trong những chủ đề quan trọng và trải dài trong Kinh Thánh.
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta thấy Thánh Kinh đã đề cập rất nhiều đến vấn đề bác ái trong đời sống, rách riêng là quan tâm đến những người nghèo của Thiên Chúa, những bà góa, trẻ em mồ côi hay khách ngoại kiều:
- (Xh 22:20-22.24-26) “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
- (Hc 4:1-5) Con ơi, đừng tước đoạt miếng cơm manh áo của người nghèo, đừng để kẻ khốn cùng luống công chờ đợi. Ðừng làm cho kẻ đói phải buồn tủi, đừng chọc tức ai khi họ phải ngặt nghèo. Một tâm hồn đang bực bội, con đừng làm khổ thêm, đừng bắt kẻ túng thiếu đợi lâu mới được con giúp đỡ. Kẻ khốn khổ nài xin, con đừng từ chối, gặp người nghèo, con đừng ngoảnh mặt đi. Ðừng làm ngơ không nhìn đến kẻ thiếu thốn, kẻo nên cớ cho người ta nguyền rủa con.
Như vậy, tiêu chuẩn đánh giá sự trung thành với Lề Luật, trung thành và kính sợ Thiên Chúa, chính là việc quan tâm và đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho người nghèo. Đó là trách nhiệm của những người thuộc về dân Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, cách riêng 4 cuốn Tin Mừng, lời mời gọi hãy biết sống bác ái, làm việc lành, giúp đỡ, quan tân đến những người “anh em bé nhỏ”, những người bị loại trừ khỏi xã hội, được Đức Giêsu không chỉ nhắc đến nhưng còn thể hiện ra rất nhiều: đón tiếp trẻ em, những người tội lỗi, những con người bị cộng đoàn, bị xã hội kết án, …
Cách riêng, đoạn Tin Mừng chúng ta vừa lắng nghe, đoạn kết của chuỗi các bài giảng về thời cánh chung, nhắc nhớ chúng ta về mối bận tâm đến những người bé nhỏ nghèo hèn của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng này đang đặt câu hỏi và tra vấn những ai thuộc về dân Thiên Chúa, cách riêng là giáo xứ và cá nhân linh mục về thái độ quan tâm đến người nghèo. Từng câu, từng chữ như những tia sáng đang chiếu vào các hoạt động mục vụ và từng ngày sống của chúng ta. Chúng ta đã cư xử ra sao khi đối diện với những thân phận nhỏ bé trong xã hội, trong Giáo Hội ngày nay? Liệu chúng ta đã thể hiện được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, lòng thương xót vô ngần của Ngài dành cho con người hay không, đặc biệt nơi những người kém may mắn trong giáo xứ của chúng ta?
Nói khác đi, sứ điệp Thiên Chúa (Cựu ước cũng như Tân ước) dành cho con người là sứ điệp của tình thương được thể hiện cách cụ thể qua những hành động bác ái thiết thực, tình yêu phải được “nhập thể” qua những hành động, lối cư xử của những thành viên trong đại gia đình Thiên Chúa đối với nhau và đối với tất cả mọi người.
2. Bác ái thuộc về bản chất của Giáo Hội
Trong tông huấn Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Thánh Cha Benedicto đã viết: “Với việc thiết lập nhóm bảy người này [bảy phó tế], công tác "diakonia" - việc phục vụ chung, có tổ chức, của tình yêu tha nhân - từ nay được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính Hội Thánh”. (DCE 21)
Trong phần dẫn nhập của tự sắc Intima Ecclesia Natura (Bản chất thâm sâu của Giáo Hội), ĐTC Benedicto diễn giải và khẳng định rõ ràng với chúng ta: “Bản chất thâm sâu của Hội Thánh được thể hiện trong trách nhiệm ba mặt là: rao giảng lời Chúa (kerygma-matyria), cử hành bí tích (leitourgia), và thực thi sứ mệnh bác ái (diakonia). Các trách nhiệm này bao hàm lẫn nhau và không thể tách rời”. Ngài nói tiếp: “Việc phục vụ bác ái còn là yếu tố cấu thành nên sứ mệnh của Hội Thánh và là cách biểu lộ thiết yếu sự hiện hữu của Hội Thánh”.
Sau đó, Đức Cha Michel Roy, Tổng thư ký của Caritas quốc tế, trong bài phát biểu chiều 17/10/2012, tại Thượng Hội Đồng về tân Phúc Âm hóa diễn ra tại Rôma đã lập lại tư tưởng của ĐTC Benedicto XVI: “Thực thi bác ái là một yếu tố cấu thành bản chất của Giáo Hội. Không thể có loan báo Tin Mừng mà không có bác ái. Đó là một trong những dấu chỉ cho tính khả tín của Giáo Hội”.
Như vậy, bác ái thuộc về bản chất của Giáo Hội. Vì thuộc về bản chất của Giáo Hội, như sứ mạng truyền giáo, không ai có thể chuẩn chước cho mình trách nhiệm phục vụ bác ái này: “Hội Thánh không được chuẩn chước cho mình khỏi việc thực hiện công tác bác ái […] không có hoàn cảnh nào, trong đó người ta không cần đến bác ái của từng người Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu” (DCE 29).
Nói khác đi, bác ái và truyền giáo luôn gắn chặt với nhau, không thể tách biệt. Khi thực hiện công việc bác ái chính là lúc chúng ta đang thực thi sứ vụ truyền giáo. Thánh giáo hoàng GP II mời gọi: “hãy lợi dụng rất nhiều cơ hội để làm việc bác ái, để loan truyền Phúc Âm, để thực hiện việc giáo dục Kitô giáo, thực hiện những nỗ lực về văn hoá Kitô giáo và thực hiện tình đoàn kết Kitô giáo với người nghèo khổ và những người bị kỳ thị, bỏ rơi và đàn áp. (Redemptoris Missio 69b)
II. Bác ái hướng đến sự sống và phẩm giá con người
1. Người nghèo – ưu tiên của Giáo Hội
Ngay từ đầu, ưu tiên của Giáo Hội chính là người nghèo. Bởi chưng, chính Thiên Chúa là Đấng đã chọn lựa người nghèo – anawim – trở nên dân riêng của Ngài. Không chỉ chọn lựa người nghèo làm dân riêng, Thiên Chúa còn trở nên người nghèo khi cho Con của Ngài trở nên một người nghèo trên mặt đất này (x. EG 197). Giáo Hội, thân mình của Chúa Ktô, không đi ngoài con đường chọn người nghèo là đối tượng phục vụ; và một khi chọn người nghèo, Giáo Hội cũng phải là Giáo Hội của người nghèo. ĐTC Phanxico nói: “Hội Thánh đã có một lựa chọn cho người nghèo được hiểu như một “hình thức đặc biệt ưu đãi trong việc thực thi bác ái Kitô giáo, mà toàn thể truyền thống của Hội Thánh làm chứng”. Đức Bênêđictô XVI dạy rằng sự chọn lựa này “tiềm ẩn trong đức tin vào một Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta, Đấng trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Người”. Đó là lý do tại sao tôi muốn có một Hội Thánh nghèo cho người nghèo” (EG 198).
Tuy nhiên, Giáo Hội cần chúng ta dấn thân trong các công cuộc bác ái không như là những công cuộc từ thiện, những cuộc ủy lạo, nhưng phải chú tâm, coi họ như một với mình. Chính thái độ này sẽ khai mào cho một cuộc gặp gỡ thú vị, thâm sâu hơn trong hành trình đức tin: “Việc dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ; […], nhưng trước hết một chú tâm đến những người khác, “coi họ như một với mình”. Chú tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm thực sự đối với con người của họ, và từ đó tôi muốn tìm kiếm sự tốt lành của họ một cách có hiệu quả. Điều này ngụ ý đánh giá cao những người nghèo trong sự tốt lành của họ, với con người thật của họ, với nền văn hóa của nó, với cách sống đức tin của họ. Tình yêu chân thật luôn luôn là chiêm niệm, cho phép chúng ta phục vụ lẫn nhau không vì nhu cầu của mình hoặc vì khoe khoang, nhưng vì người kia đẹp vượt trên và vượt ra ngoài những vẻ bề ngoài. “Từ tình yêu mà chúng ta thấy người khác dễ thương dẫn chúng ta đến việc tặng họ một điều gì đó một cách nhưng không”.[…] Chỉ từ sự gần gũi thực sự và thân thiện này mà chúng ta có thể đồng hành với họ cách đầy đủ […] sẽ làm cho “những người nghèo có thể cảm thấy thoải mái trong mọi cộng đồng Kitô hữu ‘như ở nhà’. Cách này không phải là cách trình bày hay nhất và có hiệu quả nhất về Tin Mừng của Nước Thiên Chúa sao?” Nếu không có sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, “việc công bố Tin Mừng, là việc bác ái đầu tiên, có nguy cơ bị hiểu lầm hoặc bị chìm trong đại dương của những ngôn từ mà xã hội thông tin đại chúng ngày nay phô bày cho chúng ta hàng ngày” (EG 199).
Lịch sử Giáo Hội hơn 2000 năm qua đã minh chứng cho chúng ta thấy việc chọn lựa người nghèo luôn là hướng đi, là con đường của Giáo Hội. Trên con đường dấn thân phục vụ người nghèo, Giáo Hội thể hiện dung mạo thánh thiện và nhân từ của Thiên Chúa.
Để nhắc nhở con cái mình không ngừng nghỉ dấn thân cho người nghèo, ĐTC Phanxico cảnh báo: “Không ai được nói rằng mình tránh xa những người nghèo vì những lựa chọn của đời sống buộc họ phải chú ý hơn đến các nhiệm vụ khác. […] không ai được nghĩ rằng mình được miễn trừ nhiệm vụ quan tâm đến người nghèo và công bằng xã hội: “Việc hoán cải tinh thần, cường độ của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, lòng nhiệt thành với công lý và hòa bình, ý nghĩa Tin Mừng của người nghèo và sự nghèo đói là điều đòi buộc tất cả mọi người” (EG 201).
2. Bác ái hướng đến con người toàn diện
Chúng ta nỗ lực chăm sóc người nghèo vì chúng ta ý thức được rằng con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Do là hình ảnh của Thiên Chúa, sự sống con người là thánh thiêng và phẩm giá con người thật cao cả vì như thánh Irênê đã nói“vinh quang của Thiên Chúa là con người sống”. Như thế, bác ái Kitô giáo hướng đến con người là để làm cho sự sống con người nên tròn hảo, sung mãn, xứng với phẩm giá của mình. Điều này được thể hiện rõ ràng, cụ thể nơi sự phục vụ những người bệnh tật, già yếu, neo đơn, những con người bị xã hội lãng quên hoặc loại bỏ, hay trong những phong trào bảo vệ sự sống (thai nhi, an tử,…
Intima Ecclesia Natura nhấn mạnh: “mọi tín hữu có quyền và nghĩa vụ hiến mình để sống theo giới răn mới mà Đức Kitô đã truyền lại cho chúng ta, và đem đến cho anh em đồng loại không những sự giúp đỡ vật chất mà cả sự chăm sóc và dưỡng nuôi linh hồn” (phần dẫn nhập). Như vậy, biên độ hoạt động bác ái của chúng ta thật rộng lớn, bao hàm tất cả những gì liên hệ đến con người.
Vì bao trùm mọi khía cạnh của đời sống con người, bác ái Công Giáo không giới hạn vào trong một nhóm hay một dân tộc nào đó, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là một sự dấn thân không mang đặc tính vụ lợi (không đòi hỏi hay lôi kéo người khác theo đạo) nhưng mang tính phổ quát và nhưng không. Giáo Hội mở rộng lòng và đôi tay để bao bọc, để ôm ấp lấy những mảng đời nghèo đói, bệnh tật, khó khăn…, nhưng không bận tâm về niềm tin, tín ngưỡng của những con người đó. Đây là một chương trình sống theo sát bước chân của Đấng Sáng Lập ngày xưa đã thực hiện: chữa lành đầy tớ của viên Đại đội trưởng (Lc 7:1-10), chữa lành đứa con gái của người phụ nữ Canaan (Mt 15:21-28), dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10:30-37), …
Điều cấp thiết nhất trong việc phục vụ bác ái của chúng ta ngày hôm nay là sự chăm sóc tinh thần cho người nghèo, quyền lợi và tôn giáo của họ. Đây là nhận định của ĐTC Phanxico trong EG (niềm vui TM) số 200: “tôi đau lòng mà nói rằng việc kỳ thị tồi tệ nhất mà những người nghèo đang phải chịu là thiếu sự chăm sóc tinh thần. Đại đa số người nghèo có một lòng cởi mở đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa, và chúng ta không thể không cung cấp cho họ tình bằng hữu của Ngài, phúc lành của Ngài, Lời của Ngài, việc cử hành các Bí Tích và đề nghị một con đường tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin. Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo cần phải được phản ảnh chủ yếu trong việc quan tâm đến đặc quyền và ưu tiên về tôn giáo của họ”.
Để có thể làm tốt việc quan tâm đến người nghèo, ĐTC Phanxico mời gọi chúng ta thực hiện sự “đồng hành”, bởi “việc đồng hành tinh thần đích thực luôn luôn bắt đầu và tiến triển trong lãnh vực phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng” (EG 173).
- Trong thế giới này, các thừa tác viên có chức thánh và những người làm mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu và cái nhìn cá nhân của Người hiện diện. Hội Thánh sẽ phải hội nhập các thành viên của mình – các linh mục, tu sĩ và giáo dân – vào “nghệ thuật đồng hành”. (EG 169)
- Chúng ta cần phải thực hành nghệ thuật lắng nghe, mà lắng nghe khác với nghe. Trong việc giao tiếp với người khác, điều đầu tiên là khả năng của con tim có thể tạo ra sự gần gũi, mà nếu không có nó thì không có cuộc gặp gỡ tinh thần thực sự. Việc lắng nghe giúp chúng ta tìm được những cử chỉ và lời nói thích hợp để kích hoạt tình trạng im lìm của khán giả. Chỉ qua việc lắng nghe cách tôn trọng này và khả năng thông cảm, chúng ta mời có thể tìm thấy những con đường tăng trưởng thật, chúng ta mới có thể đánh thức những ao ước về lý tưởng Kitô giáo, sự nóng lòng đáp trả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và ao ước phát triển cách tốt nhất những gì mà Thiên Chúa đã gieo trong cuộc đời họ. (EG 171)
- Những người bạn đồng hành phải ý thức rằng tình trạng của mỗi người trước mặt Thiên Chúa và đời sống ân sủng của họ là một mầu nhiệm mà không ai có thể hoàn toàn biết được từ bên ngoài. Tin Mừng đề nghị chúng ta sửa chữa và giúp họ tăng trưởng dựa vào việc nhận ra những sự dữ khách quan của những hành động của họ, mà không phán đoán về trách nhiệm và tội trạng của họ. (EG 172)
Ta có thể tóm lại khía cạnh bác ái Công Giáo hướng đến sự thăng tiến toàn diện con người qua bản tính thâm sâu của Hội Thánh, “hoạt động thực tiễn sẽ chẳng đem lại hiệu quả gì nếu nó không tỏ lộ tình yêu đối với con người, một tình yêu được nuôi dưỡng nhờ gặp gỡ Đức Kitô”. Vì thế, khi thực thi hoạt động bác ái, không nên tự giới hạn mình vào việc quyên góp và phân phát tài chính, nhưng cần phải thể hiện được mối quan tâm đặc biết đến những cá nhân đang thực sự cần giúp đỡ, và thực thi chức năng giáo dục rất cao quí trong cộng đồng Kitô hữu; giúp mọi người nhận biết tầm quan trọng của sự chia sẻ, tôn trọng và yêu thương trong tinh thần Tin Mừng của Đức Kitô. Hoạt động bác ái của Hội Thánh trên mọi bình diện cần phải tránh nguy cơ trở thành một loại hình hoạt động xã hội đơn thuần.
III. Giáo xứ cử hành phục vụ bác ái
Thuộc về bản chất của Giáo Hội, việc phục vụ bác ái là điều chắc chắn phải nằm trong mọi chương trình, kế hoạch mục vụ của giáo xứ. EG 28 viết: “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, một môi trường để lắng nghe Lời Chúa, để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành”. Như thế, việc cử hành phục vụ bác ái luôn phải đi liền với các việc cử hành phụng vụ, rao giảng và đối thoại với mọi người thuộc về nơi đó.
ĐTC Benedicto đã lưu ý chúng ta khi cử hành phục vụ bác ái như sau: “Hành động thực tiễn sẽ luôn là không đủ, trừ phi nó diễn tả một cách trông thấy được tình yêu dành cho một người, tình yêu được nuôi dưỡng bằng một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô” (DCE 34). Như vậy, việc bác ái phải được luôn hành động trong tâm tình của sự kết hợp mật thiết với Đức Kitô, hay nói theo ngôn ngữ của các nhà tu đức là “chiêm niệm trong hành động”.
1. Cầu nguyện
Cầu nguyện là hơi thở của đời sống Kitô hữu. Không cầu nguyện, không có những cuộc trao đổi, thưa chuyện với Thiên Chúa, tất cả những gì chúng ta làm đều phản ánh cái tôi của bản thân, cái tôi của nhân loại. Một khi không được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, chúng ta sẽ bị đuối sức, sẽ bị ngộp thở vì rơi vào trong những hoạt động bác ái chúng ta đề ra. Chính trong sự cầu nguyện, chúng ta “nhận ra rằng tất cả mọi người đều đáng cho chúng ta hiến thân. Không phải vì vẻ bề ngoài của họ, khả năng của họ, ngôn ngữ của họ, não trạng của họ hoặc sự thỏa mãn mà chúng ta có thể cung cấp, nhưng vì họ là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là tạo vật của Ngài. Ngài đã tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài, và họ phản ánh một phần nào đó vinh quang của Ngài. Mỗi con người là đối tượng của sự ân cần vô cùng của Chúa, và chính Người ngự trong cuộc sống của họ. Đức Chúa Giêsu Kitô đã ban bửu huyết của Người trên Thánh Giá cho người ấy. Vượt ra ngoài bất kỳ vẻ bề ngoài nào, mỗi người đều vô cùng thánh thiêng và xứng đáng với tình yêu của chúng ta và sự tận tụy của chúng ta (EG 274).
ĐTC Benedicto dạy: “Đây là lúc tái xác định sự quan trọng của việc cầu nguyện đối mặt với chủ thuyết duy hoạt động và chủ thuyết tục hoá đang hăm dọa nhiều Kitô hữu tham gia vào công tác bác ái. Người Kitô hữu cầu nguyện không có ý định thay đổi chương trình của Thiên Chúa, hay hoàn thiện điều Thiên Chúa quan phòng. Đúng hơn, họ tìm cách gặp gỡ Cha của Đức Gíêsu Kitô và khẩn cầu, để Người hiện diện trong họ với sự an ủi của Chúa Thánh Thần và trong công tác của họ. Việc phó thác vào Thiên Chúa và sự tùng phục ý muốn của Người ngăn chăn sự hạ giá con người và gìn giữ họ khỏi ảnh hưởng của những lý thuyết cuồng tín và khủng bố. Thái độ tôn giáo đúng đắn tránh cho con người khỏi trở thành quan tòa của Thiên Chúa và tố cáo Người đã để cho sự khốn cùng tồn tại, không động lòng thương xót với các thụ tạo của Người” (DCE 37).
Trong thông điệp Redemptoris Missio, thánh giáo hoàng GP II cũng nhắc nhớ chúng ta khi thực thi sứ vụ truyền giáo: “Nhà truyền giáo bị thôi thúc bởi "lòng nhiệt thành đối với các linh hồn", một lòng nhiệt thành do đức ái của Chúa Kitô thúc đẩy, dưới hình thức quan tâm, dịu dàng, thương cảm, cởi mở, sẵn sàng và chú trọng tới các vấn đề của con người. Tình yêu của Chúa Kitô rất sâu xa: Ngài là Ðấng "biết những gì nơi con người" (Jn 2:25), đã yêu thương mọi người bằng việc hiến cho họ ơn cứu chuộc và chịu đựng khổ đau khi bị ruồng bỏ. Nhà truyền giáo là một con người của đức ái. Ðể loan truyền cho tất cả mọi anh chị em của mình là những người anh chị em ấy được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương, nhà truyền giáo phải chứng tỏ tình yêu đối với tất cả mọi người, bằng việc hiến cuộc sống mình cho tha nhân. Nhà truyền giáo là "anh chị em của hết mọi người", khi mang nơi bản thân mình tinh thần của Giáo Hội, tấm lòng cởi mở và nỗi quan tâm của Giáo Hội đối với tất cả mọi dân tộc và mọi người, nhất là đối với những anh chị em thấp kém và nghèo hèn nhất (số 89).
Như thế, chính trong sự cầu nguyện để cử hành việc phục vụ bác ái, chúng ta khám phá ra rằng, bản thân mình đang được Lời Chúa soi sáng, đang được Thánh Thần thánh hóa, hay nói khác đi, chúng ta đang được Phúc Âm hóa. Với việc bản thân được Phúc Âm hóa, chúng ta sẵn sàng và can đảm dấn thân cho tất cả mọi dân mọi nước, tất cả những ai mà TC sai chúng ta đến và gửi đến cho chúng ta.
2. Những việc làm cụ thể
Có thể nói các giáo xứ đều có những hoạt động bác ái. Rất nhiều các nhóm, đoàn thể đã có những sáng kiến để tạo nên những sắc màu thật đẹp của bác ái Công giáo. Thế nên, trong phần chia sẻ những việc làm cụ thể này, chúng ta không đề cập hay bàn đến những việc gì, hay tổ chức ra sao. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến những khía cạnh cụ thể, những điều giáo xứ – cách riêng là linh mục chúng ta – cần phải quan tâm khi thực thi sứ mạng phục vụ bác ái.
Trước hết, phục vụ bác ái phải là hành động của giáo xứ.
Nói việc phục vụ bác ái phải là hành động của giáo xứ để nhắc nhớ chúng ta rằng tất cả những việc bác ái trong giáo xứ phải được thi hành trong sự hiệp thông, nhân danh Giáo Hội nói chung, và giáo xứ nói riêng. Chúng ta phải nhớ: mỗi người chúng ta lãnh nhận bất cứ một sứ vụ nào là chúng ta thực hiện nhân danh Giáo Hội – giáo xứ, chúng ta không làm vì chính bản thân mình. Đây là cảm thức thuộc về cần phải có nơi mỗi người chúng tra trong sự hiệp thông và thuộc về Giáo Hội – giáo xứ.
Đây là lời mời gọi cho mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi nhóm trong khi phục vụ bác ái, chúng ta phải vượt qua chủ nghĩa cá nhân (không chỉ bản thân, nhưng còn là nhóm, hội của tôi) để hướng đến chiều kích rộng lớn hơn là giáo xứ: tất cả những gì tôi/nhóm tôi làm là nhân danh giáo xứ, thực hiện thay mặt giáo xứ. Bên cạnh đó, các đoàn thể, các nhóm trong giáo xứ được mời gọi cộng tác với nhau để cùng thực thi việc phục vụ bác ái. Chắc chắn, một lối sống hiệp thông, một cảm thức thuộc về nơi mỗi người hay mỗi nhóm hoặc đoàn thể sẽ chứng từ hữu hiệu về đức tin Công Giáo trước mặt các anh chị em không cùng tôn giáo.
Kế đến, việc phục vụ bác ái của giáo xứ phải hướng đến con người toàn diện. Điều này có nghĩa việc hỗ trợ, giúp đỡ của chúng ta không chỉ là những hành động cấp thời nhưng còn phải hướng đến việc trả lại đúng phẩm giá của các anh chị em mà chúng ta đang phục vụ. Chúng ta nhìn thấy gì nơi các bữa cơm huynh đệ, những nồi cháo tình thương, nơi trú ngụ qua đêm, các nhà mở, nhóm phò sự sống, chôn cất thai nhi … của các tổ chức, nhóm, giáo xứ Công Giáo chúng ta? Chúng không là những giải pháp tạm thời nhưng cho thấy giá trị của tình yêu, sự trân trọng.
- Một bữa cơm rất tầm thường nhưng có bàn, có ghế, có người giúp đỡ, phục vụ cho những con người tàn tật, yếu đau … cho thấy sự tôn trọng phẩm giá của các anh chị em nghèo khổ đó.
- Những ngôi nhà mở được lập nên để ôm ấp, bảo bọc những người cô thế cô thân, những chị em có thai ngoài ý muốn; hay một số anh chị em dấn thân trong việc tiếp nhận các thai nhi – những nạn nhân của hành động phá thai – để chôn cất … vang vọng lên một lời mời gọi con người phải biết tôn trọng sự sống, biết sống giá trị yêu thương, trao ban và trách nhiệm.
- Những buổi thăm hỏi, gặp gỡ, tặng quà thể hiện một sự quan tâm, cảm thông, nâng đỡ, chia sẻ dẫu cho những phần quà có nhỏ bé, những lần gặp gỡ có mau chóng.
Tiếp đến, việc phục vụ bác ái phải được thể hiện hay đúng hơn là phải được chuẩn bị kỹ lưỡng từ bản thân những ai thực hiện việc phục vụ bác ái. Việc chuẩn bị này không đơn thuần là chuẩn bị kỹ năng, tiền bạc, vật chất … nhưng việc chuẩn bị đó chính là dự thế, thái độ đối với người nghèo của Thiên Chúa. Dự thế đó được tỏ lộ ra qua 3 chiều kích trong khi thực thi việc bác ái: nghĩ hay – nói tốt – làm lành (hay, tốt, lành = tích cực).
Hay trong ý nghĩ. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy ý nghĩ tác động mạnh mẽ đến tâm lý và hành động. Một suy nghĩ tiêu cực trước hết làm cho bản thân chúng ta mất bình an, làm ô nhiễm đầu óc và dễ dẫn đến hành động không hay. Ngược lại, một ý nghĩ tích cực sẽ là một sự khích lệ cho bản thân để quảng đại dấn thân phục vụ; là một lời mời gọi chúng ta tử tế, tin tưởng và yêu mến người khác hơn. Chính vì thế, trong khi làm việc bác ái, chúng ta đừng để cho sự nghi ngờ hay tiêu cực chi phối chúng ta. Nếu thực thi sứ mạng bác ái trong tâm trạng nghi ngờ, tiêu cực, chúng ta đánh mất đi giá trị của một tình yêu nhưng không được khởi nguồn từ Thiên Chúa. (chúng ta còn chưa tính đến hiệu năng của việc bác ái vì thái độ nghi kỵ phần nào sẽ được thể hiện qua thái độ và hành động của chúng ta mà người nghèo, những con người rất nhạy cảm, sẽ dễ dàng nhận ra).
Tốt trong lời nói. Những lời nói hoa mỹ, hình thức sẽ là những điều phản tác dụng trong những buổi gặp gỡ, những lần thăm hỏi hay giúp đỡ người nghèo của Thiên Chúa. Tốt trong lời nói chính là cách thể hiện sự cảm thông, trân trọng thực sự của chúng ta đối với những anh chị em đó nơi ngôn ngữ, câu từ của chúng ta. Những câu nói chân thành xuất phát từ tâm hồn ý nhị, yêu thương, tôn trọng sẽ làm cho người khác dễ đón nhận sự giúp đỡ và dễ dàng mở lòng để chia sẻ, gặp gỡ … sẽ góp phần tạo nên một mối liên hệ bằng hữu tốt đẹp, khởi sự cho một sự gặp gỡ trong đức tin.
Lành trong việc làm. Tất cả mọi hành động trong sự phục vụ bác ái phải cho thấy hành động đó là một hành động ngay lành; không mang tính chất vụ lợi, so đo, điều kiện hay phân biệt. Mọi hành động phải toát lên sự phục vụ trong hân hoan, trong tình yêu nhưng không.
Để kết luận, chúng ta đọc lại thư của HĐGM VN gửi Dân Chúa: “xác tín rằng việc Phúc-Âm-hóa giáo xứ phải được bắt đầu từ chính hàng linh mục.” (Thư Mục vụ, số 6-7) và nhắc nhở các linh mục “phải không ngừng canh tân đời sống bản thân cũng như cung cách thi hành tác vụ linh mục”, bằng cách coi lời nhắn nhủ của ĐTC Phan-xi-cô như kim chỉ nam cho tác vụ linh mục (“phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong giáo xứ của mình, theo lý tưởng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Để thực hiện điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hy vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ. Khi khác nữa, ngài sẽ phải đi theo họ, giúp đỡ những ai bị bỏ lại ở đằng sau, và trên hết, để cho đoàn chiên tự mình mở ra những lối đi mới” – (Niềm Vui Tin Mừng, số 31).
Ghi chú:
DCE: Deus Caritas est
EG: Evangelii Gaudium
Bài 6: NHỮNG BIÊN CƯƠNG MỚI CỦA GIÁO XỨ
Tin mừng (Mc 9:35-37.41): Ðức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy. Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Ðấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
I. Bài học từ Tin Mừng
Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tôi muốn đề cập đến 3 bài học mà Đức Giêsu nói với các môn đệ, cũng là đang nói với chúng ta:
- Giáo huấn về sự khiêm hạ trong phục vụ
- Hành động ôm lấy đứa trẻ, đặt vào giữa các ông, Đức Giêsu muốn chúng ta ôm lấy người nghèo, đặt người nghèo vào trọng tâm sự phục vụ
- Bác ái với nhau vì lẽ mọi người thuộc về Đức Kitô
1. Giáo huấn về sự khiêm hạ trong phục vụ
Bài học đầu tiên này, hơn ai hết, đang nhắm đến chúng ta, các linh mục. Chúng ta trong vai trò là mục tử, người đứng đầu, Đức Giêsu đang mời gọi chúng ta hãy trở nên những người rốt hết, những người đầy tớ luôn sẵn sàng quỳ xuống để phục vụ chủ nhân của mình; đừng trở nên những người chỉ ham hố danh lợi, địa vị, trở nên những ông quan, ông tướng hay ông vua trong lãnh địa là giáo xứ của mình: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người."
2. Người nghèo – trung tâm của sự phục vụ
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đặt đứa trẻ vào giữa các môn đệ rồi ôm lấy nó, Người khẳng định với chúng ta người nghèo của Thiên Chúa (đứa trẻ) phải nằm ở trung tâm sự phục vụ của chúng ta. Chúng ta cũng hãy theo gương Đức Giêsu ôm lấy đứa trẻ, nghĩa là hãy ôm lấy người nghèo không chỉ trên phương diện bao bọc, nâng đỡ nhưng còn phải là một tình yêu chân thành, cảm thông, mang lấy vào chính mình cái nghèo, cái mùi thiếu thốn tân toan của người nghèo.
Bài học thứ hai này được dành cho tất cả mọi thành viên trong giáo xứ trong việc thực thi sự phục vụ bác ái. Trong sự phục vụ bác ái đó, người nghèo phải là trung tâm.
3. Bác ái với nhau vì đều thuộc về Đức Kitô
Bài học thứ ba nhắc nhở chúng ta ý thức rằng con người thuộc về ĐK. Tất cả chúng ta thuộc về cùng một thân thể. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa. Cho nên, một chén nước lã dành cho người nghèo chính là chén nước đã được dâng lên cho TC.
Từ ba bài học trong đoạn tin mừng, chúng ta áp dụng vào trong sứ mạng phục vụ Hội Thánh nơi giáo xứ của chúng ta khi nhìn đến viễn cảnh những biên cương mới trong đời sống giáo xứ qua hai điểm:
- Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ
- Biên cương mới
II. Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ - đức ái tông đồ
1. Cảm thức thuộc về
Phạm Tấn Xuân Cao, trong tác phẩm Cảm thức Tha ngã luận [kỳ I] đã định nghĩa cảm thức như sau: “Cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình mang tính tác động chung cuộc trong việc hướng định đến tổng phần nội tại của chủ thể. Diễn trình đó, ở đây, chính là sự tương quan giữa cảm giác và tri giác, chúng cùng hòa quyện vào nhau và liên thông với nhau. Khi nhận thức, bản thân chủ thể luôn là trung tâm của những gì được tác động đến. Yếu tố đầu tiên chi phối quá trình nhận thức không gì khác đi ngoài cảm thức, nói cảm thức, ở đây, là muốn nhấn mạnh đến cả cảm giác lẫn tri giác, đồng thời, không loại trừ ra khỏi mối quan hệ trong quá trình tác động qua lại giữa cảm giác và tri giác. Rõ ràng rằng, việc chú ý đến tính tương quan giữa tác động qua lại giữa cảm giác và tri giác là một sự chú ý rất cần thiết, bởi lẽ, chỉ khi nhìn nhận về mối tương quan đó thì xem xét đến cảm thức, ta sẽ thấy được mức độ quan trọng của cảm thức là như thế nào.
Và chính sự tương quan ấy mà trong một mức độ tối thiểu sẽ cho chúng ta hiểu rằng, nó không gì khác chính là một diễn trình, do đó, cảm thức là cái chứa đựng một diễn trình. Những gì tác động đến từ thế giới bên ngoài sẽ phải được thực hiện thông qua cảm thức. Như vậy, chính cảm thức là một sự tác động - một sự tác động trung gian - và giả sử, nếu như sự tác động này không tồn tại thì sẽ dễ dàng thấy rõ về một hệ quả rằng, chủ thể không có được tri thức. Nhưng sự tác động của cảm thức không chỉ có thế, mà cảm thức, vai trò quan trọng của nó, hơn hết, được nói đến ở đây, chính là bản chất của sự tác động mà nó đảm nhận. Sự tác động đó không thể được coi là một sự tác động đơn thuần, như chính sự tác động từ thế giới bên ngoài về phía chủ thể, mà sự tác động của cảm thức mang bản chất là một sự tác động chung cuộc, tất nhiên, chính sự tác động đó bao hàm một diễn trình như đã nói. Một sự tác động bao quát”.
Chúng ta có thể tóm lại như sau: cảm thức là một quá trình nhận thức bao gồm cả cảm giác và tri giác. Sự nhận thức này tác động đến hướng đi/hành động của chủ thể.
Như vậy, cảm thức thuộc về muốn nhấn mạnh đến việc mỗi người nhận thức rằng mình thuộc về một nhóm, một cộng đoàn, một tập thể (đối với điều chúng ta đang bàn tới là thuộc về Giáo Hội-giáo xứ) không chỉ bằng tri thức nhưng bao hàm cả cảm giác lẫn tri giác (bản thân cảm nhận và nhận thấy được), từ đó, tất cả mọi hành động, thái độ, suy nghĩ của chúng ta đều thực hiện trong sự ý thức mình thuộc về và vì ích lợi nhóm, cộng đoàn hay giáo xứ.
Tuy nhiên, khi bàn về cảm thức thuộc về ở đây, chúng ta cũng phải lưu ý đến 2 phương diện: thứ nhất, chúng ta – các cá nhân trong giáo xứ nói chung và linh mục nói riêng – phải ý thức mình thuộc về giáo xứ; thứ hai, chúng ta cũng phải ý thức tất cả mọi người chung quanh đều thuộc về gia đình của Chúa, gia đình giáo xứ, do đó, chúng ta không được phép loại trừ hay không tính đến, hoặc lãng quên.
2. Cảm thức thuộc về làm phát sinh những sáng kiến tông đồ
Thánh Augustino nói “yêu rồi làm”. Điều này muốn nhắc chúng ta rằng một khi đã yêu ai, chúng ta thấy chúng ta cần phải làm cho người mình yêu được vui, được hạnh phúc. Vì thế, tình yêu sẽ làm cho chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người mình yêu. Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta có những ý tưởng, những kế hoạch, những sáng kiến độc đáo, hữu hiệu để làm cho người mình yêu được tăng trưởng.
Nói khác đi, khi cảm thức thuộc về giáo xứ luôn chi phối và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, chúng ta sẽ sẵn sàng xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo, đau khổ đang hiện diện trong giáo xứ. Khi biết mình thuộc về cộng đoàn, giáo xứ, chúng ta sẽ biết cách làm cho những ai chưa biết Chúa trong giáo xứ trở nên người nhà trong gia đình giáo xứ, những người chống đối trở nên những người bạn, những người anh em.
ĐTC Phanxico dạy chúng ta như sau: “Tình yêu đối với người khác là một sức mạnh tinh thần thúc đẩy cuộc gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn đến mức bất cứ ai không yêu anh em mình là “đi trong bóng tối”, là “ở lại trong sự chết” và “không biết Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt mình trước những người lân cận của chúng ta cũng làm cho chúng ta mù trước mặt Thiên Chúa” và rằng tình yêu cuối cùng là ánh sáng duy nhất “luôn luôn có thể soi sáng một thế giới đang tối tăm và ban cho chúng ta can đảm để sống và hành động”. Vì vậy, khi chúng ta sống tiếp cận thần bí với tha nhân nhằm mục đích tìm kiếm sự tốt lành cho họ, chúng ta mở rộng nội tâm của mình để nhận những hồng ân tốt đẹp nhất của Chúa. Mỗi lần chúng ta gặp gỡ một con người trong tình yêu, chúng ta đặt mình vào một điều kiện thuận lợi để khám phá một điều gì mới mẻ về Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta mở mắt để nhận ra những người khác, thì đức tin của chúng ta được sáng suốt hơn để nhận ra Thiên Chúa. Vì thế, nếu chúng ta muốn lớn lên trong đời sống tinh thần, chúng ta không thể ngưng là những nhà truyền giáo. Dấn thân truyền giáo phong phú hóa tâm trí và tâm hồn, mở ra cho chúng ta những chân trời tâm linh, giúp chúng ta nhạy cảm hơn để nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần, đưa chúng ta ra khỏi những mô thức tâm linh hạn hẹp của mình. Đồng thời, một nhà truyền giáo hoàn toàn dấn thân vào việc truyền giáo cảm nghiệm được niềm vui của việc trở thành một nguồn, tràn đầy và làm tươi mát những người khác. Chúng ta chỉ có thể là một nhà truyền giáo khi cảm thấy tốt trong việc tìm kiếm những điều tốt đẹp cho người khác và muốn hạnh phúc cho người khác. Việc mở rộng tâm hồn là nguồn gốc của hạnh phúc, bởi vì “cho đi thì có phúc hơn nhận được”. Không ai có thể sống tốt hơn bằng cách chạy trốn những người khác, ẩn nấp, từ chối chia sẻ, không chịu cho đi và nhốt mình trong sự thoải mái. Điều này chẳng khác gì một việc tự vận từ từ (EG 272).
Hóa ra, trong khi chúng ta dấn thân phục vụ anh chị em mình, chúng ta gặp được Thiên Chúa, chúng ta khám phá ra Thánh Thần đang ngự nơi chúng ta với những sáng kiến tông đồ hầu mang lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác.
Rồi ngài mời gọi chúng ta canh tân lại cảm thức thuộc về khi viết rằng: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49)
III. Biên cương mới
1. Biên cương mới là một cơ hội hay một thách đố
Khi nói biên cương mới, chúng ta đã mặc nhiên muốn nói rằng phải thay đổi. Thay đổi đó có thể là thay đổi cái nhìn, thay đổi não trạng, thay đổi hành động, thay đổi phương pháp, … Tuy nhiên, sự thay đổi có thể được xem như những rào cản, những thách đố hay cũng có thể là những cơ hội cho Giáo Hội – giáo xứ. Sự thay đổi có thể gây ra những tiêu cực nhưng cũng có thể là sự thúc đẩy những tiềm năng, năng lực của các thành viên trong giáo xứ.
Ở đây, nếu xét trên phương diện mục vụ giáo xứ, ta thấy, thay đổi vừa là cơ hội, vừa là một thách đố. Là cơ hội, vì thay đổi sẽ làm cho giáo xứ (bao gồm cả linh mục và giáo dân) thăng tiến. Là thách đố, vì nó đòi hỏi giáo xứ phải biết cần thay đổi cái gì, thay đổi như thế nào và thực hiện ra sao?
Tuy nhiên, các yếu tố con người với thói quen, thái độ và hành vi cũng như mong muốn duy trì những gì đã quen thuộc, thoải mái và yêu quí sẽ là những ngáng trở cho việc nhìn ra những biên cương mới. Đồng thời, các cơ chế, cơ cấu hay những cách thế hoạt động mục vụ không còn phù hợp cũng góp phần không nhỏ để khám phá ra những biên cương mới trong mục vụ.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng biên cương mới là một cơ hội và thách đố cho mỗi người chúng ta. Những biên cương mới đó là một mạo hiểm, một mạo hiểm can đảm theo gương Thầy Chí Thánh đến muôn nơi dẫu cho gặp khó khăn hay thập giá. Chúng ta tin tưởng rằng, sau những khó khăn hay thập giá, biên cương mới đó sẽ nở hoa, sẽ có một mùa bội thu.
2. Chuyển sang thế chủ động
Ở đây, thật hữu ích khi một lần nữa, chúng ta có thể lập lại lời mời gọi của ĐTC Phanxico: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi ám ảnh và thủ tục.” (EG 49)
Lời mời gọi này giới thiệu cho chúng ta một phương pháp mới trong hoạt động mục vụ. Chúng ta hãy chuyển từ thế thụ động sang thế chủ động, một thế chủ động dầu phải mạo hiểm: nếu như các hoạt động mục vụ của chúng ta đang chỉ nằm trong giới hạn an toàn là nhà thờ, cử hành các bí tích, giờ đây chúng ta hãy can đảm mạo hiểm ra khỏi bốn bức tường của nhà thờ để đến với muôn dân, đến với những người nghèo của Thiên Chúa thay vì chờ họ đến với mình; chấp nhận bị bầm dập, bị thương tích, bị dơ bẩn, bị mất giờ, mệt mỏi, vất vả, không có giờ dành riêng cho bản thân, cho những chương trình nghỉ ngơi, giải trí.
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II nhắc các linh mục chúng ta như sau: “Là cộng sự viên của Giám Mục, các linh mục, bởi Bí Tích Truyền Chức Thánh, được kêu gọi để thông phần vào mối quan tâm về sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội […]. Bởi lý do này, [..] họ phải có "một tinh thần Công Giáo thực sự, nhờ đó, họ sẽ biết vượt các giới hạn thuộc giáo phận của họ, xứ sở hay nghi thức, và cộng tác giúp đỡ toàn thể Giáo Hội, sửa soạn cho việc rao giảng Phúc Âm khắp mọi nơi". Tất cả mọi linh mục phải có trí khôn và tâm hồn của các nhà truyền giáo -mở lòng ra trước các nhu cầu của Giáo Hội cũng như của thế giới, chú ý đến những người xa xôi nhất, nhất là với các nhóm người ngoài Kitô Giáo trong miền của mình. Họ phải mang trong lòng mình, trong lời cầu nguyện, nhất là ở Hy Tế Thánh Thể, mối quan tâm của toàn thể Giáo Hội đối với tất cả nhân loại. (Sứ vụ đấng cứu chuộc 67)
Hoặc “Việc chăm sóc mục vụ đòi hỏi phải từ bỏ tiêu chuẩn mục vụ tiện lợi: “Chúng tôi đã luôn luôn làm như thế này” nhưng phải táo bạo và sáng tạo bằng cách xét lại các mục tiêu, cấu trúc, phong cách và phương pháp. (x. EG 33)
Như thế, chủ động là điều cần thiết và chính đáng trong hoạt động mục vụ của chúng ta. Đặc biệt, thế chủ động mà Giáo Hội đang quan tâm ngày nay chính là chúng ta nhìn ra những biên cương mới và áp dụng phương pháp phù hợp trong mục vụ những biên cương mới đó.
3. Biên cương mới nơi giáo xứ
Những biên cương mới mà chúng ta đang quan tâm, theo tôi, chúng không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến.
Trong giới hạn nơi các biên cương mới của giáo xứ, chúng ta cùng chia sẻ một vài biên cương mới có lẽ thiết thực với linh mục chúng ta, vì chúng ta là người đứng đầu, người lãnh đạo, tổ chức và thực hiện kế hoạch mục vụ những biên cương mới đó.
Trước hết, biên cương chúng ta cần quan tâm đầu tiên chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ. Đây là não trạng làm việc chung, hiệp thông huynh đệ. Nhiều giáo xứ có lẽ đã làm được điều này, đó chính là một sự chúc lành của Thiên Chúa và khích lệ mỗi người, mỗi giáo xứ chúng ta. Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó có những linh mục trong việc mục vụ giáo xứ “chưa” sử dụng đến sự cộng tác của anh chị em giáo dân (bất cộng tác từ hai phía – Linh mục, giáo dân; hay Linh mục độc đoán, …).
Chúng ta cần nhớ rằng trong bối cảnh hiện nay với nhiều sắc thái khác nhau của cuộc sống, để thực hiện công việc mục vụ cho người nghèo của Thiên Chúa, một mình linh mục không thể làm được. Các linh mục phải cần đến anh chị em giáo dân, cần đến sự cộng tác, hỗ trợ, đôi bàn tay, đôi chân, đôi mắt và con tim của giáo dân. Làm sao linh mục chúng ta có thể biết hết và phục vụ hữu hiệu những người nghèo của Thiên Chúa trong giáo xứ nếu không có sự cộng tác của giáo dân? Hơn nữa, thời đại hiện nay, người nghèo của TC cũng muôn màu muôn dạng, sự cộng tác giữa mọi thành phần trong giáo xứ (Linh mục-giáo dân) càng quan trọng và khấp thiết hơn.
Biên cương thứ hai là mục vụ hôn nhân-gia đình. Giáo Hội nhắc nhở: “mỗi Hội Thánh địa phương và nói rõ hơn, mỗi cộng đồng giáo xứ, phải ý thức mạnh mẽ về ân sủng và trách nhiệm đã nhận được từ Chúa để cổ võ mục vụ gia đình. Mọi chương trình mục vụ được tổ chức, ở mọi cấp độ, không bao giờ được lướt bỏ mục vụ gia đình” (FC 70).
Tuy nhiên, biên cương này, trong quá khứ cũng như hiện nay, nhiều lúc chúng ta đã xem nhẹ. Chúng ta vẫn thường quan tâm mục vụ hôn nhân – gia đình dưới những góc độ: bảo đảm quyền được tổ chức hôn lễ theo nghi thức tôn giáo của các đương sự, đúng theo thể thức của Giáo Hội; dạy giáo lý hôn nhân và giúp đỡ họ thêm về đời sống đức tin trong thời kỳ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân; lo liệu phải lãnh nhận đầy đủ các bí tích khai tâm Kitô giáo trước khi cử hành bí tích hôn nhân; điều tra hôn nhân; cử hành thánh lễ/nghi thức hôn nhân.… và chấm hết.
Trong khi đó, giáo huấn của Giáo Hội khi bàn về mục vụ hôn nhân gia đình còn rộng hơn, không đơn thuần chỉ là mục vụ tiền hôn nhân, nhưng còn cả mục vụ sau khi kết hôn:
“ mọi thành phần cộng đồng Hội Thánh địa phương dấn thân giúp đỡ đôi bạn khám phá và sống ơn gọi cũng như sứ mạng mới của mình. Để gia đình ngày càng trở nên một cộng đồng yêu thương đích thực, phải làm cho mọi phần tử đều được giúp đỡ và được đào tạo, để chu toàn trách nhiệm của mình trước những vấn đề mới, để phục vụ lẫn nhau cũng như để dự phần vào đời sống gia đình.
Điều ấy càng đúng với các gia đình trẻ trong bối cảnh những giá trị và trách nhiệm mới, đặc biệt trong những năm đầu của hôn nhân, với nhiều khó khăn bất ngờ chẳng hạn phải thích nghi với cuộc sống chung hay khi sinh sản con cái. Các vợ chồng trẻ nên biết đón nhận cách chân tình và tận dụng một cách thông minh sự giúp đỡ kín đáo, tế nhị và quảng đại của những cặp vợ chồng khác đã trải qua một thời gian kinh nghiệm hôn nhân và gia đình. […] Được sinh động bởi một tinh thần tông đồ đích thực, mối tương trợ giữa các gia đình chính là một trong những phương thế giản dị nhất, hữu hiệu nhất và vừa tầm với mọi người để làm thấm nhập, lan truyền các giá trị Kitô giáo, là điểm khởi hành và cũng là đích điểm của mọi công tác mục vụ. Bằng cách ấy, các gia đình trẻ không tự giới hạn vào việc lãnh nhận, nhưng đến lượt họ, nhờ được giúp đỡ, họ lại trở nên nguồn mạch làm phong phú các gia đình thành lập trước họ, qua chứng từ đời sống và sự đóng góp tích cực.
Trong việc mục vụ với các gia đình trẻ, Hội Thánh phải quan tâm giáo dục cho họ biết sống tình yêu vợ chồng cách hữu trách, trong tương quan với các đòi hỏi về hiệp thông và phục vụ sự sống, cũng như dạy cho họ biết hoà hợp tình thân mật của tổ ấm gia đình với trách nhiệm quảng đại chung của mọi người trong việc xây dựng Hội Thánh và xã hội nhân loại. Khi có con cái, đôi bạn trở thành một gia đình theo nghĩa tròn đầy và chuyên biệt, lúc đó Hội Thánh vẫn còn phải gần gũi hai cha mẹ để giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như ân huệ sự sống được lãnh nhận từ Thiên Chúa, vui vẻ chấp nhận vất vả để phục vụ cho chúng lớn lên về mặt nhân bản và Kitô giáo. (FC 69)
Ngoài ra, biên cương của mục vụ hôn nhân gia đình còn bao hàm tất cả chiều kích của hôn nhân: “Với mối bận tâm muốn bảo vệ gia đình trong mọi chiều kích của nó – chứ không phải chỉ nguyên chiều kích tôn giáo – THĐGM cũng đã chú tâm xem xét một vài hoàn cảnh trái qui tắc trên bình diện tôn giáo và thường cả trên bình diện dân sự. Giữa những thay đổi nhanh chóng về văn hoá ngày nay, thật đáng tiếc những chuyện trái qui tắc này đang lan tràn ngay cả giữa những người Công Giáo, gây một thiệt hại nghiêm trọng cho cơ chế gia đình và xã hội mà gia đình là tế bào căn bản: Hôn nhân thử; Những vụ chung sống không hôn nhân; Những người Công Giáo kết hôn mà chỉ có hôn phối dân sự; Những người ly thân và những người ly dị không tái hôn; Những người ly dị tái hôn; hôn nhân đồng tính. …” (x. FC 79).
Một biên cương khác trong mục vụ hôn nhân gia đình là vấn đề chăm sóc và bảo vệ thai nhi. Vấn đề này phải đi liền với mục vụ hôn nhân gia đình. Mối bận tâm này không phải chỉ được thực hiện khi các hiện tượng tiêu cực xảy ra như một cách đối phó. Thay vào đó, ưu tư mục vụ này phải được thực hiện, phải được chuẩn bị từ xa và liên tục cho giới trẻ (từ các cấp học giáo lý cho đến sau kết hôn) ý thức được rằng: “việc bảo vệ sự sống của những người chưa sinh ra liên hệ mật thiết với việc bảo vệ bất kỳ quyền nào khác của con người. Nó dựa trên xác tín rằng một con người luôn luôn thánh thiêng và bất khả xâm phạm, ở mọi thời điểm và mọi giai đoạn phát triển của nó. Nó là cùng đích của chính nó chứ không phải là một phương tiện để giải quyết các vấn đề khác. Nếu xác tín này biến mất, thì không còn nền tảng vững chắc và lâu dài cho việc bảo vệ các quyền của con người […] Chỉ cần lý do này mà thôi cũng đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mọi sự sống con người” (FC 213).
Chúng ta đã có kế hoạch mục vụ như thế nào về hôn nhân gia đình và bảo vệ sự sống phù hợp với thời đại ngày hôm nay chưa?
Chúng ta cũng phải khiêm nhường nhìn nhận rằng chúng ta còn giới hạn trong các kế hoạch mục vụ hôn nhân gia đình và sự sống. Nhiều anh em linh mục trong chúng ta lắm lúc vẫn còn dựa trên sách vở và luật lệ mà chưa có các hành động mục vụ cụ thể. Chúng ta hy vọng THĐGM thường kỳ sắp diễn ra trong năm nay với mối quan tâm về mục vụ gia đình qua chủ đề “Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay” sẽ cho chúng ta những hướng dẫn cụ thể trong việc mục vụ hôn nhân gia đình quá ư là phức tạp này.
Nhân tiện khi nói đến biên cương mới của hôn nhân, tôi cũng muốn chúng ta suy nghĩ về mục vụ an táng.
Tại sao? Chúng ta biết rằng các dịp hiếu hỉ là những cơ hội thật thuận tiện và hữu ích để chúng ta thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho dân Ngài, là cơ hội chúng ta truyền giáo. Thực trạng sống đạo trong các giáo xứ cho chúng ta thấy không phải tất cả anh chị em giáo dân đều là những con chiên ngoan, những người sống và giữ đạo nghiêm túc. Nhiều anh chị em giáo dân chỉ đến với Giáo Hội qua những dịp như vậy.
Đặc biệt, mục vụ an táng là cơ hội rất thuận lợi để giáo xứ kiến tạo và kiện toàn sự hiệp thông nơi mọi thành viên trong giáo xứ, cách riêng nơi những anh chị em còn “lơ là” đời sống đức tin. Quả nhiên, việc kiến tạo và kiện toàn sự hiệp thông này được thể hiện rất cụ thể khi chúng ta “vui với người vui, khóc với kẻ khóc”, hiện diện để an ủi, nâng đỡ tinh thần thân nhân; khi cùng nhau chia sẻ và sống giá trị đức tin về mầu nhiệm sự sống trong Đức Kitô… Những hình ảnh thể hiện sự hiệp thông này cũng là một hành vi truyền giáo cho những anh chị em không cùng đức tin khi nhìn vào lối hành xử của chúng ta.
(Lưu ý: Thánh lễ tại gia không phải là một phần thưởng cho những người giữ đạo. Trên hết và trước hết, thánh lễ là ân sủng mà TC ban cho nhân loại qua Hy Tế của Đức Kitô. Giáo Hội, LM chỉ là máng chuyển thông ân sủng. Hơn nữa, Thiên Chúa luôn cho ánh sáng mặt trời chiếu sáng và mưa rơi trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vậy lý do gì chúng ta lại khó khăn, yêu sách khi những người thân trong tang quyến mở lòng xin một thánh lễ tại gia? Chúng ta cần vượt qua những cơ chế, những cứng cỏi trong mục vụ để tất cả vì lợi ích các linh hồn)
Cho nên, mục vụ hôn nhân và an táng cũng là dịp giáo xứ (linh mục và giáo dân) có thể đưa tay chạm đến được biên cương mới - những anh chị em đang sống trong tình trạng “ở xa” cộng đoàn, xa giáo xứ. Vì thế, việc cử hành sốt sắng các nghi thức, chuẩn bị bài chia sẻ Tin Mừng, cũng như thái độ hành xử của Linh mục, mối quan tâm tận tình của mọi thành viên trong giáo xứ không phải là một sự mời gọi nhưng là một trách nhiệm, một bổn phận mà chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiện trong hoạt động mục vụ. Vì chính trong việc cử hành sốt sắng, những bài giảng chuyển tải Lời Chúa đi vào lòng người, thái độ nhân từ của linh mục, và sự quan tâm tận tình của các thành viên trong giáo xứ, những anh chị em đang “xa quê” đó sẽ nhận ra mình không còn “xa quê”, không còn ở ngoài cộng đoàn, ở ngoài giáo xứ nhưng là một chi thể trong gia đình giáo xứ và đó chính là một trong những động lực để các anh chị em đó trở về.
Biên cương mới thứ ba chúng ta cần quan tâm là mục vụ bác ái – truyền giáo. Biên cương này chúng ta đã chia sẻ với nhau trong bài trước. Cho nên, trong phần này, một lần nữa, chúng ta chỉ lập lại một vài khẳng định chính yếu của Giáo Hội về ưu tiên chọn lựa người nghèo:
- Trong quả tim của Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo, đến nỗi chính Người “trở nên nghèo”. (EG 197)
- Hội Thánh lựa chọn người nghèo được hiểu như một “hình thức đặc biệt ưu đãi trong việc thực thi bác ái Kitô giáo, mà toàn thể truyền thống của Hội Thánh làm chứng” […] tôi muốn có một Hội Thánh nghèo cho người nghèo. […] Chúng ta cần phải để cho mình được họ (người nghèo) Phúc Âm hóa. […] Chúng ta được mời gọi để tìm thấy Đức Kitô trong họ, để cho họ mượn tiếng nói của mình mà nói lên những lý do của họ, nhưng còn là bạn bè của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn truyền thông qua họ. (EG 198)
- Nếu không có sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, “việc công bố Tin Mừng, là việc bác ái đầu tiên, có nguy cơ bị hiểu lầm hoặc bị chìm trong đại dương của những ngôn từ mà xã hội thông tin đại chúng ngày nay phô bày cho chúng ta hàng ngày (các hoạt động hay các chương trình cổ động và hỗ trợ). (EG 199)
- Sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo cần phải được phản ảnh chủ yếu trong việc quan tâm đến đặc quyền và ưu tiên về tôn giáo của họ. (EG 200)
- Những hình thức mới của nghèo đói và yếu đuối mà trong đó chúng ta được mời gọi để nhận ra Đức Kitô đau khổ, mặc dù điều này có vẻ không mang lại cho chúng ta những lợi ích hữu hình và tức thời: những người vô gia cư, nghiện ngập, tị nạn, thổ dân, những người già cả và số những người bị cô lập và bị bỏ rơi càng ngày càng đông, cùng nhiều người khác (EG 210)
Biên cương mới thứ ba trong mục vụ giáo xứ của chúng ta là những người biết Chúa nhưng xa lìa giáo xứ vì những lý do nào đó (do thiếu hiểu biết, do hiểu lầm, do hoàn cảnh, bất mãn với linh mục, giáo xứ, …). Điều này mời gọi giáo xứ (linh mục cũng như giáo dân) phải chủ động, hãy lên chương trình, kế hoạch chữa trị những thiếu sót, hiểu lầm đó. Để có thể làm được, giáo dân cũng như chính bản thân linh mục chúng ta phải có một sự cởi mở, hiểu biết và thông cảm, không thành kiến và có tâm hồn luôn hướng về Chúa qua phần rỗi của anh chị em mình.
Biên cương mới thứ tư là mục vụ truyền thông.
Ngày nay, khi nói đến truyền thông, chúng ta đề cập đến tất cả mọi phương tiện thông tin đại chúng. Chúng ta rất vui vì nhiều giáo xứ (một số cha cũng vậy) đã có những trang thông tin trên mạng (trang web hay facebook, …). Đó là những phương tiện, những công cụ rất hữu ích để chúng ta loan truyền Lời Chúa, rao giảng các giá trị Tin Mừng. Một số giáo xứ khác, tuy không có trang web, cũng đang sử dụng những hình thức truyền thông thật sinh động qua các bảng thông tin giáo xứ, những bản tin (tờ rơi) mục vụ giáo xứ phát tận tay anh chị em giáo dân và đến mọi gia đình trong giáo xứ.
Đó là những sáng kiến mục vụ đáng khích lệ cho biên cương truyền thông, mang lại những hiệu quả tích cực.
Dẫu vậy, chúng ta cũng cần nhớ, trong phương diện truyền thông giữa con người với nhau, trước hết và trên hết, truyền thông đó là truyền thông bằng ngôn ngữ, ánh mắt và hành động. Do đó, mục vụ biên cương mới này, chúng ta hãy cổ võ một cách thế truyền thông, một lối sống đầy giá trị Tin Mừng: nói bằng ngôn ngữ của Tin Mừng, nhìn bằng lăng kính của Tin Mừng, hành động theo Tin Mừng.
Biên cương cuối mà chúng ta có thể chia sẻ với nhau trong mục vụ giáo xứ là mục vụ di dân.
Hiện nay, hiện tượng di dân đang là vấn đề nóng trong mục vụ của Giáo Hội, cách riêng nơi các giáo phận, các đô thị, các vùng có khu công nghiệp, có nền kinh tế xã hội thuận lợi. Tuy nhiên, bất cứ nơi đâu cũng sẽ có kẻ đi người đến. Vì thế, chúng ta cần phải quan tâm rất nhiều đến vấn đề di dân. Hiện nay có rất đông anh chị em, nhất là giới trẻ Công Giáo từ nông thôn tìm về thành phố để đi học hoặc kiếm công việc làm ăn. Thực tế này không những tác động trên đời sống kinh tế và xã hội, nhưng cả trên đời sống và sinh hoạt đức tin. Vì thế, cộng đoàn giáo xứ – cách riêng các linh mục – cần mở rộng vòng tay đón tiếp anh chị em di dân, tạo điều kiện cho họ tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, để họ cảm nhận được mình là thành viên của gia đình giáo xứ. Như thế, không những đời sống đức tin của họ được nâng đỡ, mà họ còn trở nên những nhân tố tích cực trong việc Tân Phúc-âm-hóa.
Theo tôi, quan tâm đến vấn đề di dân gồm 2 khía cạnh: thêm dân và mất dân.
Thêm dân (mối quan tâm di dân theo nghĩa thông thường hiện nay) nơi các đô thị, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến các bạn trẻ công nhân và sinh viên, dù là Công giáo hay không Công giáo, với những sáng kiến mục vụ tông đồ nơi giáo xứ: thánh lễ cho anh chị em xa quê, các nhà trọ, tư vấn, …
Mất dân (cách riêng là giới trẻ đi học hoặc làm việc ở các thành phố lớn):
- Khi giáo dân của chúng ta đến nơi khác học tập, sinh sống, chúng ta hãy tận dụng cơ hội để thể hiện sự quan tâm, động viên (điện thoại, email, …); khi cần thiết, hãy liên hệ, cộng tác với nơi mà giáo dân của chúng ta đến làm việc, sinh sống để có thể giúp đỡ, hỗ trợ đời sống đức tin cũng như cuộc sống mưu sinh, …
- Tại giáo xứ, để giữ dân, chúng ta cũng hãy tìm kiếm, kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức bác ái, phi chính phủ để giúp giáo dân của chúng ta nâng cao đời sống, có cơ hội phát triển, thăng tiến bản thân, …
Tóm lại, kính thưa anh em linh mục,
Đứng trước những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ ngày nay, linh mục chúng ta cần phải có một sự thích ứng tích cực. Chắc chắn, chúng ta phải giữ vững và dựa vào Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng ta phải có một sự áp dụng phù hợp vào mục vụ, phải đọc được các dấu chỉ thời đại – TC muốn chúng ta làm gì trong hoàn cảnh này. Để từ đó, chúng ta có những nỗ lực, cố gắng, có những sáng kiến trong mục vụ.
Để có thể được như vậy, chúng ta phải biết lên kế hoạch mục vụ. Điều này bắt nguồn từ trong chính Kinh Thánh: Kinh Thánh cho chúng ta kế hoạch cứu độ của TC được thực hiện từng bước, từng bước ra sao. Vậy, trong mục vụ, chúng ta cũng phải biết lên kế hoạch. Kế hoạch đó phải cho thấy được:
- Làm gì? Tại sao? Làm như thế nào? (ngay cả kinh phí để thực hiện)
- Sự cộng tác giữa mọi thành phần giáo xứ
- Sự quan tâm, ân cần, tôn trọng “người nghèo của TC”: mục tử ôm con chiên lạc – con chiên hư, con chiên ghẻ - không đánh đập, xua đuổi, chửi mắng nhưng vác trên vai.
Để kết thúc, chúng ta cùng suy tư “Điều con xin Chúa”: Con xin Chúa lấy đi sự kiêu ngạo ở trong con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng” sự kiêu ngạo không phải để Chúa lấy đi, nhưng là để con từ bỏ. Con xin Chúa chữa lành sự tật nguyền của con, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: tinh thần mới là sự tuyệt hảo, còn thân xác chỉ là tạm thời. Con xin Chúa giúp con đừng gặp chước cám dỗ, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Cám dỗ sẽ dạy con biết con là ai, và giúp con biết nương tựa vào Chúa mà thôi. Con xin Chúa ban cho con hy vọng, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Hy vọng sẽ đến khi con biết cách tránh xa sự thất vọng. Con xin Chúa ban cho con sự kiên nhẫn, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Sự kiên nhẫn là sản phẩm của sự thống hối, nó không phải được ban tặng, nó phải được tìm kiếm. Con xin Chúa ban cho con hạnh phúc, và Chúa nói: không/ Chúa nói rằng: Chúa sẽ ban ơn lành, còn hạnh phúc tùy thuộc vào con. Con hỏi Chúa: Xin cho con nghỉ ngơi một chút, và Chúa nói: Con hãy tiếp tục phản ảnh tình yêu của Ta với mọi người. Con hỏi Chúa rằng: Chúa có yêu con không? Và Chúa nói CÓ. Vậy con xin Chúa giúp con yêu người khác nhiều như Chúa yêu con. Chúa nói: cuối cùng con đã hiểu ý Cha”.
Ước mong, một vài góp nhặt trong những bài chia sẻ có thể mang lại chút ít nào đó cho linh mục chúng ta trong vai trò là những người lãnh đạo, phục vụ giáo xứ. Cách riêng, trong năm Tân Phúc Âm hóa giáo xứ và cộng đoàn sống đời thánh hiến này, khi nhìn lại giáo xứ, trách nhiệm linh mục, chúng ta sẽ tái phát xuất lại từ Tin Mừng, từ những mời gọi của Giáo Hội, và cụ thể tái phát xuất lại từ chính cam kết của mỗi anh em linh mục chúng ta trong ngày chịu chức Linh Mục để không chỉ làm cho dung mạo giáo xứ tươi đẹp, tràn ngập tinh thần Phúc Âm hơn, nhưng còn làm cho bản thân linh mục chúng ta bộc lộ chính xác và sinh động hình ảnh của Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành.
1/15/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét